Phạm Nguyên
Trường dịch
Ngày
25 tháng 12 năm 2012
Ngay từ sáng sớm những dãy phố bên
dưới căn phòng của tôi đã hoạt động nhộn nhịp như một tổ ong. Những quầy hàng
nhỏ bé nằm rải rác khắp nơi, chen nhau trong từng khoảng trống trên vỉa hè.
Những rổ chuối nhỏ, những túi khoai tây hay cà chua được bày bán khắp nơi.
Những người bán báo bám lấy từng góc phố đông đúc. Những người bán hàng rong
với mọi thứ sản phẩm có thể tưởng tượng được tiến hành công việc làm ăn của
mình.
Chiều tà, hoạt động có giảm đi nhưng
không chấm dứt hẳn. Những người bán rau đã trở về nhà. Bây giờ phố xá sặc mùi
xúc xích nướng. Đi dọc phố sau khi trời đã tối được một lúc, tôi bị những người
bán thức ăn vây quanh, họ hi vọng bán món hàng của mình cho những người tìm món
ăn nhẹ vào buổi tối.
Những người bán hàng này là những thứ
đầu tiên tôi nhớ lại khi rời châu Phi. Tôi không chỉ ở châu Phi, tôi đã ở trong
những khu vực đông dân nhất trên lục địa này – đấy là khu Hillbrow ở
Johannesburg. Những người bán hàng rong là thành phần chủ yếu của đời sống ở
Hillbrow. Một số người thậm chí còn nói rằng chính họ làm cho nó suy sụp. Hiện
nay Hillbrow là một khu ổ chuột, đầy gái điếm, bọn buôn bán ma túy, người nước
ngoài rất đáng ngờ và những ngôi nhà đổ nát. Thế mà mới mười năn trước nó chính
là trung tâm thời trang của Johannesburg.
Những người bán hàng rong bị lên án
là nguyên nhân của sự suy sụp vì hàng quán của họ chiếm hết vỉa hè. Mỗi ngày
những đống rác và thức ăn thiu thối mà họ bỏ lại càng cao thêm mãi lên. Không
thể đi bộ trên vỉa hè vì tuần nào cũng có thêm những người bán hàng rong mới
chen chúc nhau ở đó.
Cố gắng rất đáng trân trọng trong
việc kiếm sống của người này lại trở thành khó chịu đối với người khác. Khi đời
sống chính trị ở Nam Phi thay đổi, việc thực thi quy định của chính phủ về bán
hàng rong cũng thay đổi theo. Thời gian đầu chính phủ mới tìm cách bợ đỡ những
người bán hàng rong và không đưa ra quy định nào hết. Nhưng sau một thời gian,
khu phố buôn bán trung tạm trở thành nơi không thể đi lại được nữa. Khách sạn
sang trọng tên là Carlton Hotel đóng cửa và phòng nghỉ của cái khách sạn 50
tầng này đành bỏ không. Thậm chí thị trường chứng khoán Johannesburg cũng chạy
sang khu vực thịnh vượng và sạch sẽ hơn của Sandton. Tôi sẽ không dám đi vào
ban ngày nơi tôi từng một lần đi qua vào lúc nửa đêm. Khi khu vực trung tâm suy
sụp, chính phủ lúng túng không biết nên nghiêm khắc hay không cần thực thi luật
lệ về bán hàng rong nữa.
Nhưng dù người ta có gán cho những
người bán hàng rong những tội lỗi gì đi nữa thì bạn có thật sự phê phán họ hay
không? Trong một đất nước với trên 40 triệu dân, mà chỉ có dưới 25% người có
việc làm thì luật lao động mới chỉ làm cho vấn đề trầm trọng thêm mà thôi. Vỉa
hè là để dành cho người đi bộ chứ không phải cho hàng quán. Nhưng không có hàng
quán thì con em những người bán hàng rong sẽ bị đói.
Sự giận dữ sẽ còn tiếp tục đổ lên đầu
lên cổ những người bán hàng rong, và hiện nay cuộc xung đột vẫn còn tiếp tục vì
ngay cả bây giờ vỉa hè vẫn được coi là tài sản công cộng hay là “của chung”.
