12:00:am
04/12/12
Ngày
19-12-1946 được đảng Cộng Sản (CS) gọi là ngày “Toàn quốc kháng chiến”, vì vào
ngày đó, Hồ Chí Minh lên tiếng kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Dân chúng Việt
Nam vốn yêu nước và căm thù giặc Pháp bảo hộ từ 1884, nên khi nghe lời kêu gọi
toàn quốc kháng chiến, liền đứng lên đáp lời sông núi, hưởng ứng cuộc kháng
chiến chống Pháp. Thật ra, lý do sâu xa đưa đến việc Hồ Chí Minh kêu gọi toàn
quốc kháng chiến là do việc Hồ Chí Minh và đảng Cộng Sản Đông Dương (CSĐD) bị
Pháp dồn vào thế bí, phải hô hào kháng chiến, nhằm tìm cách trốn chạy khỏi Hà
Nội ngày 19-12-1946.
1.-
LỜI THỀ CHỐNG PHÁP
Sau
Đại hội đảng CSĐD tại Tân Trào (Tuyên Quang) từ 13 đến 15-8-1945, Hồ Chí Minh
tổ chức tiếp “Đại hội đại biểu quốc dân” ngày 16-8-1945, cũng tại Tân Trào, để
thành lập “Uỷ Ban Dân Tộc Giải Phóng Việt Nam”, có tính cách như Chính phủ Cách
mạng Lâm thời, do Hồ Chí Minh làm chủ tịch.
Trong
khi đó, Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng ngày 14-8-1945. Quân đội Nhật tại Đông
Dương buông súng, chờ đợi giải giới. Chính phủ Trần Trọng Kim sụp đổ. Chính phủ
nầy không có bộ Quốc phòng, không có quân đội nên không có ai giữ gìn an ninh
xã hội trong thời gian chuyển tiếp. Lực lượng võ trang Việt Minh cộng sản tự do
thao túng.
Từ
Tuyên Quang, Hồ Chí Minh cùng lực lượng Việt Minh đến Hà Nội ngày 21-8-1945 và
xuất hiện trước công chúng ngày 28-8-1945. Sau lễ thoái vị của vua Bảo Đại (trị
vì 1925-1945) tại Huế ngày 30-8, thì tại Hà Nội, Hồ Chí Minh gấp rút ra mắt
chính phủ lâm thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ngày 2-9-1945, tại bãi Cột Cờ
(Rond point Puginier), mới được đổi tên thành công viên Ba Đình từ đầu tháng
8-1945.
Tại
buổi lễ, sau khi đọc bản “Tuyên ngôn độc lập”, Hồ Chí Minh hô to hai lời thề.
Thứ nhứt, lời thề của Chính phủ Lâm thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà: “Chúng tôi,
Chính phủ Lâm thời của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa do Quốc dân đại biểu đại
hội cử lên, xin thề rằng: Chúng tôi sẽ kiên quyết lĩnh đạo làm dân giữ vững nền
độc lập cho Tổ quốc và thực hiện bản chương trình của Việt Minh, đang mang lại
tự do, hạnh phúc cho dân tộc. Trong lúc giữ nền độc lập, chúng tôi quyết vượt
mọi khó khăn, nguy hiểm, dù phải hy sinh tính mệnh cũng không từ.” Thứ hai, lời
thề của Quốc dân: “Chúng tôi, toàn thể dân Việt Nam xin thề: Kiên quyết một
lòng ủng hộ chính phủ Lâm thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, ủng hộ chủ tịch Hồ
Chí Minh. (Xin thề!) Chúng tôi xin thề cùng chính phủ giữ quyền độc lập hoàn
toàn cho Tổ quốc, chống mọi mưu mô xâm lược, dù có phải chết cũng cam lòng.
(Xin thề) Nếu Pháp đến xâm lăng lần nữa thì chúng tôi xin thề: không đi lính
cho Pháp, không làm việc cho Pháp, không bán lương thực cho Pháp, không đưa
đường cho Pháp. (Xin thề!)” (Tô Tử Hạ và nhiều tác giả, 60 năm chính phủ Việt
Nam, Hà Nội: Nxb.Thông Tấn, 2005, tr. 26.)
