Phạm Thị
Hoài
Tháng
11 30, 2012
Sau
đề nghị
của tôi về xưng hô, nhiều độc giả lưu ý rằng cha đẻ của cách xưng hô
gia đình hóa trong xã hội Việt Nam thời đại xã hội chủ nghĩa là vị “cha già dân
tộc”, người tự xưng là “Bác Hồ”. Theo tôi trường hợp “Bác Hồ” không hẳn như
vậy.
Khác
với những nhà lãnh đạo từ Lê Duẩn trở đi sau này, Hồ Chí Minh thuộc thế hệ các
nhà cách mạng xuất thân kẻ sĩ – trí thức trong giai đoạn chuyển tiếp từ Nho học
sang Tây học. Xung quanh ông là những người mà tố chất kẻ sĩ – trí thức ấy
không chỉ biểu lộ qua sáng tác văn chương, từ Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ
Nguyên Giáp, Hoàng Văn Hoan… đến Xuân Thủy, Cù Huy Cận, Tố Hữu, Đặng Thai Mai…
Trước khi ngôn ngữ chính trị Việt Nam trở thành một hỗn hợp của sáo mòn, đơn
điệu, vô nghĩa và lố bịch như chuẩn mực ngày nay, nó đã từng kết hợp được cả
học vấn truyền thống lẫn ngọn lửa nóng rực của cách mạng ở những năm tháng đầu.
Cho đến nay tôi chưa thấy một văn bản chính trị viết bằng tiếng Việt nào vượt
qua bản Tuyên ngôn Độc lập do Hồ Chí Minh soạn thảo năm
1945 về hình thức biểu đạt và chất lượng ngôn ngữ: hàm súc, khúc chiết, sắc
bén, chính xác, sáng rõ và giản dị. Ngay cả câu mở đầu lấy từ Tuyên ngôn Độc
lập của nước Mỹ cũng là một mẫu mực về dịch thuật. Hoặc ngòi bút chính trị của
Hồ Chí Minh ở thời điểm ấy đạt đến độ chín thích hợp nhất, hoặc giải phóng dân
tộc khỏi ách thống trị của thực dân Pháp là chủ đề tâm huyết nhất của cuộc đời
ông, nên những áng văn sau này của Hồ Chí Minh cũng không vượt qua được Tuyên
ngôn Độc lập. Song ngôn ngữ trong hai Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến chống
Pháp và chống Mỹ cũng như trong Di chúc vẫn cho thấy một khả năng diễn đạt xuất
sắc. Một người làm việc với ngôn ngữ như thế không thể không có ý thức sâu sắc
về cách xưng hô trong tiếng Việt.
Tôi
không ngại nói quá khi khẳng định rằng trước và sau Hồ Chí Minh, khó tìm thấy
một người Việt Nam nào trải qua nhiều tình huống xưng hô một cách tự nhiên và
lịch lãm như ông. Trong toàn bộ lịch sử Việt Nam, chắc chắn ông là người đứng
đầu nhà nước giữ kỉ lục về tiếp xúc với các tầng lớp và thành phần đủ mọi lứa
tuổi trong xã hội. Chúng ta hãy điểm một số cách xưng hô của Hồ Chí Minh trong
giao tiếp, trước khi “Bác Hồ” trở thành quy phạm xưng hô của người Việt[1].
Xưng
hô chính thức và đầu tiên của Hồ Chí Minh trước công luận là trong câu hỏi nổi
tiếng, khi ông đọc Tuyên ngôn Độc lập ngày 2-9-1945: “Đồng bào nghe tôi nói
có rõ không?“. Đồng bào và tôi. Từ bao giờ cách gọi đồng
bào này biến mất? Có lẽ từ khi ông qua đời? Mỗi lần nói với toàn thể hay
một tập hợp người Việt ông đều dùng chữ đồng bào này. Ở các lời tuyên
bố, kêu gọi, thường là Hỡi đồng bào cả nước, Kính cáo đồng bào. Ở
các cuộc tiếp xúc, thường là Thưa đồng bào hay Thưa đồng bào yêu quý.
Trong thư, thường rất cụ thể: Gửi đồng bào Công giáo, đồng bào Mán, đồng bào
nông gia, đồng bào hậu phương, đồng bào tản cư, đồng bào Nam bộ, đồng bào văn
hóa và trí thức, đồng bào điền chủ… Và xưng tôi hoặc chúng tôi,
khi ông thay mặt chính phủ phát biểu. Xưng hô cuối cùng của ông, trong Di chúc,
cũng giữ nguyên như vậy: đồng bào và tôi.
