Nayan Chanda
The slow
rapprochement (American Review Magazine)
Trâm Anh dịch
29/12/2012 02:00
TuanVietNam
- Những ngày sau khi
chiếc máy bay cuối cùng rời khỏi sân bay đại sứ quán Mỹ, bầu trở Sài Gòn trở
nên tĩnh lặng và những người chiến thắng hân hoan cắm lá cờ đỏ sao vàng của Mặt
trận Dân tộc giải phóng miền Nam lên cột cờ các tòa công sứ nước ngoài.
Chỉ
riêng đại sứ quán kiểu pháo đài của Mỹ không có lá cờ nào của quân giải phóng
tung bay. Khi được hỏi về lý do tại sao họ lại để một trường hợp ngoại lệ như
vậy, một quan chức tại Hà Nội nở nụ cười và quả quyết rằng: "Người Mỹ sẽ
sớm quay trở lại". Ông giải thích: "Người Mỹ e ngại chủ nghĩa bành
trướng Trung Quốc và họ biết, trong lịch sử, Việt Nam luôn là trở ngại lớn nhất
ngăn cản Bắc Kinh tiến xuống phía nam".
Đầu
năm nay, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta đã có chuyến thăm lịch sử tới
Vịnh Cam Ranh nổi tiếng đang được đề cập đến rõ ràng trong toan tính chiến lược
của người Mỹ. Điều đó không có nghĩa Việt Nam và Mỹ đã tiến gần đến sự hợp tác
chiến lược mà người đối thoại với tôi (Nayan
Chanda - biên tập viên của trang YaleGlobal Online, cựu phóng viên và biên tập
viên tờ Far Eastern Economic Review - người dịch) từng mường tượng ra vào thời
điểm năm 1975, nhưng hành trình hòa giải và thiết lập tình hữu nghị đầy giữa
hai nước vừa mới đây còn là kẻ thù của nhau vẫn là một câu chuyện đáng quan
tâm.
Câu
chuyện cũng mang đến những bài học giá trị trong sự tác động qua lại lẫn nhau
giữa ba nhân tố - địa chính trị, chủ nghĩa dân tộc, và hệ tư tưởng - biến ảo
như kính vạn hoa.
Lịch
sử 2 nghìn năm mối quan hệ lúc ấm lúc lạnh của Việt Nam với người khổng lồ láng
giềng Trung Quốc, tham vọng quốc gia cùng nỗ lực đảm bảo vai trò cầm quyền có
thể giải thích tại sao nó lại mở đường cho cho công cuộc bình thường hóa quan
hệ Việt - Mỹ.
Vào
thời điểm chiến tranh hoàn toàn chấm dứt năm 1975, phía Việt Nam hân hoan trong
chiến thắng lịch sử, háo hức tái thiết đất nước sau những năm bom đạn tàn phá,
nhưng cũng đầy âu lo với những dấu hiệu khiêu khích lộ liễu của Trung Quốc.
Việt Nam có cơ sở để lạc quan mau chóng khôi phục lại quan hệ với Washington,
do những tính toán địa chính trị của cả 2 bên, nhưng cơ sở logic ấy lại dựa
trên sự hiểu biết nhầm lẫn về động cơ chính sách của Mỹ.
Mặc
dù Tổng thống Jimmy Carter mong muốn nối lại quan hệ với tất cả các bên từng là
kẻ thù ở châu Á, bao gồm cả Trung Quốc, thì việc bình thường hóa quan hệ với
Việt Nam vẫn tỏ ra là không thể. Carter không có chung quan điểm dài hạn với
Việt Nam và về phần mình, Việt Nam đã đánh giá chưa đúng về vết thương chiến
tranh còn hằn sâu những ảnh hưởng tâm lý tại Mỹ.
Trong
khi muốn mối quan hệ với Washington sẽ giúp tạo đối trọng với sức mạnh của
Trung Quốc, Việt Nam đã quá tự hào với chiến thắng nên không thể bỏ qua các
khoản bồi thường chiến tranh - các khoản viện trợ tái thiết mà Mỹ cam kết theo
Hòa ước Paris 1973. Sau khi các cuộc đàm phán bình thường hóa quan hệ đổ vỡ vào
năm 1978, bối cảnh địa chính trị đã trải qua những thay đổi quan trọng kéo dài
gần 2 thập niên không có lợi cho Việt Nam.