2.-
HỒ CHÍ MINH NUỐT LỜI THỀ
Tuy
thề như trên, nhưng chỉ nửa năm sau, Hồ Chí Minh vội nuốt lời thề. Nguyên trước
khi Nhật Bản đầu hàng, Hoa Kỳ, Anh và Trung Hoa Quốc Dân Đảng (THQDĐ) gởi cho
Nhật một tối hậu thư, gọi là tối hậu thư Potsdam ngày 26-7-1945, theo đó sau
khi quân đội Nhật đầu hàng, tại Đông Dương quân Nhật sẽ bị giải giới do quân
THQDĐ ở bắc và do quân Anh ở nam vĩ tuyến 16.
Tối
hậu thư Potsdam không đề cập đến ai sẽ cai trị Đông Dương sau khi quân đội Nhật
bị giải giới và rút về nước, nghĩa là không đưa ra một giải pháp chính trị cho
tương lai Đông Dương. Điều nầy sẽ tạo ra một khoảng trống hành chánh và chính
trị tại Đông Dương một khi những quyết định trong tối hậu thư Potsdam được thi
hành, vì nếu Nhật đầu hàng, chính phủ Trần Trọng Kim do Nhật bảo trợ, sẽ sụp
đổ, thì ai sẽ là người có thẩm quyền tại Đông Dương? Đây là kẻ hở mà tân tổng
thống Hoa Kỳ Harry Truman muốn tạo cơ hội cho Pháp trở lại Đông Dương nhằm lấy
lòng Pháp, để Pháp ủng hộ chủ trương của Hoa Kỳ về việc ngăn chận sự bành
trướng của Liên Xô ở Âu Châu. (Robert S. McNamara, In Retrospect, New York:
Times Books, 1995, tr. 31.)
Ngày
14-8-1945, Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng. Quân đội Anh đến Sài Gòn ngày
13-9-1945 và quân đội THQDĐ đến Hà Nội ngày 14-9-1945. Về phía Pháp, để tìm
cách trở lại Đông Dương, Pháp ký với Anh tạm ước về hành chính và tư pháp tại
London ngày 8-10-1945, theo đó Anh giao quyền cho Pháp cai trị phía nam vĩ
tuyến 16 ở Việt Nam. (Chính Đạo, Việt Nam niên biểu, tập A, tr. 275.) Sau đó,
Pháp ký với THQDĐ hiệp ước tại Trùng Khánh (Chongqing) ngày 28-2-1946, nội dung
là Trung Hoa chịu cho quân Pháp thay thế ở bắc vĩ tuyến 16, và ngược lại Pháp
nhường cho Trung Hoa nhiều quyền lợi kinh tế ở Bắc Kỳ cũng như ở Trung Hoa.
(David G. Marr, Vietnam 1945, the Quest for Power, University of California
Press, 1995, tr. 544.)
Pháp
theo quân Anh, tái chiếm Nam Kỳ, rồi tiến quân ra Trung v à Bắc Kỳ. Trong lúc
nầy, Việt Minh và Hồ Chí Minh gặp ba trở lực cùng một lúc: 1) Quân THQDĐ. 2)
Các đảng phái Việt Nam theo chủ nghĩa dân tộc trở về Việt Nam sau thế chiến 2
như Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDĐ), Việt Nam Cách mệnh Đồng minh hội (Việt
Cách)…. 3) Quân Pháp từ trong Nam ra Bắc.
Nhằm
đối phó với các đảng phái Việt Nam theo chủ nghĩa dân tộc, Hồ Chí Minh hối lộ
các tướng lãnh THQDĐ để họ sớm đem quân về nước theo hiệp ước Trùng Khánh, và
khi quân Pháp đến Hải Phòng sáng ngày 6-3-1946, Hồ Chí Minh kiếm cách thỏa hiệp
với Pháp. Vào chiều ngày 6-3-1946, tại số 38 đường Lý Thái Tổ, Hà Nội, Hồ Chí
Minh, với tư cách chủ tịch chính phủ Liên hiệp kháng chiến, ký thỏa ước Sơ bộ
với đại diện Pháp là Jean Sainteny. Theo thỏa ước nầy, Pháp thừa nhận Việt Nam
là một quốc gia tự do (état libre), có chính phủ riêng, nghị viện riêng và tài
chính riêng trong Liên Bang Đông Dương và trong Liên Hiệp Pháp (điều 1); Việt
Nam sẵn sàng tiếp đón quân đội Pháp đến thay thế quân đội Trung Hoa để giải
giáp quân đội Nhật (điều 2).
