A. A. Sokolov
Thứ ba, 16 Tháng 4 2013 05:41
1. Lời mào đầu
Lịch sử di tản của người Việt
Nam đến các nước khác mà từ đó đã hình thành cộng đồng của người Việt Nam ở
nước ngoài, tính được gần một thế kỷ. Tuy nhiên, sự xuất ngoại ồ ạt từ Việt Nam
là một hiện tượng tương đối mới.
Cho đến nay chưa có sự thống kê
chính xác về số lượng người Việt Nam hiện đang sống ở nước ngoài. Theo tài liệu
của Bộ Ngoại giao CHXHCN Việt Nam, có khoảng 2,7 triệu người Việt Nam đang sinh
sống trong gần 90 nước trên thế giới, hơn nữa, khoảng 80% tại các nước phát
triển về mặt công nghiệp1. Phần lớn Việt kiều chọn Hợp chủng
quốc Hoa kỳ và Canada làm nơi sinh sống, tiếp theo là các quốc gia Âu châu -
Pháp, Đức, Ý, Hà Lan và Áo.
Số còn lại tìm nơi định cư tại
châu Á - ở Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan, hay một số nước Châu Phi và Nam Mỹ.
Việc người Việt Nam lưu vong
trên thế giới đã diễn ra qua một số đợt và gắn liền với những hoàn cảnh lịch sử
cụ thể. Trước năm 1975, người Việt Nam chỉ mới lẻ tẻ di trú ở một vài nước.
Những di dân đầu tiên dời khỏi nước Việt Nam hồi đó còn là thuộc địa, họ chủ
yếu sinh cơ lập nghiệp ở Pháp với số lượng không lớn. Sau cuộc chiến tranh thế
giới lần thứ hai, chủ yếu vào những năm 1960-1970, các nhóm sinh viên từ miền
Nam Việt Nam đến học ở Mỹ, Canada, Nhật, Ý và các nước tư bản khác theo kế
hoạch trao đổi hoặc theo học bổng cũng như bằng tiền riêng của cá nhân. Một số
sinh viên đã vĩnh viễn ở lại tại các nước đó.
Hiện nay một số lượng người Việt
Nam đông nhất - gần 1 triệu người - đang sinh sống ở Mỹ. Xứ sở này được coi là
một ví dụ về sự phát triển xã hội đa chủng tộc theo kiểu di trú. Trong số các
nhóm tộc người vốn là bộ phận cấu thành của Hợp chủng quốc Hoa kỳ hiện nay,
người Việt Nam là một trong số những nhóm tộc người trẻ nhất. Sự hình thành của
nhóm này bắt đầu từ nửa sau những năm 70 của thế kỷ XX, và gắn liền với một số
đợt lưu vong chủ yếu từ các vùng ở miền Nam Việt Nam2
2. Điểm qua quá trình phát triển
Những giai đoạn hình thành của
văn học Việt Nam ở hải ngoại.
Thời kỳ những năm 1975-1980 gắn liền với sự khởi đầu của việc gây dựng văn
học của những người di tản Việt Nam ở nơi đất khách quê người.
Sau năm 1975, đa số các nhà văn
miền Nam Việt Nam đã dần dần định cư ở Mỹ, Pháp, Châu Úc, Canada và các nước
khác. Đợt di tản đầu tiên gồm có những người đại diện tiêu biểu nhất của văn
học nghệ thuật miền Nam Việt Nam trước 1975. Đó là Mặc Đỗ, Nhật Tiến, Bình
Nguyên Lộc, Nhã Ca, Duyên Anh, Lê Tất Điều, Nguyễn Mộng Giác, Thanh Nam, Túy
Hồng, Nguyễn Tường Bách, Thế Uyên, Linh Bảo Nguyễn Thị Vinh, Phan Lạc Phúc, Du
Tử Lê, Viên Linh, Kiệt Tấn, Nguyễn Xuân Hoàng, Phạm Duy( nhạc sĩ), Võ Đình( nhà
văn và họa sĩ), Tạ Tỵ( họa sĩ và nhà phê bình), Đinh Cường(họa sĩ), Khánh Ly(
ca sĩ).
Nữ văn sĩ Mai Kim Ngọc từng kể
lại rằng những bước đi chập chững của mình trong văn học được thực hiện ở trại
tị nạn.
“Hồi ấy, chúng tôi không
nghĩ đến văn học… và có lẽ đồng bào tôi cũng chưa nghĩ đến văn học. Tất cả
những viết lách tôi thấy là những chuyện rất thiết thực, những bản tin chỉ dẫn
nội quy của trại, những cẩm nang cho những người sắp rời trại về cách sinh hoạt
trong một thành phố Mỹ, những chuyện đi xe buýt, chuyện gọi điện thoại, chuyện
mua bán tại siêu thị vân vân và vân vân. Tóm lại những chuyện thuần túy thực
dụng và cấp thời, chính xác và ngắn gọn như ngôn ngữ của những hoàn cảnh cấp
cứu... Tuy tất cả những gì viết ra không phải là văn học, nhưng rất nhiều tác
phẩm chúng ta đã viết với mục đích thực dụng, vẫn có giá trị văn học, không
trực tiếp thì gián tiếp. Khi rời khỏi đất nước, ít ai trong số người đó nghĩ
tới chuyện rồi đây sẽ sống ra sao. Lẽ cố nhiên, lúc đó chả còn đầu óc đâu mà
nghĩ tới văn chương nữa. Nhiệm vụ chủ yếu đối với chúng tôi là sống được cái
đã, bởi lẽ phải bắt đầu tất cả từ con số không?6
Những người Việt Nam đến Mỹ,
ngoài gánh nặng tình cảm vốn gắn liền với việc chạy trốn khỏi quê hương xứ sở,
còn phải trải nghiệm một cú sốc mạnh mẽ về văn hoá khi họ tiếp xúc với một hiện
thực mới mẻ, xa lạ và khó hiểu. Xin dẫn ra đây một trích đoạn nữa cho thấy rõ
tâm trạng của những người di tản:
“ Sự việc là thuở mới đặt
chân đến Mỹ, chúng ta sống như trong một khoảng chân không văn hóa và tình cảm.