Bốn
năm sau khi kết thúc cuộc chiến tranh trường kỳ, Việt Nam lại bước vào cuộc
chiến mới bảo vệ biên giới phía bắc và phía tây. Năm 1977-1978, các cuộc tấn
công của lực lượng Khmer Đỏ dưới sự giật dây của Trung Quốc vào biên giới phía
tây đã khiến Việt Nam phải đáp trả, đẩy lùi và đưa quân sang hỗ trợ nhân dân
Campuchia tiêu diệt chế độ diệt chủng. Trung Quốc đã ngay lập tức có phản ứng
với cuộc đổ bộ vào biên giới phía bắc của Việt Nam vào năm 1979 để "trừng
phạt". Từ đây, Việt Nam rơi vào thời kỳ khủng hoảng kinh tế ở trong nước
và bị bên ngoài cô lập.
Việt
Nam vừa phải chịu áp lực từ liên kết thực tế giữa Mỹ và Trung Quốc cùng sự ủng
hộ của họ cho liên minh do Khmer Đỏ dẫn đầu vừa mất đi ủng hộ từ phía Liên Xô
do đang tiến hành những cải cách kinh tế, chính trị.
Các
cuộc đàm phán bình thường hóa quan hệ với Mỹ bị sa lầy bởi Mỹ luôn yêu cầu
trách nhiệm đối với tù nhân và những người mất tích (MIA) trong chiến tranh của
họ. Những người bảo thủ trong chính quyền và quân đội, không bao giờ "tha
thứ" cho Việt Nam vì đã làm nước Mỹ bẽ mặt, họ muốn lấy lại danh dự bằng
cách cố gắng đưa trở về hài cốt của các lính Mỹ tử trận và tiếp tục duy trì
lệnh cấm vận thương mại áp đặt từ năm 1975 làm tê liệt nền kinh tế Việt Nam.
Để
vượt ra khỏi tình trạng khó khăn về kinh tế và sự cô lập ngoại giao của bên
ngoài, Việt Nam đã phát động công cuộc đổi mới và bắt đầu lên kế hoạch đến năm
1989 rút hết quân đội khỏi Campuchia.
Đến
lúc Việt Nam sắp hoàn tất việc đưa quân về, theo đúng như yêu cầu của phía Mỹ
và ASEAN, và bước vào các cuộc đàm phán về tương lai chính trị của Campuchia,
bối cảnh địa chính trị lại một lần nữa thay đổi. Việc Trung Quốc và Liên Xô lập
lại quan hệ và sự cô lập quốc tế đối với Bắc Kinh sau sự kiện Thiên An Môn
không chỉ làm thay đổi môi trường bên ngoài mà còn đặt ra những quan ngại sâu
sắc về sự an nguy của chế độ.
Các
cuộc biểu tình quy mô lớn ở Trung Quốc đã kết thúc bằng bạo lực tại Quảng
trường Thiên An Môn và sự sụp đổ như một hiệu ứng domino của chế độ Xã hội Chủ
nghĩa ở một loạt các nước Đông Âu diễn ra ngay sau đó đã rung lên hồi chuông
báo động ở cả Bắc Kinh - và Hà Nội. Trong hoàn cảnh hết sức cần những sự hỗ trợ
và mối quan hệ thương mại với phương Tây, Việt Nam vẫn rất mực cảnh giác với
chiến lược "diễn biến hòa bình" và lật đổ hệ thống Xã hội Chủ nghĩa
dưới chiêu bài viện trợ. Cái gọi là lộ trình bình thường hóa quan hệ của chính
quyền George H.W. Bush bị đặt trong sự hoài nghi sâu sắc. Việc Bộ trưởng Ngoại
giao Việt Nam Nguyễn Cơ Thạch không thể hoàn tất nỗ lực bình thường hóa, dù đã
có nhiều nhương bộ trong vấn đề MIA và đã rút quân khỏi Campuchia, đã khiến
Việt Nam thay đổi quỹ đạo chống Trung Quốc. Một hội nghị cấp cao bí mật giữa
lãnh đạo Đảng hai nước Trung Quốc và Việt Nam đã đặt nền móng cho sự từng bước
xuống thang xung đột của Trung Quốc với Việt Nam và thỏa thuận thành lập một
chính phủ liên minh ở Phnom Penh dưới sự bảo đảm của Liên hợp quốc.