Hồ
Chí Minh mới thề chống Pháp đó, nay cũng chính Hồ Chí Minh nuốt lời thề, ký
thỏa ước hợp thức hóa sự hiện diện của Pháp tại Việt Nam. Như thế chưa đủ. Hồ
Chí Minh còn theo phái đoàn Phạm Văn Đồng qua Paris dự hội nghị Fontainebleau
và Hồ Chí Minh ký Tạm ước (Modus Vivendi) tối 14-9-1946 với Marius Moutet, bộ
trưởng Pháp quốc hải ngoại. Tạm ước gồm 14 điều khoản, nhượng bộ để cho Pháp
tái tục các hoạt động kinh tế, tài chính, giao thông, văn hóa trên toàn quốc
Việt Nam.
3.-
CĂNG THẲNG VIỆT PHÁP SAU CÁC THỎA ƯỚC
Tạm
yên với THQDĐ và với Pháp sau thỏa ước Sơ bộ (6-3-1946), Việt Minh và Hồ Chí
Minh kiếm cách tấn công các đảng phái chính trị đối lập như VNQDĐ, Việt Cách,
Đại Việt, và những người không theo Việt Minh. Lãnh tụ các đảng phái nầy hoặc
bị giết, hoặc phải lẫn trốn hoặc bỏ qua Trung Quốc. Tuy nhiên, về phía Pháp,
thì Pháp càng ngày càng tăng quân và gây hấn ở Bắc Kỳ.
Ngoài
những tranh chấp nhỏ, cuộc đụng độ Việt Pháp lớn đầu tiên xảy ra ở Bắc Ninh
ngày 3-8-1946. Uỷ ban Liên kiểm Việt Pháp đến can thiệp, nhưng không giải quyết
được cuộc tranh chấp. Ngày hôm sau, Pháp đòi đóng quân tại trại lính khố xanh
cũ. Việt Minh không chấp thuận. Pháp dùng phi cơ oanh tạc, và chiếm luôn thị xã
Bắc Ninh. Sau đó, Pháp tự ý kiểm soát quan thuế ở Hải Phòng kể từ 10-10-1946.
Tại
Lạng Sơn, ngày 20-11-1946, quân Pháp tìm kiếm mộ địa người Pháp bị Nhật giết
trong thời chiến tranh, có cả ban Liên kiểm Việt Pháp đến chứng kiến. Hôm sau,
quân Pháp tiếp tục công việc thì bị Việt Minh tấn công. Hai bên đụng độ nặng.
Quân Pháp chết 9 người. Thương thuyết suốt ba ngày không được, đại tá Sizaire
chiếm thành Lạng Sơn ngày 24-11-1946.
Tại
Hải Phòng, ngày 20-11-1946, một chiếc xà-lúp (chaloupe) của người Trung Hoa chở
nhiên liệu vào biển cửa Cấm ở Hải Phòng, với giấy phép do Sở Thương chánh Việt
cấp. Pháp cho tàu chận xét, và kéo chiếc xà-lúp về đồn Pháp. Quân Tự vệ Việt
Minh ngăn chận tàu Pháp. Hai bên xô xát và nổ súng. Uỷ ban Liên kiểm Việt Pháp
từ Hà Nội xuống Hải Phòng dàn xếp, nhưng tình hình vẫn căng thẳng.
Đại
tá Pierre-Louis Débes gởi tối hậu thư ngày 23-11-1946 cho nhà cầm quyền Việt
Minh phải rút hết tự vệ ra khỏi thành phố Hải Phòng, dẹp bỏ các chướng ngại
vật, nếu không Débes sẽ hành động từ 10 giờ sáng 24-11-1946. Phía Việt Minh
không phúc đáp. Thế là Débes ra lệnh cho phi cơ oanh tạc và chiến hạm tấn công
bằng đại bác, gây thiệt hại nặng nề cho người Việt. (Đoàn Thêm, Hai mươi năm
qua, 1945-1964, Sài Gòn: 1965, California: Nxb. Xuân Thu tái bản, tr. 29.)
Quyền
cao ủy Đông Dương, trung tướng Jean Valluy ra lệnh cho thiếu tướng Louis
Morlière, chỉ huy quân Pháp ở Bắc Kỳ, và đại tá Pierre-Louis Débes phải làm chủ
tình hình Hải Phòng và kiểm soát thuế quan. Débes liền cho quân Pháp tấn công
và hoàn toàn làm chủ Hải Phòng ngày 2-12-1946.