Xung quanh chúng ta là một khung cảnh khác, luật pháp khác, phong tục khác,
ngôn ngữ khác. Những ngày đầu ra khỏi trại, tiếng mẹ đẻ của chúng ta chỉ còn
dùng được giữa vợ chồng con cái. Ra khỏi cái vòng phấn nhỏ ấy7,
tiếng Việt phải bỏ lại.
Và tất cả cảnh sống ấy xa lạ
không hẳn chỉ vì ngôn ngữ…Những người trong chúng ta thông thạo Anh ngữ ngay từ
ở Việt Nam lại còn bàng hoàng hơn khi thấy các chương trình ăn khách trên các
kênh TV, người Mỹ sinh hoạt với những quá trình hoàn tòan khác lạ, ta không hề
dự phần… Họ xử án, họ vinh danh hay lăng mạ lãnh tụ của họ, họ giải trí họ vui
họ buồn hoàn toàn khác chúng ta…
Và ta nghĩ đến tâm sự riêng tư
của mình. Cái vui cái buồn, cái làng xưa với bờ tre xanh với con sông nhỏ, với
rừng dừa ven biển, với câu hát giọng hò…”8
Mặc dầu có sự khởi động của đời
sống văn học, không mấy ai trong số các Việt kiều tin tưởng vào sự thành công
của sự nghiệp mà họ đã gây dựng. Những lời sau đây của nhà văn Võ Phiến trong
phần mở đầu cuốn Thư gửi bạn (1976) là sự xác nhận cho những tâm trạng
ấy;
“Từ ngày bỏ nước ra đi, tôi
đâu còn nghĩ đến chuyện nghệ thuật văn chương nữa” Ông giải thích “ Ai
lại nghĩ xây dựng một sự nghiệp văn nghệ trong vòng vài trăm ngàn người, tản
mát khăp mặt địa cầu, mỗi ngày một xa lạc ngôn ngữ dân tộc, xa rời cuộc sống
dân tộc.” Viết với Võ Phiến lúc này chỉ là để thỏa mãn một “ nhu cầu lẩm
cẩm”9
Bước ngoặt trong tâm trạng của
giới văn chương đã diễn ra muộn hơn.
Thời kỳ thứ hai của văn học Việt Nam ở hải ngoại bắt đầu vào năm
1980 và trùng hợp với sự xuất hiện của các "thuyền nhân" Trên các
trang của tờ tạp chí "Văn", nhà văn Vũ Khắc Khoan đã nhấn mạnh:
"những người này - những "thuyền nhân tị nạn" - bằng sự xuất
hiện của mình đã khuấy động văn học và nghệ thuật Việt Nam ở hải ngoại, đã thúc
đẩy sự vận động của nó tới một giai đoạn mới trong sự hình thành và phát triển."12
Nếu phần lớn dân tị nạn thuộc
đợt thứ nhất gồm những người có mối quan hệ nhất định với Mỹ thì những người ở
đợt di tản thứ hai phải tự đi tìm cách dời khỏi Việt Nam. Sau khi đến một quốc
gia này hay một quốc gia khác ở Đông Nam Á, họ phải chờ đợi khá lâu để nước thứ
ba cho phép họ chuyển đến. Và cái quy chế ấy của người tị nạn cũng như việc có
được nó đã gây ra ở họ một cú sốc tinh thần sâu sắc, điều này, lẽ tất nhiên, đã
được phản ánh trong sáng tác văn học sau này của họ.
Thời kỳ thứ ba(1982-1990), đã đặt cơ sở vững chắc cho sự phát triển tương đối ổn định
của văn học Việt Nam ở hải ngoại. Số tác giả mới và số lượng sách được xuất bản
đã gia tăng, những nhà xuất bản chuyên nghiệp đã ra đời, và đã xuất hiện một
đời sống văn học thực thụ - phong phú và đa dạng. Có thể nói rằng thời kỳ này
là thời kỳ thuận lợi nhất và có kết quả nhất trong lịch sử văn học Việt Nam ở
hải ngoại.
Vào những năm đó số lượng tiểu
thuyết được công bố còn ít. Tác phẩm đáng kể nhất trong thể loại này là bộ tiểu
thuyết sử thi 5 tập Mùa biển động của Nguyễn Mộng Giác. Truyền thống của
tiểu thuyết (theo cách hiểu của Châu Âu về thể loại này) trong văn học Việt Nam
còn khá non trẻ. Để viết được những tác phẩm có quy mô như vậy cần phải có kinh
nghiệm sống phong phú và tài năng, do đó, nhiều nhà văn lưu vong có thể bộc lộ
mình rõ nét nhất trong các tác phẩm văn xuôi cỡ nhỏ.
Với sự lưu ý tới tất cả những
nhân tố đó, thể loại truyện ngắn về mặt lô gích đã trở thành thể loại dẫn đầu
trong văn học Việt Nam ở hải ngoại. Hầu như tất cả các nhà văn mới đều là những
cây bút truyện ngắn, trong số đó trước hết cần phải nêu lên những tên tuổi: Thế
Giang, Trần Vũ, Vũ Quỳnh Hương v.v....
Vào thời kỳ phát triển tiếp
theo, thời kỳ thứ tư (1990-1995) nhịp độ phát triển văn học Việt Nam ở
Mỹ đã chậm lại và ngày càng ít những tác giả mới xuất hiện, ngày càng ít những
tác phẩm hay và có giá trị về mặt nghệ thuật được công bố.
