Bản
dịch của Hành Nhân (Defend
the Defenders)
Posted
on April 19, 2013
QUỐC
HỘI CHÂU ÂU:
- Chiếu theo Hiệp định
hợp tác và đối tác giữa EU và Việt Nam ký ngày 27 tháng 6 năm 2012 và các cuộc đối thoại nhân quyền tổ chức hai lần
một năm giữa EU và chính phủ Việt Nam,
- Chiếu theo kết quả Kiểm điểm định kỳ phổ quát về Việt Nam của Hội đồng nhân quyền LHQ ngày 24
Tháng Chín năm 2009,
- Chiếu theo báo cáo của Báo cáo viên đặc biệt LHQ về thúc đẩy và bảo vệ quyền tự do ý kiến và tự do ngôn luận tại phiên họp
thứ 14 của Hội đồng Nhân quyền trong tháng 4 năm 2010,
- Chiếu theo Bài phát biểu của Người phát ngôn của đại diện cấp cao EU, bà
Catherine Ashton về việc kết án các blogger tại Việt Nam ngày 24
tháng chín 2012,
- Chiếu theo Nghị quyết ngày 11
tháng 12 năm 2012 về “một chiến lược tự do kỹ
thuật số trong chính sách đối ngoại của EU,
- Chiếu theo các nghị
quyết trước đây về Việt Nam,
- Chiếu theo Quy định
122 (5) và 110 (4) của Quy định về thủ tục,
A. xét
rằng ba nhà báo nổi tiếng – Nguyễn
Văn Hải
/ Điếu Cày, Tạ Phong Tần và Phan
Thanh Hải – đã bị kết án tù hôm 24 Tháng Chín năm 2012; xét rằng, sau khi kháng cáo, bản án của họ lần lượt là 12,
10 và 3 năm, cộng thêm nhiều năm quản chế vì họ đã đăng tải các bài viết lên trang web của Câu lạc
bộ Nhà báo tự do;
B. xét
rằng theo báo cáo mới đây của các tổ chức nhân
quyền quốc tế, 32 người bất đồng chính kiến online đã bị
kết án tù nặng nề hoặc đang
chờ xét xử tại Việt Nam; 14
nhà hoạt động ủng hộ dân chủ đã bị kết án tổng cộng hơn 100 năm tù vì thực thi quyền tự do ngôn
luận; một nhóm 22 nhà hoạt động môi trường ôn hòa bị nhận mức án từ
10 năm tù đến chung thân; một nhà báo làm việc cho báo chí nhà nước đã bị sa thải sau khi
viết một bài đăng trên blog cá nhân của mình chỉ trích Tổng bí thư của Đảng Cộng sản; và những người bất đồng chính kiến trên mạng, bao gồm Lê
Công Cầu và Huỳnh Ngọc Tuấn, thường xuyên bị quấy rối và tấn công bởi cảnh sát;
C. xét
rằng nhiều tù nhân lương tâm đã bị kết án theo các điều luật an ninh quốc
gia mơ hồ mà không phân biệt giữa hành vi bạo lực và bày tỏ ôn hòa về quan điểm bất đồng hay tín ngưỡng, chẳng hạn như
điều luật “tuyên truyền chống CH XNCH
VN” (Điều 88 Bộ luật hình
sự),”hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” (Điều 79), “gậy chia rẽ giữa người
theo tôn giáo và không theo tôn giáo” (Điều 87) và “lạm dụng tự do dân chủ để xâm phạm lợi ích của nhà nước” (Điều 258); xét rằng
Pháp lệnh 44 năm 2002 cho phép giam
giữ không xét xử được sử dụng ngày càng phổ biến để giam giữ những người bất đồng;
D. xét
rằng các blogger và những người bảo vệ nhân
quyền ngày càng chuyển sang dùng
Internet để nói lên quan điểm chính trị, vạch trần tham nhũng, và gây chú ý đến cưỡng chế đất đai và các hình thức lạm dụng quyền lực khác;
E. xét
rằng chính quyền Việt Nam đàn áp một cách có hệ thống tự do ngôn luận và hội họp ôn hòa và bức hại những người chất vấn chính sách của chính phủ, vạch trần các
trường hợp quan chức tham nhũng
hoặc kêu gọi các giải pháp thay thế cho chế độ độc đảng;
F. xét
rằng Việt Nam đang dự thảo Nghị định về quản lý, cung
cấp, sử dụng Internet, Dịch vụ và nội
dung thông tin trực tuyến, một
Nghị định mới về quản lý Internet mà có thể hợp pháp hóa việc chính phủ sàng lọc nội dung, kiểm duyệt và trừng