Về
phía Việt Minh, Việt Minh âm thầm chuẩn bị chiến tranh. Lúc đó, Hà Nội có 5
tiểu đoàn Vệ quốc quân và 10,000 tự vệ của 17 khu phố. Việt Minh lùng bắt và
giết hại Pháp kiều cùng binh sĩ Pháp khắp nơi, làm cho tình hình mỗi ngày mỗi
trầm trọng. Lo ngại chiến tranh xảy ra, dân Việt bắt đầu tản cư khỏi thành phố,
về các vùng thôn quê chung quanh.
Ngày
7-12-1946, Võ Nguyên Giáp gởi thông tư khẩn cấp, yêu cầu các đơn vị quân đội
phải hoàn tất việc chuẩn bị tấn công vào ngày 12-12-1946. Từ 10-12-1946, các
công sở được lệnh thu xếp hồ sơ, dụng cụ để tản cư ra vùng nông thôn lân cận.
Trong
khi đó, tại Pháp, cuộc bầu cử quốc hội ngày 10-11-1946 đem thắng lợi cho các
đảng khuynh tả, trong đó đảng CS Pháp dẫn đầu. Các đảng khuynh tả đưa Léon Blum
thuộc đảng Xã Hội, lên lập chính phủ ngày 16-11-1946. Tân chính phủ chủ trương
thương thuyết với Việt Minh để tìm kiếm một giải pháp chính trị, nhưng các
tướng lãnh Pháp ở Đông Dương lại quyết tâm áp lực Việt Minh.
Quyền
cao uỷ Đông Dương, tướng Jean Valluy, ra Hải Phòng họp với Louis Morlière,
Pierre-Louis Débes và Jean Sainteny ngày 17-12. Hôm sau, ngày 18-12-1946, một
chiếc xe của Pháp bị tấn công trước bộ Tài chính và bộ Giao thông tại Hà Nội.
Trưa đó, Pháp giao cho Việt Minh một thư báo tin Pháp sẽ chiếm trụ sở hai bộ
đó, đồng thời yêu cầu Việt Minh dẹp bỏ những chướng ngại vật, nếu không Pháp sẽ
tự mình khai thông đường phố. Việt Minh xem đây là tối hậu thư thứ nhất. Cùng
ngày 18-12-1946, thiếu tá Pháp Jean Julien gởi cho Việt Minh một thư khác phàn
nàn rằng cảnh sát Việt Minh không chu toàn nhiệm vụ và cho biết nếu việc nầy
tiếp tục, Pháp sẽ đảm trách giữ gin an ninh Hà Nội từ ngày 20-12-1946. Việt
Minh xem đây là tối hậu thư thứ hai. (Stein Tonnesson, Vietnam 1946 – How the
War Began, University of California Press, tr. 198.) Cũng trong ngày
18-12-1946, Hoàng Hữu Nam (tức Phan Bôi, em chú bác ruột với Phan Khôi), thứ
trưởng bộ Nội vụ Việt Minh, họp công chức tại Hà Nội, ra lệnh tản cư. (Đoàn
Thêm, sđd. tr. 30.)
Sáng
19-12-1946, tướng Morlière, tư lệnh lực lượng Pháp ở Bắc Kỳ, gởi thư cho Hoàng
Hữu Nam (Phan Bôi), buộc Việt Minh phải tước khí giới quân Tự vệ ở Hà Nội, chấm
dứt bạo động, đình chỉ việc chuẩn bị chiến tranh, và để cho Pháp bảo vệ an ninh
thành phố Hà Nội. Đồng thời Morlière đề nghị với Hoàng Hữu Nam triệu tập cuộc
họp khẩn cấp để tìm biện pháp tránh xung đột. Việt Minh cho đây là tối hậu thư
thứ ba của người Pháp ở Hà Nội. (Stein Tonnesson, sđd. tr. 204.)
Để
Pháp khỏi nghi ngờ về những chuẩn bị của Việt Minh ngày hôm đó, Hoàng Hữu Nam
trả lời rằng vấn đề sẽ được cứu xét trong phiên họp hằng tuần vào ngày hôm sau,
thứ Sáu 20-12-1946. Hồ Chí Minh viết thư ngắn cho đại diện Pháp là Jean
Sainteny yêu cầu Sainteny thương thuyết với thứ trưởng ngoại giao Việt Minh là
Hoàng Minh Giám. Sainteny hẹn sẽ gặp Giám vào ngày hôm sau (20-12). Võ Nguyên
Giáp cố gắng thuyết phục tướng Louis Morlière rằng để làm cho tình hình bớt
căng thẳng, quân Pháp phải tỏ thiện chí bằng cách bỏ lệnh cấm trại, cho lính
nghỉ ngơi. Morlière đồng ý.