Với
việc bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc diễn ra theo chiều hướng thuận lợi,
mục tiêu chính của Việt Nam khi tìm kiếm mối quan hệ với Washington là hợp tác
kinh tế. Trớ trêu thay, chính quyền đảng Dân chủ dưới thời Bill Clinton tỏ ra
gay gắt với Việt Nam hơn chính quyền Cộng hòa. Dưới áp lực của các chính trị
gia cánh hữu, chính quyền Clinton đã gây thêm sức ép lên vấn đề MIA và nhân
quyền. Giới doanh nghiệp, mặc dù vậy, nhìn thấy cơ hội ở Việt Nam và cuộc vận
động chung của họ cuối cùng đã buộc Washington phải đồng ý lập trường mềm mỏng
hơn. Tháng 2/1995, Mỹ dỡ bỏ lệnh cấp vận thương mại đối với Việt Nam, và tháng
7 đi đến tuyên bố bình thường hóa quan hệ ngoại giao. Vậy là đến ngày 5/8/1995
(tròn 30 năm cuộc chiến tranh kết thúc), Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ Warren
Christopher đã cắm quốc kỳ nước mình lên đại sứ quán Mỹ tại Hà Nội, mối quan
tâm chính của Việt Nam đã thay đổi. Việt Nam không còn hào hứng với một mối
quan hệ chiến lược với Mỹ như với việc mở cửa nền kinh tế ra với thế giới, và
đặc biệt là, giành chế độ đãi ngộ thương mại quốc gia nữa.
Tình
cảm này của Việt Nam đối với việc xây dựng một mối liên kết sâu sắc hơn với Mỹ
để đề phòng Trung Quốc thể hiện rõ trong tháng 3/2000. Bộ trưởng Quốc phòng
William Cohen trở thành quan chức nội các Mỹ đầu tiên tới thăm Việt Nam, nhưng
Hà Nội sau đó đã thẳng thắn tuyên bố không hề đàm phán xây dựng quan hệ chiến
lược. Trong cuộc gặp với Clinton, Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu đã giảng giải cho vị
Tổng thống Mỹ về lịch sử hào hùng chống ngoại xâm của Việt Nam, nhưng không
thảo luận mối quan hệ với Mỹ ở thời điểm hiện tại hay thương lai. Vì lẽ đó,
Việt Nam đã phải đợi đến 3 năm sau, cùng với một môi trường bên ngoài đã thay
đổi.
Nhiệm
kỳ thứ hai của Bush dường như đã từ bỏ thái độ dễ dãi đối với Trung Quốc sau sự
kiện máy bay gián điệp EP-3. Ngay cả trước khi căng thẳng liên quan đến chiếc
máy bay do thám này xuất hiện, những tiếng nói quan trọng tại Washington cũng
đã thể hiện quan ngại về khả năng Trung Quốc sẽ phô trương sức mạnh. Một trong
các tác giả viết báo cáo của RAND Corporation - một tổ chức chuyên nghiên cứu
và phân tích chính sách R&D nước Mỹ, Zalmay Khalizad, người sau này trở
thành cố vấn an ninh quốc gia của Mỹ, đã lưu ý rằng Mỹ nên tăng cường sự hiện
diện quân sự tổng thể tại châu Á để đối phó với sức mạnh đang gia tăng của
Trung Quốc. Báo cáo chỉ ra, "điều hợp lý cơ bản là cần phải xây dựng quan
hệ hợp tác giữa Hoa Kỳ và Việt Nam để ngăn chặn nỗ lực bá quyền khu vực của
Trung Quốc". Khi Washington bắt đầu quan tâm thay đổi cán cân tại Đông Á,
lợi ích của Mỹ tại Việt Nam có tầm quan trọng chiến lược.
