03/24/2013
11:34 PM
Tôi mượn tựa đề một tác phẩm của nhà văn Cao Xuân Huy, một cựu sĩ
quan thuộc binh chủng Thủy Quân Lục Chiến nói về cuộc rút chạy của đơn vị anh
từ địa đầu giới tuyến để về phía Nam trong thờiđiểm bắt đầu cho một tháng Tư
đầy đen tối, bi kịch và thảm kịch dẫn đến việc mất miền Nam Việt Nam. Cao Xuân
Huy lúc sinh thời vẫn còn giữ được tư chất hiên ngang của một người lính, đó là
ăn ngay, nói thẳng dù điều nói ra mất lòng hay được lòng ai. Cũng vì thế đã có
một thời ông bị những người ưa che giấu sự thật không thích tác phẩm của ông,
nhưng Tháng Ba Gãy Súng vẫn hiện diện như một nhân chứng không thể xóa
bỏ được của một thất bại lớn lao của hai chế độ Cộng Hòa ở miền Nam Việt Nam.
Nhưng năm thứ 38 của Tháng Ba Gãy Súng vẫn còn là những lời
than khóc bi lụy dù lịch sử không hề nuôi dưỡng lâu dài những bi kịch, thảm
kịch trong một cuộc chiến tranh. Một thời gian sau khi phần lớn những người
trong các thế hệ của các bên lâm chiến trở thành người thiên cổ, cuộc chiến sẽ
không còn là những tranh cãi buồn bã nữa mà sẽ trở thành đề tài cho những cuộc
nghiên cứu khách quan, rút ra những bài học lịch sử với niềm hy vọng giúp cho
những thếhệ sau này tránh được những cuộc chiến tranh vô ích.
Để dẫn dắt những thế hệ con cháu chúng ta nhìn vào những dữ kiện
lịch sử một cách đứng đắn, điều cần cho các sử gia là những nhân chứng trong
các bên lâm chiến là phải nói thẳng, nói thật, thất bại thì nói là thất bại,
thắng lợi thì nói là thắng lợi. Cuộc chiến Việt Nam có những đặc thù khác với
các cuộc chiến khác trên thế giới. Nó là một cuộc chiến tương tàn giữa những
người Việt Nam như bao lần đã xảy ra trong lịch sử của đất nước này. Nhưng ảnh
hưởng của khối Cộng sản và Tự Do vào hai miền đất nước khiến Việt Nam trở thành
một bãi chiến trường núi xương sông máu mà ngày nay khi được đọc lại những tài
liệu mật được công khai hóa về chiến tranh Việt Nam như “Khi đồng minh tháo
chạy”, “Tài Liệu Mật Ngũ Giác Đài”, WikiLeaks, những tài liệu từ Thư Viện
Nixon, từ Trung Tâm Nghiên Cứu Lubbock cùng nhiều tác phẩm của những sử gia
khác như “Perfect Spy” của Larry Berman, “Vietnam’s Army Forgotten”
của Andrew Wiest, và hàng trăm tác phẩm khác của các tác giả Mỹ viết về chiến
tranh Việt Nam, người ta sẽ chẳng còn ngạc nhiên tự hỏi nguyên nhân nào khiến
chúng ta mất miền Nam Việt Nam nữa.
Nhưng nếu coi miền Nam Việt Nam là một quốc gia thì mất nước, phải
có người nhận trách nhiệm. Quân đội VNCH chiến đấu can trường, dũng mãnh như
thế, những tại sao họ lại phải chịu thất bại cay đắng dường ấy? Họ đã làm hết
bổn phận và nghĩa vụ của mình, họ đã có những chiến thắng vang lừng nhưng có
lúc đã phải nhận lãnh những thất bại, nhưng quân đội trong thời chiến vẫn là
cái xương sống của một quốc gia. Họ đổ xương đổ máu chiến đấu, không lẽ họ lại
phải nhận chịu những tủi nhục của những người mất nước? Không thể như thế,
người Tổng Tư Lệnh phải nhận chịu trách nhiệm nặng nhất và nhất là không thể bỏ
đi vì bất cứ lý do nào khi đất nước nghiêng ngửa. Xương sống của một cơ thể
vững chãi là do cơ cấu của bộ não. Khi não bộ có vấn đề, cột sống ấy không thể
đứng vững. Vì thế không
thể chối cãi được việc mất miền Nam là do chính sách và các lãnh đạo tồi tại
VNCH. Đừng bao giờ dại dột đổ hết cho Mỹ hay cho Dương Văn Minh, bởi như
thế thì sẽ không bao giờ trả lời được những hệ lụy của vấn đề dân tộc. Hơn nữa,
cái mái nhà VNCH trong có một ngày rưỡi mà sập xuống được thì cột kèo, rui mè tất đã bị mọt
rỗng từ lâu rồi. Ai là người làm cho mọi thứ đều hư nát nếu không phải là những
nhà có trách nhiệm điều hành vùng đất từ Vĩ Tuyến 17 xuống đến mũi Cà Mâu?