Trong giới báo chí hải ngoại,
vấn đề về tình trạng đình đốn trong đời sống văn học nghệ thuật của cộng đồng
người Việt ở hải ngoại được bàn luận sôi nổi. Và rất nhiều người đã đi đến nhận
định cho rằng căn nguyên của nó là những biến đổi chính trị đã diễn ra ở Việt
Nam và trên thế giới nói chung. Sự tan rã của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế
giới và sự sụp đổ của Liên bang Xô viết, việc thiết lập quan hệ ngoại giao giữa
CHXHCN Việt Nam và Hợp chủng quốc Hoa kỳ vào năm 1995, nước Việt Nam cộng sản
dần dần hoà nhập với thế giới đã buộc văn học Việt Nam ở hải ngoại phải thay
đổi.
Được bắt đầu từ năm 1995 và
được tiếp tục cho tới ngày nay, thời kỳ thứ năm trong sự phát triển văn
học của cộng đồng người Việt định cư ở Mỹ và ở một số nước khác nhìn chung gắn
bó chủ yếu với những vấn đề sau đây:
- Tiếp tục duy trì văn học Việt
Nam bằng tiếng mẹ đẻ và bảo tồn những cơ sở văn hoá- văn học Việt Nam đã hình
thành tại các nước cư trú hiện nay.
- Sự hoà nhập của các tác giả
Việt Nam vào đời sống văn học của nước mà họ đang sinh sống (đối với những
người viết bằng tiếng Anh ở Mỹ, Canada và úc, bằng tiếng Pháp ở Pháp v.v....)
- Sự hồi hương (trở về Việt
Nam) của các tác giả viết bằng tiếng Việt.
3. Những khuynh hướng chủ yếu của sự phát triển văn học
Việt Nam ở hải ngoại
Hoài niệm và hội nhập
Nếu thử nêu lên vắn tắt tình
hình văn học Việt Nam ở hải ngoại thì đó là sự phân chia rạch ròi của các nhà
văn ra làm hai khuynh hướng mà quan điểm tư tưởng- nghệ thuật và sáng tác được
định hướng vào quá khứ hay vào hiện tại. Từ khoá đối với các nhà
văn thuộc khuynh hướng đầu là hoài niệm, còn đối với các nhà văn thuộc
khuynh hướng thứ hai là hội nhập. Văn học Việt Nam ở hải ngoại được hình
thành và tiếp tục tồn tại chính là trong cái hệ toạ độ ấy.
Trong những năm đầu tiên định
cư trên đất Mỹ (1975-1979), hoài niệm đã trở thành chủ đề chính trong nhiều tác
phẩm của các tác giả Việt Nam mà nét nổi bật là nỗi đau ly tán với quê hương xứ
sở, sự cô đơn và sự vô vọng đối với tương lai. Những tình cảm ấy được thể hiện
dễ dàng hơn trong thơ so với văn xuôi. Những sáng tác đầu tiên của các tác giả
thuộc khuynh hướng này - như Thơ của Cao Tân và "Đất khách"
của Thanh Nam -- đã xác nhận điều đó.
Những tình cảm tương tự của
những người tị nạn xa xứ cũng được ghi lại trong văn xuôi - trong truyện ngắn
và tùy bút của Võ Phiến ( Thư gửi bạn , Nguyên vẹn), của các tác
giả khác như Tuý Hồng, Trùng Dương, Thanh Nam. Tuy nhiên, do những điều kiện
khách quan của những năm đầu lưu vong, khi việc ra báo định kỳ và hơn nữa, việc
xuất bản sách mới chỉ có những bước đi đầu tiên thì chính thơ ca với hình thưc
thích hợp về mặt thể loại và hình tượng đã cho phép thực hiện một cách kịp thời
nhất một nhiệm vụ khó khăn là thông báo cho những người đồng hương xa xứ về nỗi
đau khôn nguôi của mình đối với cố hương.
Dần dần, nét lạc quan đã trở
lại với thơ ca hải ngoại, phạm vi những vấn đề do các tác giả đề cập tới được
mở rộng và (điều này rất tiêu biểu) trình độ tư tưởng- nghệ thuật của tác phẩm
được nâng cao rõ rệt. Niềm tin vào sức mình đã trở lại với mọi người. Cuộc sống
của họ ở xứ lạ bắt đầu có ý nghĩa, và điều đó thực ra đã được phản ảnh trong
văn học.
Những thay đổi ấy thể hiện rõ
nét nhất trong truyện ngắn của Hồ Trường An, tiêu biểu nhất trong số đó là Hợp
lưu. Trong những truyện ngắn của mình, tác giả mong muốn truyền đạt nhịp độ
và tâm trạng của cuộc sống mới, ở đó nỗi buồn và tiếng cười xen kẽ bên nhau, sự
chiêm nghiệm trầm tư và sự hào hứng lao động "như Tây" vì hạnh phúc
và sự phồn vinh tương lai của mình ở Mỹ ngày càng có hiệu quả. Nhờ những tác
phẩm ấy, như nhận xét của một số nhà phê bình văn học, thái độ đối với quá khứ
được ý thức một cách hợp lý hơn, còn thái đội đối với hiện tại và tương lai thì
trở nên điềm tĩnh hơn.