Việt
Nam cũng lo ngại Trung Quốc sẽ tiếp tục tiến ra Biển Đông và can dự vào những
quốc gia lân bang với Việt Nam. Tại phiên họp toàn thể Ban chấp hành trung ương
tháng 6/2003, Đảng đã dự đoán tình hình Đông Á đang diễn biến theo chiều hướng
bất lợi và cần phải cố gắng phát triển mối quan hệ với Mỹ. Khi Việt Nam nói với
các quan chức Mỹ, "Tam giác đang mất cân bằng". Quan hệ giữa Mỹ với
Việt Nam đang ở thế yếu trong khi quan hệ với Trung Quốc đã cải thiện rõ rệt và
ảnh hưởng của Trung Quốc trong khu vực tiếp tục gia tăng. Nhận thức chung này
đã dẫn tới cuộc viếng thăm đầu tiên của một Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam đến
Washington vào tháng 11/2003. Tiếp sau đó là chuyến dừng chân đầu tiên của tàu
Hải quân Mỹ Vandergrift tới thành phố Hồ Chí Minh.
Cao
điểm của mối quan hệ đang nồng ấm dần này là vào tháng 6/2005, khi Thủ tướng
Phan Văn Khải trở thành nhà lãnh đạo Việt Nam đầu tiên được chiêu đãi tại Nhà
Trắng. Trong tuyến bố chung, George W.Bush và Thủ tướng Phan Văn Khải cho biết
hai người "chia sẻ tầm nhìn hòa bình, thịnh vượng và an ninh tại Đông Nam
Á và khu vực châu Á - Thái Bình Dương, và nhất chí hợp tác song phương cũng như
đa phương để thúc đẩy các mục tiêu này". Việc đưa cụm từ "khu vực
châu Á - Thái Bình Dương" trong bản tuyên bố chung là tín hiệu công khai
duy nhất rằng mối quan hệ sẽ vượt qua phạm vi các quan ngại song phương hay
thậm chí cả đa phương - Đông Nam Á. Thủ tướng Phan Văn Khải đã ký một hiệp định
thông tin tình báo với Mỹ cho phép hợp tác trong hoạt động chống rửa tiền và
cùng chia sẻ thông tin tình báo với Washington.
Trong
tình thế sức mạnh cũng như sự quyết liệt của Trung Quốc bộc lộ rõ trong vấn đề
Biển Đông, quan hệ Việt-Mỹ đã ngày một thêm sâu sắc. Chuyến thăm của Bộ trưởng
Ngoại giao Mỹ Hillary Clinton tới Hà Nội trong một Hội nghị Bộ trưởng ASEAN năm
2010, nơi bà bày tỏ quan ngại của Mỹ đối với cách ứng xử của Trung Quốc trên
Biển Đông, đã đánh dấu một mức độ hợp tác mới đối với Việt Nam. Năm sau, Việt
Nam và Mỹ bước vào cuộc đàm phán nâng tầm quan hệ song phương lên quan hệ đối
tác chiến lược. Quan hệ quân sự cũng phát triển. Trong chuyến viếng thăm của Bộ
trưởng Quốc phòng Việt Nam tới Washington năm 2003, hai bên đã tán thành tiến
hành các cuộc trao đổi ở cấp tương tự 3 năm một lần. Hai vị lãnh đạo quốc phòng
Việt Nam và Mỹ từ đó đã có 4 cuộc gặp gỡ trao đổi. Chuyến thăm của ông Leon
Panetta hồi tháng 6/2012 đã thu hút sự quan tâm hơn bình thường do bối cảnh mối
quan hệ Mỹ-Trung đang xấu đi. Panetta cũng có chuyến thăm tới Vịnh Cam Ranh, nơi
các tài sản và những máy bay ném bom tầm xa của Hải quân Liên Xô từng đặt tại
đây.