Các nhà kinh tế học đã và đang viết về “bi kịch của tài sản chung” và đây là
một ví dụ nữa của việc tài sản chung bị bóc lột một cách quá mức, đến nỗi trở
thành có hại cho tất cả mọi người.
Ngay cả vấn đề rác cũng là vấn đề của
sở hữu chung. Nhà kinh tế học Walter Block đã từng nhận xét rằng vứt rác chỉ
xảy ra ở những nơi thuộc tài sản công mà thôi. Chắc chắn là rác rưởi thường bị
ném vào những chỗ thuộc tài sản riêng nhưng được mở ra cho mọi người cùng sử
dụng – đấy là những chỗ như siêu thị, sân thể thao, rạp chiếu phim. Nhưng ở
những chỗ đó, người chủ sở hữu không gọi cảnh sát tới phạt, mà đưa người tới
dọn dẹp. Dọn dẹp là một phần của việc kinh doanh.
Nhưng thế giới của hàng rong lại
không có quyền sở hữu, và vì vậy mà mới có nhiều vấn đề. Người buôn bán không
có quyền sở hữu chỗ đặt quầy hàng và biết rằng họ có thể bị đuổi đi bất cứ lúc
nào. Thỉnh thoảng lại có một đội cảnh sát tới đuổi, tịch thu hàng hóa và tịch
thu cả hàng quán nữa. Kết quả là người bán hàng không quan tâm tới việc đầu tư
vào hàng quán. Chỉ cần môt tấm bìa các tông trải ngay trên nền đất cũng xong.
Thêm nữa, sẽ trở thành khoản đầu tư mà họ không thể kham nổi vì sợ mất.
Hernando de Soto cũng nhận thấy vấn đề
tương tự như thế ở những người bán hàng rong ở Peru. Ông viết như sau: “Nguy cơ
bị đuổi luôn luôn đe dọa những người bán hàng rong, nhất là khi bị tắc đường
hay dưới áp lực của người dân sống trong khu vực. Nói một cách thực tế, điều đó
ngăn chặn mọi ý định đầu tư dài hạn nhằm cải thiện khu vực, buộc những người
bán hàng rong tiếp tục sử dụng những chiếc xe đẩy chứ không làm hàng quán bằng
vật liệu xây dựng, có điện, nước, tủ lạnh, kho và những vật dụng khác đủ chứa
số hàng hóa cần thiết. Xây dựng những tiện nghi như toilet, chỗ để xe hay vườn
cây sẽ là việc làm không thiết thực”[1] .
Giải pháp cho cuộc xung đột khi những
quyền lợi cạnh tranh với nhau có ý định chộp giật những tài sản thuộc quyền sở
hữu chung là tư nhân hóa. Như tôi đã nói bên trên, giải pháp thay thế còn lại
duy nhất là những biện pháp có tính độc đoán: công an, phạt và tịch thu [2] .
Quyền sở hữu có tác dụng
Trong một khu vực ở Johannesburg,
biện pháp tư hữu đã được đem ra thử nghiệm và có tác dụng. Các chủ doanh nghiệp
tư nhân đã thành lập những khu vực quản lí tư nhân nhằm giải quyết những vấn đề
phát sinh. Một khu vực như thế nằm ngay trên con đường trước khu nhà tôi, gọi
là Ban quản lí Rosebank (RBMD).
Ở đây cũng có vấn đề hàng rong. Một
đoạn phố nhỏ tên là Craddock chạy giữa siêu thị Rosebank và một vài cửa hàng
nhỏ ở bên kia đường. Khoảng 140 người bán hàng rong chen chúc trong khu vực
này. Mọi cố gắng nhằm ngăn chặn việc chiếm đoạt vỉa hè đều không đem lại kết
quả vì khi lực lượng cưỡng chế vừa ra đi là những người bán hàng rong lại chiếm
lấy càng nhiều chỗ càng tốt. Người đi bộ nhiều khi buộc phải bước xuống đường.