Hiện thực dân tộc, hồi ký và tư
liệu lịch sử
Ngay từ đợt di tản thứ nhất,
trong văn học Việt Nam ở hải ngoại đã hình thành khá rõ ba dòng: 1. Dòng văn
chương phong tục (một số nhà nghiên cứu đề nghị dùng các thuật ngữ hiện thực
dân tộc (etnorealisticheskij) hoặc văn hoá dân tộc (etnokul'turuyj),
2. dòng hồi ký và 3. dòng tư liệu-lịch sử
Dòng đầu tiên gồm đại đa số tác
giả là người miền Nam Việt Nam. Cốt truyện trong sáng tác của họ (chủ yếu là
thể loại truyện ngắn) gắn liền vói cuộc sống hàng ngày của tầng lớp dân nghèo
và trung lưu trong những năm dưới chế độ thuộc địa của Pháp (Hồ Trường An, Xuân
Vũ, Ngô Nguyên Dũng, Huyền Châu, Nguyễn Văn Ba), trong thời kỳ tồn tại của chế
độ Việt Nam cộng hoà trước ngày 30/4/1975 (Kiệt Tấn, Hồ Trường An, Nguyễn Tấn
Hùng) cũng như trong những điều kiện của chế độ xã hội chủ nghĩa mới sau khi
nước Việt Nam thống nhất (Nguyễn Đức Lạp, Võ Kỳ Điện, Nguyễn Văn Sâm). Bên cạnh
sự phong phú của những chi tiết sinh hoạt rực rỡ, giàu hình ảnh của cuộc sống quá
khứ ấy, họ đã sử dụng rộng rãi "ngôn ngữ hội thoại", điều đó rõ ràng
góp phần thúc đẩy sự phát triển hơn nữa của văn học Việt Nam ở hải ngoại, trước
hết đối với việc giải quyết những nhiệm vụ sáng tác về mặt tư tưởng- nghệ thuật
và triết học.
Dòng hồi ký trong văn học Việt
Nam ở hải ngoại được hình thành cùng một lúc với việc cuộc sống của họ dần dần
ổn định về mặt kinh tế ở Tân thế giới. Những cuốn sách này đã ghi lại quá khứ
mới đây của nhiều nhân vật cao cấp trong chính quyền Sài Gòn cũ các tướng lĩnh (Nguyễn
Cao Kỳ, Đỗ Mậu, Nguyễn Chánh Thi, Huỳnh Văn Cao, Trần Ngọc Nhuận v.v...) các
chính khách (Bùi Diễm, Nguyễn Tiến Hưng, Trần Huỳnh Châu) và các văn nghệ sĩ
(Phạm Duy, Duyên Anh, Nhã Ca). Tất cả những cuốn sách ấy chứa đựng (chăc chắn
là ở mức độ khác nhau) tư liệu phong phú về các sự kiện và những cách đánh giá
cá nhân rất đáng chú ý đối với độc giả bình thường, nhất là đối với các nhà
nghiên cứu các nhà nghiên cứu các nhà lịch sử, các nhà xã hội học, các nhà
nghiên cứu văn học v.v...
Trong những cuốn sách của mình,
các tác giả ấy thường chỉ ghi lại hoặc kể lại các sự kiện; kinh nghiệm sống và
sáng tác của họ chưa vươn tới tầm khái quát cao mang tính chất triết lý nghệ
thuật cũng như chưa được tạo dựng để đưa họ trở thành các nghệ sĩ ngôn từ.
Có mối liên hệ trực tiếp với
dòng hồi ký là những tác phẩm viết về đề tài lịch sử. Cho đến tận ngày nay, nội
dung chủ yếu của văn học Việt Nam ở hải ngoại là quá khứ vốn có thể được lý
giải và được phản ảnh thông qua số phận cụ thể của từng con người riêng biệt cụ
thể cũng như dưới dạng tác phẩm sử thi đồ sộ.
Một cống hiến không thể phủ
nhận vào văn học Việt Nam là những cuốn tiểu thuyết Mùa biển động và Sông
Côn mùa lũ của Nguyễn Mộng Giác, Người đi trên mây của Nguyễn Xuân
Hoàng, Giấc mộng của Nguyên Sa v.v... Cũng phải nhắc tới những tác giả
như Thích Nhất Hạnh và Nghiêm Xuân Hồng là những người viết về các vấn đề tôn
giáo triết học. Sách của họ, mặc dầu mang tính chuyên biệt nhất định, có giá
trị nghệ thuật cao và được phổ biến rộng rãi giữa các độc giả.
4. Những véc tơ của sự phát triển văn học Việt Nam ở hải
ngoại
Khác với các tác giả được định
hướng về mặt quan niệm và sáng tác vào những vấn đề của quá khứ (về họ đã được
nói tới ở phần trên), khuynh hướng hội nhập trong văn học Việt Nam ở hải ngoại
dần dần chiếm những vị trí đáng kể trong những quá trình xã hội và sáng tác
đang diễn ra trong cộng đồng người Việt ở nước ngoài. Và hiện tượng này có tính
chất lô gích. Thế hệ đầu tiên của những người di tản vốn được định hướng vào
những gia trị văn hoá truyền thống của Việt Nam và trước hết vào tiếng Việt,
ngày một già đi, trong khi đó các thế hệ tiếp theo (thế hệ thứ hai và nhất là
thế hệ thứ ba) ngày càng được Mỹ hoá và hầu như không gắn bó tương lai của mình
với Việt Nam (mặc dầu ngay cả ở đây cũng có những ngoại lệ).
Nếu chú ý tới sự thống kê thì
đa số tác tác phẩm viết về kinh nghiệm hội nhập của người Việt Nam vào cuộc
sống Mỹ là do phụ nữ viết. Đó là Vị Khuê, Trần Diệu Hằng, Lê Thị Huệ, Phan Thị
Trọng Tuyền, Vi Quỳnh Hương, Nguyễn Thị Ngọc Nhung v.v... Trong số các nhà văn
nam giới viết về vấn đề này có Võ Phiến ("Thư gửi bạn "), Nguyễn Bá
Trạc ("Ngọn cỏ bồng", "Chuyện một người di cư nhức đầu vừa
phải") Võ Đình ("Xứ sấm sét", "Sao có tiếng sóng")
v.v...