Trong
khi mối quan hệ này đã và đang có những bước phát triển quan trọng trong thập
niên qua, sự tương tác giữa 3 nhân tố như đã nêu ở trên tiếp tục tạo ra những
điều chỉnh. Một Trung Quốc mạnh về quân sự sẽ tạo ra mối đe dọa đối với chủ
quyền của Việt Nam lớn hơn bất kỳ khi nào trong lịch sử gần đây. Nhưng Đảng
Cộng Sản Việt Nam cũng giống như Đảng Cộng sản Trung Quốc đều cảnh giác với mối
đe dọa từ phương Tây, và đều tìm kiếm sự hợp tác kinh tế với phương Tây để xây
dựng một quốc gia thịnh vượng và hùng mạnh.
Năm
1978, một nhà ngoại giao Việt Nam đã giải thích logic việc Việt Nam khi vun đắp
quan hệ với Moscow: "Trong suốt chiều dài lịch sử, chúng tôi chỉ có được
an ninh trước Trung Quốc trong 2 điều kiện. Một là khi Trung Quốc yếu và nội bộ
chia rẽ. Hai là khi Trung Quốc bị đe dọa bởi những nguy cơ phương Bắc". Lý
do tương tự cũng được áp dụng cho nhu cầu xây đắp mối quan hệ của Việt Nam với
Mỹ ngày nay - một người bạn đủ mạnh để ngăn chặn Trung Quốc trở nên quá hiếu
chiến. Như các nhà lãnh đạo Việt Nam vẫn thường nhắc nhở, một quốc gia chỉ có
thể chọn bạn bè chứ không thể chọn láng giềng. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn luôn từ
chối liên minh quân sự với Washington để tránh khiêu khích hành động thù địch
từ người khổng lồ láng giềng và tránh bị tổn thương do áp lực từ phía Mỹ trong
các vấn đề dân chủ và nhân quyền. Quá trình nối lại tình hữu nghị giữa hai nước
là có thực nhưng cũng còn nhiều hạn chế.
Trâm
Anh
dịch từ American Review Magazine
Tác
giả bài viết Nayan Chanda là biên tập viên
của trang YaleGlobal Online, cựu phóng viên và biên tập viên tờ Far Eastern
Economic Review và tác giả cuốn sách Brother Enemy: The War After the War.
(Tiêu đề do Tuần Việt Namđặt).
*
*
The
rapid rise of China is bringing Vietnam and America closer together, but how
long will this last?
By
Nayan Chanda
In the days after the last helicopter lifted off the United States
embassy helipad, the Saigon sky fell silent and the victors got busy raising
the red and gold standard of the National Liberation Front on the flag poles of
foreign missions. The fortress-like American embassy alone did not have the NLF
flag. Asked about the reason for the exception, an officer from Hanoi assured
me with a smile: “The Americans will be back soon.” As he explained, “The
Americans worry about Chinese expansionism and they know, historically, Vietnam
has been the biggest barrier against Beijing’s southward drive.”
Earlier this year US Secretary of Defense Leon Panetta was granted
a tantalising tour of the famed Cam Ranh Bay that figured prominently in
America’s strategic imagination. This is not to suggest that the US and Vietnam
are anywhere near the strategic cooperation that my Vietnamese interlocutor
dreamed of in 1975, but the zigzag journey of reconciliation and rapprochement
between the two adversaries remains a gripping tale. The story also offers
valuable lessons in the interplay of three factors—geopolitics, nationalism,
and ideology—that shaped the kaleidoscopic transformations. Vietnam’s two
thousand year history of love-hate relations with its giant neighbour China, its
national ambition, and the ruling Communist Party’s concern about regime
maintenance might explain the tortured path towards normalisation.
At the end of the war in 1975 the Vietnamese party was flush with
its historic victory, eager to rebuild the ravaged nation but worried about the
signs of overt hostility from China. Its optimism about speedy restoration of
ties with Washington, because of broad geopolitical considerations, may have
been logical thinking but it was based on a total misunderstanding of the
American policy dynamic. Despite President Jimmy Carter’s desire to restore
ties with all erstwhile enemies in Asia, including China, normalisation of
relations with Vietnam proved impossible. Carter did not share Vietnam’s
long-range perspective and Vietnam, on its part, underestimated America’s deep
psychological war wounds. While it wanted relations with Washington to balance
Chinese power, Vietnam was too proud a victor to forego the spoils of
war—reconstruction aid promised by the US in the Paris peace accord of 1973.