Tuy
nhiên lúc 5 giờ chiều ngày 19-12, Louis Morlière nhận được tin tình báo cho
biết VM sẽ tấn công tối hôm đó, nên Morlière đổi ý, duy trì lệnh cấm trại,
không cho quân Pháp ra khỏi căn cứ, đồng thời tập trung thường dân Pháp vào những
khu vực gần căn cứ Pháp để dễ bảo vệ, và chuẩn bị đối phó với tình hình. (phối
hợp các tài liệu: Stein Tonnesson, sđd. tt. 203-204, Đoàn Thêm, sđd. tr. 30 và
Chính Đạo, Việt Nam niên biểu, tập A: 1939-1946, Houston, Nxb. Văn Hóa, 1996,
tt. 370-371.)
4.-
19-12-1946: HỒ CHÍ MINH BỎ TRỐN
Nếu
quân đội Pháp nắm giữ an ninh Hà Nội, nghĩa là kiểm soát cả lực lượng võ trang
VM, thì sinh mệnh của chính phủ Hồ Chí Minh, lãnh đạo mặt trận VM và đảng CSĐD
hoàn toàn nằm trong tay quân đội Pháp. Đó là điều VM không thể chấp nhận được,
nhưng lúc đó VM yếu thế, không đủ sức đánh Pháp. Hồ Chí Minh liền họp Trung
ương đảng CSĐD (TƯĐCSĐD) để quyết định.
Đảng
CSĐD đã được Hồ Chí Minh tuyên bố giải tán ngày 11-11-1945, và thay bằng Hội
Nghiên Cứu Chủ Nghĩa Mã Khắc Tư [Mác-xít] do Trường Chinh (Đặng Xuân Khu) làm
tổng thư ký. Tuy nhiên, theo lời Hồ Chí Minh “dù là bí mật, đảng [CSĐD] vẫn
lãnh đạo chính quyền và nhân dân.” (Hồ Chí Minh toàn tập, [tập 6], xuất bản lần
thứ hai, Hà Nội: Nxb. Chính Trị Quốc Gia, 2000, tr. 161.)
Hồ
Chí Minh trốn khỏi Hà Nội, qua Hà Đông từ 26-11-1946. (Stein Tonnesson, sđd.
tr. 199.) Ông triệu tập cuộc họp Trung ương đảng CSĐD trong hai ngày 18 và
19-12-1946, tại Vạn Phúc (Hà Đông). Không thể để Pháp bắt, cũng không thể âm
thầm nhục nhã bỏ trốn khỏi Hà Nội, Việt Minh và đảng CSĐD không còn con đường
nào khác là phải tấn công Pháp và kêu gọi toàn quốc kháng chiến, để có lý do
chính đáng giải thích sự thoát thân khỏi Hà Nội trong danh dự. Vì vậy, trong
hội nghị nầy, TƯĐCSĐD quyết định phát động cuộc chiến chống Pháp trên toàn
quốc. Hội nghị còn thông qua báo cáo về đường lối trường kỳ kháng chiến của
Trường Chinh, về kế hoạch quân sự của Võ Nguyên Giáp và “Lời kêu gọi toàn quốc
kháng chiến của Hồ Chí Minh”. (Lê Mậu Hãn chủ biên, Đại cương lịch sử Việt Nam,
tập III, Hà Nội: Nxb. Giáo Dục, 2001, tr. 48.)
Theo
điều thứ 29 của Hiến Pháp ngày 9-11-1946, nếu nhà nước “muốn tuyên chiến thì
phải có hai phần ba số nghị viện có mặt bỏ phiếu thuận.” Sau đó, điều thứ 38
ghi rằng: “Khi Nghị viện không họp được, Ban thường vụ cùng với Chính phủ có
quyền quyết định tuyên chiến hay đình chiến.” Tuy hiến pháp nầy không được ban
hành và bị bãi bỏ ngày 14-11-1946, tức 5 ngày sau khi được quốc hội thông qua,
nhưng lúc đó ban thường trực quốc hội đã được bầu lên. Ban thường trực quốc hội
có mặt thường xuyên ở Hà Nội, nhưng không được Hồ Chí Minh tham khảo ý kiến về
một việc trọng đại ảnh hưởng đến vận mệnh của toàn dân, mà Hồ Chí Minh chỉ hội
ý riêng với TƯĐCSĐD, rồi quyết định tấn công Pháp.