Trong sáng tác của mình, các
tác giả viết về những vấn đề thông thường đối với bất cứ một cộng đồng di tản
nào, nhất là ở những giai đoạn hình thành đầu tiên của nó. Đó là sự tan vỡ của
cuộc sống yên ổn trước đây, những khó khăn của thế hệ những người di tản đầu
tiên do sự khác biệt về văn hoá và ngôn ngữ nên không thể hoà nhập nhanh chóng
vào hiện thực Mỹ, sự cô đơn của người già, sự suy thoái hoá về đạo đức, hiện
tượng lớp trẻ rút khỏi "cộng đồng người Việt", sự tan nát của gia
đình, sự phân hoá xã hội sâu sắc trong nội bộ cộng đồng di tản v.v...
Mặc dầu trong đa số tác phẩm,
sự thích nghi và hội nhập của người Việt được miêu tả với sắc thái bi quan -
thông qua những dằn vặt lớn lao về đạo đức và những khó khăn vật chất, tuy thế
vẫn có những trường hợp ngoại lệ. Chẳng hạn, cây bút văn xuôi Hồ Trường An từng
được nhắc tới ở phần trên, trong thiên truyện ngắn "Hoà hợp" đã lạc
quan tiếp nhận cuộc sống mới mà ông ta và những người đồng hương của mình đành
phải bắt đầu ở Mỹ. Trong truyện ngắn "Gió đêm" Trần Thị Kim Lan viết
về sự hiểu biết lẫn nhau giữa những người thuộc các dân tộc khác nhau. Trong
những truyện ngắn của mình, Mai Kim Ngọc nhìn chung thiên về việc đánh giá một
cách tích cực đối với cuộc sống của người Việt trong những đièu kiện xã hội -
văn hoá mới.
Đa số những người di tản thuộc
thế hệ đầu tiên không thể hoà nhập vào văn hoá của nước bản địa. Trong khi đó
thì thế hệ thứ hai hoặc thế hệ thứ ba- những người dời khỏi Việt Nam từ hồi còn
nhỏ hoặc đã sinh ra trên đất Mỹ, học trường bản địa - dễ dàng hoà nhập vào xã
hội, và nền văn hoá mới. Đã xuất hiện những tác giả trẻ chỉ viết bằng tiếng Anh
hay tiếng Pháp. Những cuốn sách của họ tái hiện lại các cốt truyện Việt Nam có
lẽ với chủ ý dành cho độc giả nước ngoài.
Kinh nghiệm hội nhập vào cuộc
sống trở thành đề tài chủ yếu trong các tác phẩm (phần lớn là truyện ngắn) của
các nhà văn thuộc thế hệ thứ hai viết bằng tiếng Việt và bây giờ đã từ 40 tuổi
đến 50 tuổi trở lên. Ở Mỹ đó là Phạm Thị Ngọc, Nguyễn Hoàng Nam, Ngọc Khôi,
Hoàng Mai Đạt, Dương Như Nguyện, Vũ Quỳnh N.H. Đỗ Kh., Bùi Diễm Âu, Võ Đình, Phan
Nhiên Hạo, Nguyễn Hương, Nguyễn Danh Bằng; ở Pháp đó là - Thuỵ Khê, Trần Vũ,
Mai Ninh, Thuận; ở Canada, đó là - Nam Giao; ở Úc đó là Hoàng Ngọc Tuấn và
Nguyễn Hưng Quốc; ở Đức đó là - Lê Minh Hà v.v... Trong tác phẩm của họ có ít
cốt truyện về cuộc sống trước đây ở Tổ quốc, bởi lẽ họ đã ra đi từ hồi còn nhỏ
và đối với họ, Việt Nam không phải là cái cảm nhận được và cái mong muốn như
đối với thế hệ cha anh của họ. Bởi vậy họ viết về cuộc sống hiện tại của mình,
dù đó là Mỹ, Pháp hoặc Nhật, xuất phát từ tình hình thực tế của cái thế giới
hiện đại bao quanh họ. Họ rất tự tin, thoải mái trong việc thể hiện tình cảm và
bộc lộ những nhận định. Sáng tác văn học không phải là cái chủ yếu trong hoạt
động thực tiễn của họ, họ không đóng vai trò chủ chốt trong đời sống văn học
của cộng đồng người di tản, tất cả những nỗ lực của họ đều hướng tới sự thành
đạt trong xã hội mới. Khác với các nhà văn thuộc thế hệ đầu tiên, đối với nhiều
người trong số họ, văn học chủ yếu là sự tiêu khiển, sự giải trí về mặt tinh
thần mà không phải là nhu cầu bức thiết của cuộc sống. Hơn nữa, họ đang ở trong
một tình thế đặc biệt - họ cần phải đi tìm độc giả của mình vốn, cũng như họ,
thuộc về cái thế hệ mà họ có thể chia sẻ những suy nghĩ và tình cảm của mình
thông qua các tác phẩm viết bằng tiếng Việt.