After the normalisation talks collapsed in 1978, the geopolitical context
underwent a dramatic shift unfavourable to Vietnam that lasted nearly two
decades.
Four years after the end of the long war, Vietnam was again in a
state of war on its northern and western fronts. Chinese-backed Khmer Rouge
attacks on its western border in 1977–78 led to Vietnamese invasion and
occupation of Cambodia. China retaliated with a punitive invasion of northern
Vietnam in 1979. This began a decade-long period in which Vietnam faced
economic crisis at home and isolation abroad. The pressure of the de facto
alliance between the US and China and their support of the Khmer Rouge–led
coalition was compounded by the loss of support from a Soviet Union undergoing perestroika.
The talks on normalisation of relations with the US were bogged down by
unending American demands for accounting of their POWs and missing in action
(MIA) during the war. The conservatives in the administration and the military,
who never forgave Vietnam for America’s national humiliation, sought to restore
the country’s honour by bringing home the remains of fallen soldiers and
maintaining a crippling trade embargo imposed since 1975. To emerge out of its
economic troubles and diplomatic isolation, Vietnam launched its doi moi
(renovation) reforms and began the withdrawal of its troops from Cambodia,
which was completed in 1989.
By the time Vietnam came close to withdrawing its troops, as
demanded by the US and ASEAN, and engaged in talks with them over Cambodia’s
political future, the geopolitical context changed again. The Sino–Soviet
rapprochement and the international isolation of Beijing following the
Tiananmen massacre not only altered the external environment but also raised
concerns about the regime’s security. The large protests in China, which ended
in the violent suppression in Tiananmen Square, and the domino-like fall of
socialist regimes in Eastern Europe that came shortly afterwards rang alarm
bells in Beijing—and in Hanoi. While Vietnam sorely needed aid and trade with
the West, it was wary of “peaceful evolution” and subversion of the socialist
system in the name of assistance. The George H. W. Bush administration’s
so-called road map for normalisation was viewed with deep suspicion. Vietnam’s
top diplomat Nguyen Co Thach’s failure to obtain normalisation, despite many
concessions on MIA and the withdrawal from Cambodia, led Hanoi to alter its
anti-Chinese trajectory. A secret summit meeting between Chinese and Vietnamese
party leaders was held in Chengdu on 4 and 5 September 1990. The ground was
laid for a gradual de-escalation of China’s conflict with Vietnam and an
agreement to form a coalition government in Phnom Penh under UN auspices.
With normalisation of relations with China on course, Vietnam’s
main objective in seeking ties with Washington was economic cooperation. But
Vietnam was still very much on guard against threats to the socialist regime.
Ironically, the Democratic administration under Bill Clinton proved tougher on
Vietnam than the previous Republican administration. Pressed by right-wing
politicians, the Clinton administration stepped up pressure over MIA and human
rights violations. Business though saw opportunities in Vietnam and its
concerted lobbying forced Washington to eventually agree to soften its stance.
In February 1995, America lifted its trade embargo against Vietnam, and in July
came the announcement that diplomatic ties would be restored. When, finally, on
5 August 1995 (a full 30 years after the end of the war), secretary of state
Warren Christopher unfurled the Stars and Stripes in the US embassy in Hanoi,
Vietnam’s main concern had shifted. It was no longer as interested in a
strategic alliance as it was in ways to open the economy to the world and,
specifically, win favoured nation trade status.
Vietnam’s reticence in being seen as a US ally against China was
evident in March 2000. Defense secretary William Cohen became the first cabinet
official to visit Vietnam, but Hanoi went out of its way to announce that there
was no talk of strategic ties. Even when Clinton came to Vietnam in December
2000, a secret Central Committee directive told party members to show a “cold
face” to Clinton. The gap between the Communist Party and the people could not have
been starker. I watched thousands of young Saigonese break through police
cordons to rush towards the presidential limo shouting “Bill, Bill!” For the
Party it was America coming to Canossa and recognising Vietnam rather than
Vietnam seeking closer ties with America with an eye to the north. In his
meeting with Clinton, secretary general Le Kha Phieu gave the president a
lesson in Vietnam’s glorious history of resistance to aggressors, but did not
discuss the present or the future of relations with the US. For that, Vietnam
had to wait another three years and a change in the external environment.