Điều
nầy có nghĩa là không phải quốc hội Việt Nam hay ban thường trực quốc hội Việt
Nam, tức không phải đại biểu nhân dân Việt Nam quyết định chiến tranh, mà Hồ
Chí Minh, mặt trận VM, TƯĐCSĐD tự ý quyết định mở cuộc tấn công Pháp, rồi áp
đặt chiến tranh lên dân tộc Việt Nam.
Nhớ
lại lịch sử nước ta thời nhà Trần (1226-1400), vào tháng 11 năm giáp thân
(1284), được tin nhà Nguyên (Trung Hoa) gởi quân tấn công nước ta, vua Trần
Nhân Tông (trị vì 1279-1293) triệu mời các bô lão khắp nước đến điện Diên Hồng
ở kinh đô Thăng Long để tham khảo ý kiến. Tất cả những người có mặt đồng thanh
trả lời là: “Phải đánh” (Quyết chiến). Vào thế kỷ 13, việc đi lại khó khăn,
triệu mời đại biểu dân chúng không dễ, Trần Nhân Tông còn hỏi ý dân để chống
ngoại xâm. Trong khi đó, giữa thế kỷ 20, Hồ Chí Minh chỉ hỏi ý đảng của ông ta
tức đảng CSĐD, mà không cần hỏi ý dân, cũng không cần hỏi ý quốc hội hay ban
thường vụ quốc hội đang có mặt tại Hà Nội.
Cần
chú ý là khi Pháp nhờ người Anh, đưa quân tái chiếm Nam Bộ từ tháng 9-1945, rồi
lại đưa quân tiến ra Trung và Bắc Kỳ, thì tổ quốc Việt Nam thực sự lâm nguy từ
lúc đó. Dầu vậy, Hồ Chí Minh không kêu gọi toàn dân chống Pháp, mà Hồ Chí Minh
kiếm cách thương thuyết với Pháp để duy trì quyền bính. Nay không còn thương
thuyết được nữa, hết cách thỏa thuận, Hồ Chí Minh mới quyết định đánh Pháp vì
Hồ Chí Minh và đảng CS lâm nguy chứ không phải vì tổ quốc Việt Nam lâm nguy.
Như thế chiến tranh bùng nổ tối 19-12-1946 là chiến tranh giữa Việt Minh và
đảng CSĐD với Pháp, chứ không phải giữa dân tộc Việt Nam với Pháp.
Khi
mặt trận Việt Minh cướp chính quyền ngày 2-9-1945, đảng CSĐD quyết định là đảng
nắm độc quyền điều khiển mặt trận Việt Minh, và một mình cai trị đất nước không
chia sẻ quyền lực cho bất cứ ai, bất cứ tổ chức nào. (Philippe Devillers,
Histoire du Viet-Nam de 1940 à 1952, Paris: Éditions du Seuil, 1952, tr. 143.)
Nay Việt Minh bị Pháp dồn vào đường cùng. Việt Minh một mình không thể đối phó
nổi với Pháp, nên Việt Minh kêu gọi toàn quốc kháng chiến, không phải vì mục
đích bảo vệ nền độc lập dân tộc, mà vì bảo vệ sự sống còn của đảng CS.
Chống
ngoại xâm là truyền thống lâu đời của người Việt. Từ khi người Pháp đặt nền bảo
hộ năm 1884, người Việt Nam liên tục nổi lên chống Pháp. Nay nghe được lời kêu
gọi kháng chiến chống Pháp, dân chúng Việt Nam nô nức hưởng ứng ngay vì lòng
yêu nước, thương nòi, chứ dân chúng hoàn toàn không nghi ngờ và không hay biết
những âm mưu và thủ đoạn mà lúc đó Việt Minh giấu kín. Nhờ vậy, Hồ Chí Minh và
đảng CSĐD thoát khỏi nguy cơ bị Pháp tiêu diệt ở Hà Nội vào năm 1946.
Như
thế, ngày 19-12-1946 chỉ là ngày Hồ Chí Minh và Trung ương đảng CS trốn chạy.
Chiến tranh bùng nổ.
(Toronto,
01-12-2012)
©
Trần Gia Phụng
©
Đàn Chim Việt
No comments:
Post a Comment