Không phải tất cả các nhà văn
này nhất quán đi theo con đường đó - viết bằng tiếng Việt. Một bộ phận không
nhỏ đã hoặc sẽ nhanh chóng chuyển sang tiếng Anh, tiếng Pháp hoặc các thứ tiếng
khác với tư cách là công cụ sáng tác và giao tiếp, bởi lẽ sự lựa chọn này giúp
họ hoà nhập vào dòng chảy chung của văn học ở nước họ định cư và vào văn học
thế giới nói chung. Nói một cách hình tượng, họ đang tìm sự cân bằng giữa hai
thế hệ - thế hệ thứ nhất, lớn tuổi hơn và thế hệ tiếp theo sau họ, trẻ hơn, vốn
hoàn toàn hướng tới sự hội nhập vào môi trường mới và ngôn ngữ mới. Cùng với
thế hệ đầu tiên, họ sẻ chia lòng yêu mến tiếng Việt, nhưng không xẻ chia gánh
nặng tình cảm đối với quá khứ. Cùng với thế hệ thanh niên, họ tiếp nhận một
cách thực tế và thực dụng cuộc sống mà hiện nay họ phụ thuộc, nhưng tuy thế
trong văn học họ bị ngăn cách bởi rào cản ngôn ngữ- bởi tiếng Anh, tiếng Pháp
hay tiếng Đức. Hiện ở bên ngoài lãnh thổ Việt Nam đã hình thành cả một đội ngũ
nhà văn đồng thời thuộc về hai nền văn hoá - văn hoá Việt Nam và văn hoá của
nước mà nhà văn định cư. Ở Mỹ, một tác giả tiêu biểu nhất của văn học Việt Mỹ-
là Andrew Lam- một nhà chính luận nổi tiếng và một cây bút chuyên viết truyện
ngắn bằng tiếng Anh cũng như Monich Trương, Aimee Phan, Lan Cao, Kien Nguyễn,
Lê Thị Diễm Thuý, Dao Strom, Nguyễn Minh Bit, Mộng Lan v.v... Kim Lefevr và
Linda Le đã viết những áng văn xuôi rất hay bằng tiếng Pháp. Những tác giả
thuộc khuynh hướng này đã thu hút được sự chú ý của những nhà xuất bản sách và
giới phê bình, đã nhận được các giải thưởng quốc tế.
5. Tương lai thuộc về độc giả (thay phần kết luận)
Tác phẩm văn học còn sống khi
nó được mọi người đọc. Nếu không có độc giả thì văn học ắt bị lãng quên. Bậc
trưởng lão của văn học Việt Nam ở hải ngoại là Võ Phiến đã nhiều lần nói rằng ở
chốn xa xứ, văn học Việt Nam viết bằng tiếng mẹ đẻ (tiếng Việt) không thể tồn
tại lâu dài được nếu không có mối liên hệ với cội rễ của nó, tức là với Việt
Nam. Nhà phê bình văn học Nguyễn Hưng Quốc đã biểu thị tình trạng đó một cách
bi đát hơn:
" Lưu vong thường được
mở đầu bằng một bi kịch chích trị hoặc một bi kịch kinh tế nhưng kết thúc bằng
bi kịch văn hoá. Càng ngày tôi càng thấm thía một điều : Sống và viết ở hải
ngoại không phải chỉ là sống và viết ở hải ngoại. Khi nhà văn rời quê hương để
ra định cư và sáng tác ở một chỗ ở và một bàn viết mà còn thay đổi một thế giới
với mối liên hệ chằng chịt phức tạp để rồi - một cách tự giác hay không - dần
dần thay đổi cách nghĩ, cách cảm từ đó cách viết và cuối cùng, không chóng thì
chầy, thay đổi cả căn cước (identity) của chính hắn với tư cách nhà văn
nữa" 12
Để không bị lâm vào tình thế
của sự lựa chọn cơ bản như vậy, nhiều nhà văn Việt Nam ở hải ngoại đem tương
lai tác phẩm văn học của mình gắn liền với công chúng độc giả ở Việt Nam, song
điều đó không đơn giản. Hơn nữa, chúng tôi nhận thấy rằng sách báo của nước
Việt Nam xã hội chủ nghĩa thì có thể dễ dàng tìm thấy trong các thư viện và
hiệu sách (chủ yếu của Việt kiều) ở Mỹ, còn tác phẩm của các tác giả người Việt
ở hải ngoại thì rất hãn hữu được xuất bản ở Việt Nam, và nguyên nhân chủ yếu
của tình trạng này trước hết là nguyên nhân ý thức hệ.
Nhà thơ Ba Lan nổi tiếng Milos
Forman, giải thưởng Nobel, nhiều năm sống lưu vong ở My và cuối đời đã trở về
Tổ quốc, từng nói về số phận của nhà văn lưu vong: "Chúng ta không nghe
thấy tiếng nói của nhà văn lưu vong, đó chỉ là một động tác mà thôi", tức
là nhà văn đó và tác phẩm của anh ta trên thực tiễn không đến được với độc giả
của mình ở trong nước. Song vào những năm gần đây tình hình trên thế giới đã
thay đổi: đã xuất hiện Internet vốn vượt qua những khoảng cách khổng lồ và
những biên giới quốc gia. Hiện nay tồn tại không ít kiểu xuất bản Internet, qua
đó văn học Việt Nam ở hải ngoại đã tới được Việt Nam. Tất nhiên nó không thể
thay thế được kiểu xuất bản in ấn; ngoài ra, ở Việt Nam còn có sự kiểm duyệt
khắt khe và sự giám sát của nhà nước đối với Internet vốn có thể cung cấp thông
tin và sự tiếp cận với các tác phẩm văn học. Nổi tiếng hơn cả là hai tờ tạp chí
mạng - Talawas (người phụ trách là nhà văn nữ có tên tuổi Phạm Thị Hoài
hiện sống ở Đức) và Tiền Vệ (người phụ trách là nhà phê bình văn học nổi
tiếng Nguyễn Hưng Quốc, hiện sống ở Úc) Nhiều tờ tạp chí in ấn ("Hợp
lưu", "Văn học", v.v.) cũng có mạng riêng.
Đường lối chính trị của các nhà
lãnh đạo CHXHCN Việt Nam hiện nay là tiếp tục phát triển sự hội nhập của nước
này với cộng đồng thế giới. Những thay đổi diễn ra trong chính sách nhà nước
đối với Việt kiều vốn cần phải trở thành nhịp cầu vững chắc giữa Việt Nam và
thế giới bên ngoài đã chứng tỏ điều đó. Chính sách mới này mà ý nghĩa chủ yếu
là coi Việt kiều là một bộ phận không thể tách rời của dân tộc Việt Nam, được
ghi trong bản Nghị quyết số 36 của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam ngày
26/3/2004.