The second Bush administration seemed to move away from the
somewhat smarmy attitude the US had toward China in the wake of the EP-3 spy
plane incident. Even before the tension over the spy plane, important voices in
Washington expressed concern about China’s muscle flexing. One of the authors
of the RAND corporation report, Zalmay Khalilzad, who would become a national
security adviser, noted that the United States should bolster its overall
military presence in Asia in response to rising Chinese power. It pointed out
that “there is an underlying logic to cooperation between the United States and
Vietnam to prevent a Chinese bid for regional hegemony.” As Washington began
focusing on changing the balance in East Asia, its interest in Vietnam took on
strategic significance.
Vietnam, too, was worried about China’s continuing push in the
South China Sea and in the states along Vietnam’s periphery. In the June 2003
Central Committee plenum, the party surmised that the situation in East Asia
was developing in an unfavourable way and efforts had to be made to develop
ties with the US. As the Vietnamese told American officials, “The triangle is
out of balance.” US relations with Vietnam were weak, while its ties with China
had improved a great deal and China’s influence in the region had grown. This
new mutual awareness led to the first-ever visit by a Vietnamese defence
minister to Washington in November 2003. It was followed by the first port call
by Navy ship the USS Vandergrift to Ho Chi Minh City.
The high point in the warming ties came in June 2005, when Phan
Van Khai became the first Vietnamese leader to be entertained at the White
House. In their joint statement George W. Bush and Khai said they “shared a
vision of peace, prosperity, and security in Southeast Asia and the
Asia-Pacific region, and they agreed to cooperate bilaterally and
multilaterally to promote these goals.” The inclusion of the phrase
“Asia-Pacific region” in the communiqué was the only public hint that the
relations went beyond bilateral or even regional—Southeast Asian concerns. Khai
signed an intelligence agreement with the United States allowing cooperation on
staunching money laundering and engaging in intelligence sharing with
Washington.
Against the backdrop of growing Chinese power and assertiveness in
the South China Sea US–Vietnam relations have deepened. US Secretary of State
Hillary Clinton’s visit in Hanoi during an ASEAN ministerial meeting in 2010,
where she expressed US concern about Chinese behaviour in the South China Sea,
marked a new level of cooperation with Vietnam. The following year, US and
Vietnam entered into discussions to raise their bilateral relationship to a
strategic partnership. Military ties too have grown. During the Vietnamese
defence minister’s 2003 visit to Washington, it was decided that similar level
exchange visits would take place every three years. Vietnamese and US defence
chiefs have since exchanged four visits. Leon Panetta’s June 2012 visit drew
more than the usual attention against the backdrop of deteriorating US–China
relations. Panetta was given a tour of Cam Ranh Bay, where Soviet naval assets
and long-range bombers were once based.
While the relationship has grown dramatically in the past decade,
the interplay of three factors continues to modulate the relations. A
militarily strong China poses a greater threat to Vietnam’s sovereignty than at
any time in the recent past. But the Vietnamese Communist Party shares the
Chinese Communist Party’s concerns about a Western threat to their system, all
the while seeking Western economic cooperation to build a prosperous and
powerful country.
In 1978 a Vietnamese diplomat, Luu Doanh Huynh, explained the
logic behind Vietnam’s cultivation of Moscow: “In all of history we have been
secure from China in only two conditions. One is when China is weak and
internally divided. The other is when she has been threatened by barbarians
from the north. In the present era, the Russians are our barbarians.” The same
logic can be applied to Vietnam’s need to cultivate the US today—a powerful
friend to deter China from being too aggressive. As Vietnamese leaders
frequently remind foreigners, a country can choose its friends but not its
neighbours. However enticing it might be, Vietnam would shun any military
alliance with Washington that could provoke its giant neighbour’s hostility or
make the Vietnamese government vulnerable to American pressure on democracy and
human rights. Rapprochement between the two countries is real but so are the
limits.
No comments:
Post a Comment