phạt chống lại “hành vi bị cấm” được định nghĩa mơ hồ và theo đó nó sẽ bắt buộc các công ty Internet và nhà cung cấp, bao gồm cả
của người nước ngoài, hợp tác với chính phủ trong việc giám sát và theo dõi người bất đồng chính kiến trên mạng; xét rằng quyền tự do kỹ thuật số đang ngày càng bị đe dọa;
G. xét
rằng trong năm 2009, trong quá trình Kiểm điểm định kỳ phổ quát của Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc (UPR) về hồ sơ nhân
quyền của Việt Nam, Việt Nam chấp nhận một số kiến nghị
về tự do ngôn luận, trong đó có đề nghị “đảm bảo đầy đủ quyền nhận, tìm kiếm và chia sẻ thông tin và ý tưởng phù hợp với Điều 19 của Công ước
quốc tế về các quyền dân sự và chính trị”; xét rằng Việt Nam vẫn
chưa thực hiện những kiến nghị này;
H. xét
rằng việc tịch thu đất đai bởi quan chức chính
phủ, sử dụng vũ lực quá mức nhằm đối phó với phản đối của công chúng khi giải tỏa, bắt bớ
tùy tiện các nhà hoạt động và bản án nặng đối với người phản đối đang được áp dụng, trong khi các vấn đề về quyền sở hữu đất và sử dụng đất không rõ ràng;
I. xét
rằng tự do tôn giáo và tín ngưỡng bị đàn áp và Giáo Hội Công Giáo và các tôn giáo không được thừa nhận, chẳng hạn như Giáo hội Phật giáo Việt
Nam Thống nhất, các Giáo hội Tin Lành và tôn giáo khác tiếp tục gánh chịu đàn áp tôn giáo nghiêm trọng;
J. xét
rằng Việt Nam đã bắt đầu tham khảo ý kiến công chúng rộng rãi với mục đích xây dựng dự thảo Hiến pháp mới,
nhưng những ai bày tỏ ý kiến của họ đã phải đối mặt với lệnh trừng phạt và áp lực;
K. xét
rằng Việt Nam đang tranh cử một ghế
trong Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2014-2016;
1. Bày
tỏ quan ngại sâu sắc về sự kết tội và kết án khắc nghiệt một số nhà báo và blogger ở Việt Nam, lên án các hành vi vi phạm liên tục
quyền con người, bao gồm cả đe dọa
chính trị, quấy rối, tấn công, bắt bớ tùy
tiện, bị kết án tù nặng nề và những phiên tòa không công bằng gây ra đối với các nhà hoạt động chính trị, nhà báo, blogger, người bất đồng chính kiến và người bảo vệ nhân
quyền, cả trên mạng và ngoài mạng, vi phạm rõ ràng nghĩa vụ quốc tế của Việt Nam về quyền con người;
2. Kêu
gọi nhà chức trách ngay lập tức và vô điều kiện thả tất cả các blogger, các nhà báo online và người bảo vệ nhân
quyền, kêu gọi nhà nước chấm dứt
mọi hình thức đàn áp đối với những người thực hiện các quyền tự do ngôn
luận, tự do tín ngưỡng và tự do hội họp theo tiêu
chuẩn nhân quyền quốc tế;
3. Kêu
gọi chính phủ Việt Nam sửa đổi hoặc bãi bỏ đạo luật hạn chế quyền tự do ngôn luận và tự do báo chí nhằm cung cấp một diễn đàn đối thoại và tranh luận dân chủ; cũng kêu gọi chính phủ sửa đổi Nghị định dự thảo về “Quản lý, cung cấp, sử dụng dịch
vụ Internet và nội dung thông tin trực tuyến” để bảo đảm là chính phủ bảo vệ quyền tự
do ngôn luận online;
4. Kêu
gọi chính phủ Việt Nam phải
chấm dứt cưỡng bức ly gia ly hương, để đảm bảo tự do ngôn luận
cho những người tố cáo lạm dụng về các vấn đề đất đai, và để đảm bảo những người đã bị
cưỡng bức di dời tiếp cận với các giải
pháp pháp lý và đền bù thỏa đáng, phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế và nghĩa vụ theo luật nhân
quyền quốc tế;
5. Kêu
gọi chính quyền VN thực hiện các nghĩa vụ quốc tế bằng cách chấm dứt bách hại