Ở Việt Nam hiện nay rõ ràng có
sự chú ý tới sáng tác văn học của kiều bào đang sinh sống ở hải ngoại. Điều này
được thể hiện trong một số bài viết hiếm hoi trên báo chí cũng như trong việc
xuất bản sách của chính các Việt kiều.
Nhà văn nổi tiếng Nguyên Ngọc,
một trong những cây bút hàng đầu của văn học Việt Nam trong hai cuộc kháng
chiến chống đế quốc Pháp và Mỹ, cho rằng :
" …một tác phẩm viết
bằng tiếng Việt, dù của bất cứ ai, viết bất cứ ở đâu, vào bất cứ thời gian nào,
miễn là nó hay, thì đều là tài sản chung của dân tộc Việt Nam.. Những người
Việt Nam ở nước ngoài trong mấy chục năm qua đã hoàn thành một khối lượng văn
học không thể phủ nhận được. Đó là một bộ phận của văn học Việt Nam hiện đại,
và điều này chẳng có gì phải bàn cãi. Cùng với văn học trong nước, văn học hải
ngoại làm nên diện mạo của văn học Việt Nam ngày nay.
Sẽ cực kỳ thiếu sót nếu biết
văn học Việt Nam ngày nay mà không biết đến văn học Việt Nam hải ngoại. Vấn đề
có lẽ chủ yếu là ở những chỗ này: Sự đóng góp đáng kể nhất của bộ phận văn học
này đối với văn học Việt Nam hiện đại là ở chỗ nào và triển vọng của nó ra sao?
Theo tôi bộ phận văn học này
phản ánh số phận của một bộ phận quan trọng trong dân tộc ta mà những người
viết trong nước khó có khả năng tiếp cận, hiểu và viết được. Thiếu nó thì văn
học chúng ta sẽ khuyết đi một mảng rất lớn và rất quan trọng của khuôn mặt con
người Việt Nam trong thời sóng gió hung bạo của lịch sử dân tộc như chúng ta đã
và đang trải qua... Văn học Việt Nam do vậy sẽ què quặt"13
Hiện nay, vấn đề chủ yếu, theo
nhà văn, là ở chỗ "phải làm thế nào cho cả hai bộ phận đó của văn học
(trong nước và ngoài nước) "thông thương " được với nhau, phá dỡ
những trở ngại vô lý giữa hai bộ phận của một cơ thể văn học thực ra thống nhất
" 14
Trong thời gian gần đây, Trung
tâm Văn hoá và ngôn ngữ Đông Tây, các công ty "Phương Nam" và
"Nhã Nam", các nhà xuất bản của nhà nước, đã có những nỗ lực tích cực
trong việc xuất bản ở Việt Nam tác phẩm của các tác giả Việt Nam ở hải ngoại.
Trên con đường này cũng có những trở ngại nhất định, đó chính là : 1. Thiếu sự
chuẩn bị cho các tác giả Việt Nam để tiếp thu nội dung và những đặc điểm về
phong cách nghệ thuật trong các tác phẩm của các tác giả hải ngoại, những tác
phẩm này rất khác với sách của các nhà văn CHXHCN Việt Nam, và 2. Sự giám sát
ngặt nghèo từ phía các cơ quan nhà nước đối với các tác phẩm "có những vấn
đề chính trị " 15 Hiển nhiên, điều thứ hai thường trở
thành yếu tố quyết định đối với số phận tác giả lưu vong trên Tổ quốc lịch sử
của họ.
Tuy vậy, những ví dụ về việc
công bố tác phẩm của các nhà văn lưu vong Việt Nam trên Tổ quốc lịch sử của họ
mỗi ngày một trở nên nhiều hơn. Chẳng hạn, giáo sư Nam Dao hiện sống ở Canada,
rất có uy tín trong giới khoa học và trong cộng đồng hải ngoại của ông. Trong
những năm chiến tranh chống Mỹ, ông đã tích cực giúp đỡ Việt Nam, sau năm 1975,
ông thường xuyên về nước. Ông là tác giả của những tập thơ và những tập truyện
ngắn cũng như của những cuốn tiểu thuyết, nhất là tiểu thuyết lịch sử. Vào
những năm gần đây, ông có hai cuốn tiểu thuyết được in ở Việt Nam - "Trăng
nguyên sơ" và "Đất -- trời".
Cây bút văn xuôi Đỗ Kh. thường
xuyên sống ở Mỹ. Ở Việt Nam nhà xuất bản Văn hoá thông tin đã cho ra mắt độc
giả cuốn " Ký sự đi Tây". Cuốn sách này bán rất chạy và mới đây đã
được tái bản.
Năm 1998, bộ tiểu thuyết sử thi
gồm 4 tập "Sông Côn mùa lũ" của Nguyễn Mộng Giác được xuất bản tại
Việt Nam. Tác phẩm này kể về một thời oanh liệt khi nhà Tây Sơn và Nguyễn Huệ
trị vì đất nước. Tác giả viết bộ sách này tại Việt Nam, trước khi di tản sang
Mỹ.
Vào những năm gần đây, tác phẩm
văn học của các tác giả Việt Nam khác đang sống ở hải ngoại đã đến với bạn đọc
trong nước: văn xuôi của Mai Ninh ("Ảo đăng"), khảo cứu triết học
"Tư duy tự do" của Phan Huy Đường, khảo cứu lịch sử "Thần, người
và đất Việt" của Tạ Chí Đại Trường, chuyên luận khoa học "Tôn giáo và
xã hội hiện đại" của Cao Huy Thuần. Tại thành phố Hồ Chí Minh có in tập
thơ của nhà thơ nổi tiếng Du Tử Lê hiện đang sống ở Mỹ.