Tháng ba gãy súng mà đặt vấn đề như thế thì không có gì vui, nhưng ít nhất cũng
phải một nói ra cho nó rõ ràng một lần trước khi về cõi.
Trong suốt 38 năm nay, một số chính trị gia người Việt hải ngoại
đều tránh né phải trả lời câu hỏi này và tệ hơn nữa khi có một ai đó đặt vấn đề
lịch sử ấy lớn đó lên những trang giấy, lập tức họ nhận được những phản bác,
nếu không đầy giận dữ, cuồng nộ thì cũng là một câu so sánh giản dị dễ dàng: dù
sao thì chế độ VNCH cũng hơn chế độ Cộng sản Miền Bắc rồi ! Nói như thế thì có
khác chi hai học sinh tiểu học chê bai một học sinh thứ ba: “Thằng A học dốt
bỏ mẹ. Ít ra chúng mình cũng còn hơn nó”. Vấn đề ở đây không phải ai hơn ai mà là ai thắng, ai bại, và tại sao
bại trong trận chiến vừa rồi?
Chúng ta khoan bàn đến chuyện tại sao đối phương thắng. Nhà văn Trần Văn Kha, một cựu Đại tá
QL/VNCH, Bảo Quốc Huân Chương Đệ Ngũ Đẳng, bên cạnh sự uyên bác về Phật học và
thiền học, ông còn là một nhà chỉ huy quân sự ngay thẳng và rất ghét những sâu
mọt trong quân đội. Tháng 2 năm 2010, nhà văn Trần Văn Kha cho ấn hành một tác
phẩm phân tích quân sự nhan đề “Tại
sao chúng ta thua”, một kết quả của gần 10 năm trời ông vùi đầu đọc ghi
chép những tài liệu, sách báo chất đầy mobil home của ông ở thành phố Orange và
nhất là tại thư viện của Trung tâm nghiên cứu Lubbock. Ông viết ngắn gọn gồm
trích dẫn những số liệu và bằng chứng thắng, thua của mỗi trận đánh từ Việt Bắc
thời Pháp thuộc cho đến những trận đánh ở miền Nam Việt Nam thời Đệ Nhất và Đệ
Nhị Cộng Hòa cũng như ảnh hương chính trị từ bên ngoài vào Việt Nam để đi đến
kết luận “ta thua là tại ta vì có nhiều sai lầm ở thượng
tầng quốc gia và các nhà lãnh đạo hàng đầu từ ông Ngô Đình Diệm đến ông Nguyễn
Văn Thiệu”. Vì nội dung sách chỉ là những phân tích, cho nên
không thể gọi nó là một biên niên sử có phần phỏng vấn nhân chứng và vì thế “Tại
sao chúng ta thua” của nhà văn Trần Văn Kha có một giá trị ở mức độ nhất
định.
Tuy nhiên, khi nó ra đời như một tác phẩm chưa đầy đủ mà nhà văn
Trần Văn Kha từng nhìn nhận, nhưng nó cũng cho thấy một trong những hướng đi
mới của sách lược chống Cộng: tranh đấu trên mặt trận tư tưởng là ưu tiên, tận
dụng khối lượng thông tin đã được công khai hóa để phân tích, tổng hợp và
chuyển chúng đi bằng phương tiện truyền thông tối tân nhất hiện này nhằm phá vỡ
bức tường thành cuối cùng của sự bưng bít không những ở tại Việt Nam mà còn
trong nhiều cộng đồng người Việt ở hải ngoại. Dù tác giả Trần Văn Kha chỉ giới
thiệu tác phẩm của ông trong số những bạn bè thân hữu mà ông quí mến, nhưng sau
đó đã được lưu hành khá rộng rãi và cũng đã có những người chỉ trích ông là
người có lập trường “chao đảo”, “thân Cộng”. Nhưng tác giả nói rằng ông
không cần phải nói gì thêm vì ông đã là người tự do và khi người ta đã ở vào
tuổi 80 sau khi đã làm đầy đủ bổn phận đối với đất nước thì tại sao lại cứ phải
viết những điều không thật chỉ để làm vui lòng người khác chứ không giúp ích gì
được cho những thế hệ mai sau?