Chỉ cần một người dừng lại để xem món đồ là lối đi đã không còn. Mỗi người bán
hàng rong, trong khi hành động vì lợi ích cá nhân của mình, lại có những hành
vi mà tất cả đều bị thiệt hại – tất cả, bởi vì không người nào có quyền sở hữu
cái tài sản mà người đó đang sử dụng.
RBMD có giải pháp. Thứ nhất, dãy phố
được nhượng lại cho họ. Con phố bị đóng cửa, không cho xe chạy qua nữa. Thứ
hai, hầu như toàn bộ dãy phố được biến thành khu vực ngoài trời cho công chúng
sử dụng. Một khu chợ hai tầng được xây dựng cho những người bán hàng rong và
một công ty quản lí được thuê để cai quản công việc. Khoảng 60 người bán hàng
rong được chọn vào bán trong tòa nhà này với khoản phí tối thiểu. Ngay bên dưới
tòa nhà, nơi những người bán hàng rong từng sử dụng làm chỗ bán hàng, được RBMD
dùng làm nơi biểu diễn của các diễn viên múa truyền thống. Các khách sạn ở đây
đặt cả bàn ra ngoài vỉa hè. Khu vực từng xuýt bị lụn bại lại trở thành nơi thu
hút khách du lịch.
RBMD còn thuê cả đội bảo vệ và vệ
sinh viên nữa. An ninh được cải thiện, cả người mua, người bán hàng có môn bài
và cả những người bán hàng rong đều được lợi. Ngoài ra, thành phố không còn
phải lo dọn dẹp nữa vì RBMD đã quan tâm tới chuyện này rồi.
Trước đây, xung đột là không tránh
khỏi. Nhưng khi những người bán hàng không có môn bài được đưa vào hệ thống thị
trường với quyền sở hữu thì những người bán hàng có môn bài và không có môn bài
có thể hợp tác với nhau vì quyền lợi chung.
Một cách nữa là dựng những quầy hàng
trên hè phố. Người ta dành ra những khu vực riêng và người bán hàng được giao
quyền sở hữu quầy hàng đó. Bằng cách bảo đảm cho người ta quyền sở hữu khu đất
mà đằng nào người ta cũng sử dụng, thành phố có thể động viên những người bán hàng
rong.
Theo luật hiện hành, quầy hàng là vốn
chết: giá trị của nó không được sử dụng một cách đúng đắn vì không được pháp
luật công nhận. Trong các nước thuộc thế giới thứ III, như de Soto đã chỉ rõ
trong tác phẩm Bí ẩn của tư bản (The Mystery of Capital), có một
số lớn vốn chết [3]. Nhà chưa có quyền sở hữu, doanh nghiệp ngầm, những người
bán hàng rong – tất cả đều là một phần vốn chết của thế giới thứ III. Chỉ cần
công nhận về mặt pháp lí là một số tài sản khá lớn đã được hình thành chỉ sau
một đêm, đấy là số tài sản mà người nghèo có thể sử dụng để mở rộng và tạo thêm
tài sản mới.
Vị trí có thể sang nhượng
Quyền sở hữu tạo điều kiện cho người
ta sang nhượng các vị trí. Những quy định về buôn bán hiện hành chẳng khác gì
luật ăn cướp. Người bán hàng có thể sử dụng vị trí với điều kiện là người đó
giành được nó trước khi những người khác kịp làm như thế. Nhưng với hệ thống
pháp luật như thế, chuyển giao vị trí là việc khó khăn vì người bán hàng không
có quyền sở hữu. Điều đó làm cho kinh tế trì trệ và những người bán hàng khó
lợi dụng được ưu thế của vị trí buôn bán. Điều này là rõ ràng bởi vì không phải
tất cả mọi chỗ đều có giá trị kinh tế như nhau cho tất cả những người bán hàng.