Cần phải nói riêng về thế hệ
nhà văn trẻ. Phan Việt có nghề chính là nhà xã hội học, hiện sống và làm việc ở
Mỹ. Chị được trao giải nhì cho tập truyện ngắn Phù phiếm truyện tại cuộc
thi "Văn học tuổi 20" do báo Tuổi trẻ" và Nhà xuất bản Trẻ
(thành phố Hồ Chí Minh) tổ chức.
Nữ văn sĩ Thuận hiện sống ở
Paris. Cuốn sách đầu tiên của chị Made in Việt Nam được xuất bản
ở Mỹ. Trong ba năm gần đây, chị cho in một số tiểu thuyết China town, Paris,
11 tháng 8, T. mất tích. Tác phẩm sau cùng này được Hội Nhà văn Việt
Nam trao giải thưởng vào năm 2005. Hai năm sau, một nữ văn sĩ Việt kiều khác là
Đoàn Minh Phượng cũng nhận được giải thưởng tương tự về cuốn tiểu thuyết
"Và khi tro bụi". Ở tuổi 20, chị đã dời khỏi Việt Nam để sang Đức.
Ngoài ra, chị còn là đạo diễn và nhà sản xuất những bộ phim Hạt mưa rơi bao
lâu, và Tết Nguyên tiêu.
Rõ ràng là văn học Việt Nam ở
hải ngoại rất khó sống nếu thiếu công chúng độc giả ở Việt Nam. Quá trình toàn
cầu hoá về kinh tế và văn hoá vốn càng ngày càng có sức cuốn hút mạnh mẽ đối với
nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, phải góp phần thúc đẩy việc bắc những nhịp cầu
vững chắc giữa văn học ở trong nước và văn học ở ngoài nước, mà điều đó đến
lượt nó, sẽ xúc tiến quá trình phục hồi sự công bằng lịch sử- trả lại cho các
nhà văn Việt Nam và những tác phẩm của họ ở hải ngoại cho Tổ quốc lịch sử của
mình./.
.....................................
Về tác giả A.A. Sokolov, Phó giáo sư tiến sĩ sử họcViện
Phương Đông Viện Hàn lâm khoa học Nga
Đã có trên 100 công trình gồm các bài báo và cuốn sách viết
về Việt Nam
--Từ điển Việt Nga đã in ba lần trong đó có hai lần ở Việt Nam
--Hội thoại Nga Việt – Hội thoại Việt Nga đã in 5
lần trong đó 2 lần tái bản ở Việt Nam
--Quốc tế Cộng Sản và Việt Nam Chuyên khảo – Đã
dịch và in ở Việt Nam 1999
-- Những người Nga ở Việt Nam ( đang dịch)
-- Nhật ký du lịch Việt Nam của Công tước K.A.
Viazemski
Đã dự và đọc tham luận tại nhiều hội thảo về văn hóa Việt
Nam, trong đó có bài Văn hóa và văn học VN trong điều kiện tòan cầu hóa
đã in trên tạp chí Thông tin khoa học xã hội 2010.
Chú giải
1/ Nghị quyết 36 của Bộ Chính
trị về công tác đã với người Việt Nam ở nước ngoài
//www.mofa.gov.vn/vi/vdquantam/ns 041215094400, ngày khai thác 21-12-2008. Theo
những tài liệu khác, số người Việt Nam ở hải ngoại là hơn 3 triệu người.
2/ Chi tiết hơn, xem : Một
số khía cạnh kinh tế- xã hội của việc hình thành cộng đồng người Việt Nam ở Mỹ//
Nước Việt Nam truyền thống. M. 2008, T3, tr 162-186
6/ Mai Kim Ngọc. Vài cảm
nghĩ về văn học hải ngại// Tạp chí Văn học (California) 1995, số 109,
tr. 4,6.
7/ Ở đây muốn nói đến những
loại tị nạn được lập ra trên lãnh thổ Hoa kỳ: tại các bang California,
Arcanzas, Florida, Pensilvania.
8/ Mai Kim Ngọc. Vài cảm
nghĩ về văn học hải ngoại (tldd), tr 12
9/ Dẫn theo Nguyễn Hưng Quốc Hai
mươi năm văn học Việt nam hải ngoại. Tuyển tập Hai mươi năm văn học Việt
nam hải ngoại 1975-1995 Chủ trương Trương Đình Võ Nhà xuất bản Đại Nam
California 1995, tập 1, tr 15
12/ Nguyễn Hưng Quốc. Sống
và viết như người lưu vong// Văn học Việt Nam từ điểm nhìn hậu hiện đại.
California. Văn nghệ, 2000. Tr 222-234
13/ Phỏng vấn đài BBC
31/07/2003. Dẫn theo: Nguyên Ngọc. Văn học, nội lực, trong ngoài//
hoiluan.vanhocvietnam.org, ngày khai thác 13.03.2008.
14/ Sđd
15/ Hoàng Hưng: Nghĩ về hội
nhập giữa những người Việt Nam cầm bút//hoiluan.vanhocvietnam.org, ngày
khai thác 05.02.2008.
Người dịch: Lê Sơn
Nguồn: Jugo - Vostochnaja: Azija aktual'nye problemy razvitija/ deologija,
istorija, kul'tura, polilika, ekonomika Vypusk XI (Ju.VA, 2007-2008). M.
Institut Vostokovedenija RAN, 2008, Str 233-254.
Đông Nam Á, những vấn đề cấp
thiết của sự phát triển. ý thức hệ, lịch sử, văn hoá, chính trị, kinh tế. Tập XI 2007-2008. M. Viện Đông phương học trực
thuộc Viện Hàn lâm khoa học Nga (RAN) 2008, tr 233 - 254
No comments:
Post a Comment