tôn giáo và loại bỏ các trở ngại pháp lý để cho các tổ chức tôn giáo độc lập tự do tiến hành các hoạt động tôn giáo ôn hòa, theo đó công nhận tất cả các cộng
đồng tôn giáo, thực hành tự do tôn giáo và bồi thường tài sản mà nhà nước đã tùy tiện tịch thu từ Giáo hội
Phật giáo Việt Nam thống nhất,
Giáo hội Công giáo và bất kỳ cộng đồng tôn giáo nào khác;
6. Bày
tỏ quan ngại sâu sắc về các điều kiện giam cầm tù nhân lương tâm do sự ngược đãi và thiếu sự chăm sóc y tế, yêu cầu chính quyền đảm bảo giá trị tinh thần và thể xác, đảm bảo tiếp cận không hạn chế tư vấn pháp lý và cung cấp hỗ trợ y tế
thích đáng cho những người cần;
7. Nhắc
lại rằng các cuộc đối thoại nhân quyền giữa EU và Việt Nam cần đưa đến tiến bộ cụ thể về nhân
quyền và dân chủ hóa; về mặt này, kêu gọi Liên minh châu Âu liên tục nêu lo ngại về vi phạm nhân
quyền tại Việt Nam với cấp cao nhất và tăng cường áp lực lên chính quyền Việt Nam gỡ bỏ
kiểm soát internet, các blog và cấm đoán phương tiện truyền thông thuộc sở hữu tư nhân, cho
phép các nhóm và cá nhân thúc đẩy nhân quyền và bày tỏ ý kiến bất đồng của họ
công khai, thực hiện các bước để xóa bỏ án tử hình, bãi bỏ hoặc sửa đổi luật an ninh quốc gia được sử
dụng để hình sự hóa các phản đối ôn hòa, và thả những tù nhân ôn hòa;
8. Nhắc
nhở tất cả các bên mà Điều 1 của Hiệp định Đối tác và Hợp tác (PCA) ghi rằng: “Tôn trọng nhân quyền và các nguyên tắc dân chủ là cơ sở cho việc hợp tác giữa các bên và các quy định của Hiệp định này và nó tạo thành một yếu tố thiết yếu của Hiệp định”; yêu cầu vị Đại diện cấp cao đánh giá khả năng tương thích các chính sách của Chính phủ Việt Nam với các điều kiện trong PCA;
9.
Khuyến khích Việt Nam hướng tới
phê chuẩn Hiệp ước Rome về
Tòa án hình sự quốc tế (ICC) và Công ước chống tra tấn
(CAT); kêu gọi chính phủ để lập ra một ủy ban nhân quyền quốc gia độc
lập;
10. Yêu
cầu các Ủy ban liên chính phủ ASEAN về Nhân quyền kiểm tra tình hình liên quan đến tình trạng nhân quyền tại Việt Nam với trọng tâm đặc biệt về tự do ngôn luận, và đưa ra các khuyến nghị cho nước
này;
11. Hoan
nghênh thực tế là Chính phủ Việt Nam đã ban hành lời kêu gọi công chúng góp ý kiến cải cách hiến pháp lần đầu tiên kể từ năm 1992 và thời hạn đã được mở rộng cho đến Tháng 9 năm 2013, nhưng tiếc rằng sự tham vấn cộng đồng đã dẫn đến trừng phạt và áp lực chống lại những người thể hiện ý kiến của mình một cách hợp pháp; hy vọng rằng Hiến pháp mới ưu tiên giải quyết các vấn đề về quyền dân sự và chính trị và tự do tôn giáo; qua đó hoan nghênh thiết lập đối thoại với các tổ
chức nhân quyền; bày tỏ hy vọng rằng điều này có thể dẫn đến những cải cách
quan trọng về lao động, giáo dục và nhân quyền trong dài lâu; đề xuất chính quyền gửi lời mời vị Báo cáo viên đặc biệt của LHQ về Tự do Ngôn luận
và tự do ý kiến đến thăm VN và rằng chính quyền thực hiện đầy đủ các khuyến nghị của Báo cáo viên;
12. Chỉ
thị vị Chủ tịch EU giao Nghị quyết này đến Phó Chủ tịch ủy hội / Đại
diện cấp cao EU về Ngoại giao và Chính sách an ninh, Hội đồng EU, Ủy hội EU, các chính phủ của các nước
thành viên, chính phủ và Quốc hội của Việt Nam, chính phủ
các nước thành viên ASEAN, Cao ủy Nhân quyền LHQ và Tổng
thư ký Liên Hợp Quốc.
No comments:
Post a Comment