Từ
vị trí xưng tôi hay chúng tôi, Hồ Chí Minh uyển chuyển khi đứng
trước những đối tượng khác nhau. Những người như Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh
được ông gọi là tiên sinh, tướng Trần Tu Hòa là Trần tướng quân,
giám mục Lê Hữu Từ là cụ, linh mục Lê Văn Yên là ngài, các ông
Huỳnh Thúc Kháng, Bùi Bằng Đoàn, Nguyễn Văn Tố… đều là cụ, bác sĩ Vũ
Đình Tụng là ngài, đại diện các gia đình hảo tâm quyên góp cho chính phủ
là các bà và các ngài, hội hảo tâm là quý hội, một ông
lang đạo ở Hòa Bình là ông, Chủ tịch Quốc hội là cụ chủ tịch, một
bộ trưởng là cụ bộ trưởng, đại diện các ủy ban nhân dân là các bạn…
Ông thưa các cụ và các chú, thưa các ngài trong giới công thương, thưa các
vị linh mục, thưa các vị kỳ lão và nhân dân, thưa anh chị em thanh niên
Nam bộ, thưa toàn quốc đồng bào và toàn thể đồng chí, thưa các bậc phụ huynh,
thưa các hiền nhân chí sĩ, thưa các bạn sĩ, nông, công, thương, binh, thưa các
ông bộ trưởng, thưa các bạn nhân viên chính phủ, thưa hai cụ già du kích, thưa
anh em họa sĩ, thưa các vị thân hào thân sĩ, thưa những người bạn Pháp ở Đông
Dương, thưa ngài Thống chế Stalin, thưa bà cụ, thưa lão du kích… Trong một
bức thư gửi ngụy binh, ông gọi họ là anh em. Gửi những người đi lính cho
Pháp và bù nhìn, ông viết: tôi thiết tha kêu gọi các người. Viết thư cho
gia đình mình, ông đề: Gửi họ Nguyễn Sinh và xưng tôi. Tất cả cho
thấy một nghệ thuật xưng hô lão luyện.
Vậy
“Bác Hồ” từ đâu ra?
Ngay
trong tháng 9-1945, Hồ Chí Minh xưng là Già Hồ gửi thư đến các trẻ em
yêu quý. Trong “Thư gửi thiếu nhi Việt Nam đêm Trung thu đầu
tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” 1945, ông viết: “Các em, đây là Hồ
Chí Minh nói chuyện với các em… Các em có hứa với tôi như thế không?… Chào các
em, Hồ Chí Minh“, một phong cách không giấu ảnh hưởng của ngôn ngữ và văn
hóa phương Tây. Trong thư gửi học sinh, ông cũng xưng là tôi, gọi học
sinh là các em. Nói chuyện với thanh niên, ông gọi họ là các anh em,
xưng là tôi. Trong một bài thơ tặng cháu Nông Thị Trưng, ông gọi cháu
và xưng ta.
Lần
đầu tiên Hồ Chí Minh xưng bác và gọi cháu là trong “Trả lời thư
chúc mừng của Hội Nhi đồng Công giáo khu Thượng Mỹ, huyện Phú Xuyên, Hà Đông”
ngày 10-5-1947: “Bác cảm ơn các cháu. Bác khuyên các cháu: Biết giữ kỉ luật,
siêng học siêng làm, yêu Chúa yêu nước. Bác hôn các cháu.” Và kí với Hồ
Chí Minh, chứ không với Bác Hồ. Ba tháng sau, trong “Thư gửi nhi
đồng toàn quốc nhân kỉ niệm Cách mạng Tháng Tám” năm 1947, danh xưng Bác Hồ
xuất hiện và từ đó được sử dụng.
Song
tôi phải nhấn mạnh: Hồ Chí Minh chỉ xưng bác trong hai trường hợp quan
hệ. Thứ nhất, trường hợp bác – cháu, với nhi đồng. Điều này không có gì
là chướng. Ở tuổi 55 khi lên làm Chủ tịch nước, đối với người Việt thuở đó Hồ
Chí Minh đã là một người già. Phóng viên báo chí thường gọi ông là Cụ Chủ
tịch, cũng như ông gọi những người trạc tuổi mình là cụ. Trong bối
cảnh ấy, xưng hô bác – cháu của Hồ Chí Minh với nhi đồng là tự nhiên.
Không một nhà lãnh đạo Việt Nam nào cho đến nay biết nói với trẻ em một cách
nghiêm túc và tôn trọng mà vẫn không kém thân thiết như “Bác Hồ”[2]. Cuối thư gửi nhi đồng, Hồ Chí
Minh thường hôn các cháu. Trong một bức thư, ông còn hôn các cháu rõ
kêu, một cử chỉ rất Tây được diễn đạt rất Việt.