Thời thiếu niên khi còn ngồi ghế trung học ở Saigon, tôi đã trải
qua khá nhiều lần cứ mỗi năm đến 20-7-1954, chính phủ miền Nam Việt Nam tổ chức
ngày gọi là Quốc Hận một chỉ dấu của sự kiện đất nước bị chia đôi do Hiệp định
Genève 1954. Thế rồi khi lớn lên ra đời làm việc, chính mình hàng năm cứ đến
ngày này, lại phải khăn áo đến một nơi nào đó làm bổn phận tường thuật lễ kỷ
niệm Quốc Hận 20-7. Nhưng điều không ngờ nhất, người dân Miền Nam Việt Nam chạy
sang đất Mỹ vẫn phải mang thêm một ngày Quốc Hận nữa: 30-4-1975.
Nay ở tuổi 72 khi những sợi tóc bạc trên đầu cứ thưa dần và tôi
lại tự hỏi: Quốc Hận đến bao giờ thì
chấm dứt? Ngày 20-7-1954, bằng một giải pháp chính trị với người Pháp,
người Cộng sản chiếm được miền Bắc từ vĩ tuyến 17 trở lên và đã tạo ra cho
người ở Miền Bắc di cư và người Việt ở miền Trung và Nam ngày Quốc Hận vì đất
nước bị chia đôi. Ngày 30-4-1975, bằng giải pháp quân sự, CSBV chiếm được miền
Nam và họ nói là để thống nhất đất nước và đưa giang sơn về một mối. Người Việt
Nam bỏ nước ra đi gọi ngày này là Ngày Quốc Hận 30-4, có người gọi đó là Tháng
Tư Đen. Hai mươi mốt năm quốc hận, chính quyền VNCH đã không có những kế hoạch
nào khả dĩ Bắc Tiến thống nhất Việt Nam để chấm dứt ngày Quốc Hận. Ba mươi tám
năm sau, người Việt hải ngoại cũng phải chứng kiến 38 lần lễ tưởng niệm Quốc
Hận 30-4-1975 và việc chấm dứt Quốc Hận chắc cũng còn xa lắm.
Nhưng điều dễ thấy và gần nhất là cộng đồng người Việt Nam ở Nam
California vẫn chia rẽ. Bằng chứng là cho tới nay mặc dù cựa quậy kịch liệt,
nhưng vẫn chưa có được một ban đại diện cộng đồng thống nhất và thống nhất cho
ra hồn. Năm ngoái, tại Tượng Đài Chiến Sĩ Việt Mỹ cũng không có được một buổi
tưởng niệm chung, và một vài nhà tổ chức vẫn làm như“Quốc hận của chúng tôi
khác quốc hận của các anh, các chị” hoặc “Quốc Hận của chúng tôi tổ chức
ngon lành hơn, đông người dự hơn”. Năm ngoái, nhiều người Việt ở Little
Saigon lắc đầu phiền muộn, một số người nóng tính nói thẳng ruột ngựa: “Có
đứng chung với nhau vài giờ đồng hồ mà còn không được nói gì đến thống nhất
cộng đồng?”
“Tháng
Ba Gãy Súng” tác
phẩm của nhà văn quân đội quá cố Cao Xuân Huy lại nhắc nhở chúng ta một mùa
chay thật buồn. Nỗi buồn đó đối nghịch với cách tổ chức tưởng niệm ồn ào hàng năm
trong cộng đồng khiến cho nhiều người cảm thấy mình như lạc lõng trong một lễ
mừng chiến thắng. Quốc kỳ của VNCH khi xưa lẽ ra phải được kéo rũ chứng kiến
chúng ta vẫn còn đang để tang cho sự kiện miền Nam Việt Nam thất thủ cách đây
38 năm. Tôi tin rằng dù biện minh cách nào đi chăng nữa, chúng ta không thể
không cảm thấy nhục nhã, không thể không phải trả giá, thậm chí không thể phủ
nhận trách nhiệm cho sự mất mát lớn lao ấy ngoại trừ những kẻ đào ngũ trước
địch quân, những người từng hưởng bổng lộc cao trọng của nhà nước, nhưng khi thấy
thế nước lâm nguy thì quay lưng bỏ trốn. Tôi còn tin rằng dù đôi mắt của những
người lính già nay tuy đã héo hắt nhưng vẫn đủ để nhỏ xuống những giọt lệ cho
những đồng đội đã nằm xuống của mình trong đêm ngồi lại cùng nhau và những ngọn
nến được chuyền đi, ánh sáng trong đêm tối lan dần rồi bừng lên như một quyết
tâm, một lời tuyên hứa rằng thế hệ già, trẻ ở hải ngoại nhất định tổ chức được
cộng đồng Việt đích thực là một cộng đồng mạnh vì tự do, đoàn kết và quyết tâm
loại bỏ bất cứ một áp lực chính trị nào, đến bất cứ từ đâu làm tổn hại đến uy
tín của người Việt tị nạn, làm cho công cuộc chống Cộng của người Việt tị nạn
bị đàm tiếu và bị lôi ra làm trò hề cho đối phương.
Vũ Ánh
No comments:
Post a Comment