Trường
hợp xưng bác thứ hai của Hồ Chí Minh là trong quan hệ với những người
kém tuổi mình. Bác ở đây không phải là bác – cháu, mà là bác – cô/chú
Chúng
ta không lạ cách xưng tôi, gọi một người kém tuổi là chú hay cô
nói chung, một cách xưng hô khá trung lập, không nhất thiết gây ấn tượng gia
đình chủ nghĩa mà vẫn giữ được sự thân mật và khoảng cách tuổi tác. Với những
người cộng sự gần gũi như Vũ Đình Huỳnh, Cù Huy Cận, Đặng Thai Mai, Nguyễn
Khánh Toàn…, Hồ Chí Minh sử dụng cách xưng hô này. Xưng tôi hoặc anh.
Gọi chú. Trong phạm vi quan hệ hẹp, ít khi trước công luận.
Ở
Berlin, nơi có cộng đồng Nghệ An lớn nhất hải ngoại, tôi học được rất nhiều từ
Việt cổ và những thói quen ngôn ngữ khác xa tiếng Việt phổ thông. Người xứ Nghệ
có thể xưng tôi hay tui, tau với cha mẹ. Cha mẹ có khi gọi con
cái, bất kể con trai hay con gái, là ông. Và họ dùng tràn lan bác –
chú, cứ nhiều tuổi hơn xưng bác, ít tuổi hơn xưng chú, phơi
phới giữa Berlin. Hồ Chí Minh, người xứ Nghệ nổi tiếng nhất, bôn ba qua bao
nhiêu xứ sở, ngôn ngữ và văn hóa, có lẽ vẫn giữ thói quen xưng hô ấy.
Ông
khá thọ và mất ở tuổi 79. Người hơn tuổi ông thuở ấy không nhiều. Nên với đại
đa số thì ông hoặc là bác với các cháu nhi đồng theo trường hợp
thứ nhất, hoặc là bác với các cô, các chú theo trường hợp thứ
hai. Một lúc nào đó, ông đương nhiên trở thành và chỉ còn là “Bác Hồ”.
Gần
nửa thế kỉ sau khi qua đời, Hồ Chí Minh chưa thôi là điểm cọ xát gay gắt cho
dân tộc mà ông đã dẫn ra khỏi ách thực dân rồi dắt vào tròng chuyên chế. Cả vị
thánh lẫn kẻ tội đồ trong ông đều đã thuộc về lịch sử, đã hết hạn sử dụng, song
dân tộc bị chia rẽ sâu sắc này vẫn tiếp tục hoặc lấy ông làm cẩm nang và lá
chắn, hoặc dùng ông làm cái ống nhổ để trút mọi oán hận. Ông là tấm gương
khi người ta không biết soi vào đâu nữa. Ông là nguyên ủy của mọi vấn nạn, kể
cả vấn nạn xưng hô, khi người ta không biết tìm đáp án từ đâu. Trong sự tuyệt
vọng của chúng ta, Hồ Chí Minh là chiếc bung xung lí tưởng.
Không
phải vì công bằng mà tôi bênh vực cách xưng hô của Hồ Chí Minh. Một người đầy ý
thức tự thêu dệt huyền thoại, một người không chùn tay cho vay khống những
khoản tín dụng lịch sử đáng ngờ như ông thì không chờ đợi gì nhiều ở lẽ công
bằng cho cá nhân mình. Điều tôi mong muốn đơn giản là: chúng ta hãy thôi tự lố
bịch, bằng cách chấm dứt cả những lời ca tụng nực cười lẫn những lời kết án vô
lối đối với Hồ Chí Minh. Trách nhiệm thật của ông ở những điểm hệ trọng của
lịch sử Việt Nam cận đại cần được phơi bày rốt ráo. Còn trong sự nghiệp phá
hoại văn hóa xưng hô của người Việt, vai trò thật của ông nhỏ hơn tai tiếng rất
nhiều.
©
2012 pro&contra
[1] Tất cả các trích dẫn trong bài
rút từ Hồ Chí Minh toàn tập, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2000.
[2] Để so sánh: năm ngoái một nhà lãnh đạo ngành giao thông Việt Nam đã chân tình
khuyên học sinh như sau: “Nếu các cháu khi đi xe gắn máy không được
cha mẹ đội mũ bảo hiểm thì kiên quyết không đi, hoặc hãy khóc to để được cha mẹ
cho đội mũ bảo hiểm khi tham gia giao thông”.
No comments:
Post a Comment