Nếu những người bán hàng có quyền sở hữu thì họ sẽ có thể thu xếp việc sử dụng
vị trí phù hợp với giá trị kinh tế cả nó. Giá trị một số vị trí sẽ tăng, những
người bán hàng có lợi nhuận cao nhờ vị trí đặc thù, người bán hàng rong cũng
thế. Ở Peru, de Soto phát hiện ra rằng quyền sở hữu bên ngoài hệ thống pháp
luật hiện hành tạo điều kiện cho những người bán hàng rong bán vị trí của họ.
Và cũng giống như mọi hàng hóa khác, vị trí cũng có giá khác nhau.
Tính linh hoạt trong sử dụng còn có
nghĩa là một người có thể sử dụng vị trí vào buổi sáng, còn người khác thì sử
dụng vào buổi chiều. De Soto đã nhận thấy hiện tượng như thế, ông viết:
Thí dụ, không có gì bất thường khi
thấy một chỗ mà buổi sáng có người bán đồ điểm tâm, khoảng 9 hay 10 giờ thì lại
có người bán nước ngọt, rồi đến trưa thì nhường cho người bán cơm trưa, sau đó,
khoảng 4 giờ chiều lại được thay bằng người bán thuốc làm bằng thảo mộc, rồi
đến tối lại được thay bằng người bán các món ăn Trung Hoa. Việc quay vòng như
thế có thể biến một cái xe đẩy thành một tiệm lớn, góp phần tối đa hóa giá trị
của nó. Tự mình, những người bán hàng khác nhau này chỉ cung cấp được một ít
loại hàng hóa và dịch vụ. Nếu bán mãi một vài thứ không hiệu quả thì họ sẽ cải
thiện vị trí bằng cách xoay vòng, làm cho cái xe đẩy đáp ứng được nhu cầu khác
nhau của người tiêu dùng suốt cả ngày, tức là tận dụng được giá trị thương mại
của vị trí suốt hai mươi bốn giờ một ngày” [4]
Việc thiết lập quyền sở hữu còn làm
thay đổi cả hành vi của những người bán hàng rong. Nó khuyến khích người ta cải
thiện công việc kinh doanh của chính họ. Nó tạo điều kiện cho người ta đầu tư.
Nó cho phép người ta chuyển nhượng quyền kinh doanh. Hệ thống quyền sở hữu như
thế giúp biến những người bán hàng không có môn bài thành khu vực có môn bài.
Buôn bán trên đường phố có thể trở thành nơi ươm mầm cho những doanh nghiệp có
khả năng tăng trưởng và đầy sức sống. Cả một tầng lớp doanh nhân có thể được
hình thành, với tất cả những lợi ích mà họ có thể cống hiến cho xã hội.
Tiếp cận bằng quyền sở hữu đem lại
không chỉ sự uyển chuyển mà còn hiệu quả hơn trong việc giữ gìn trật tự trong
khu vực buôn bán. Ban quản lí tại chỗ biết rõ khu vực của mình. Họ biết ai cần
hay ai không cần có mặt tại vị trí nào. Họ còn biết ngay khi người bán hàng này
gây khó khăn cho người bán hàng kia và ai là người chịu trách nhiệm giải quyết.
Nghĩa là, họ có khả năng quản lí những khu vực nhỏ, đặc thù trên đường phố.
Những thành phố lớn với hàng chục triệu dân và hàng ngàn đường phố không thể
cạnh tranh về mặt uyển chuyển với sự quản lí đã được địa phương hóa như thế.
Ở Lima, Peru, chính quyền thành phố
đã phải công nhận rằng cấm buôn bán trên hè phố là việc làm vô ích. Sau đó,
chính quyền thành phố quyết định tạo ra những khu chợ cho người bán hàng rong.
Nhưng theo de Soto, chính quyền thành phố “không tìm cách giữ độc quyền trong
việc xây chợ. Ngược lại, được sự đồng ý của chính quyền trung ương, những người
muốn xây chợ còn được miễn thuế, thậm chí miễn cả phí xin phép xây dựng nữa,
chính quyền thậm chí còn đưa ra những luật lệ có lợi cho các tổ chức của người
buôn bán”. Kết quả là từ năm 1964 đến năm 1970, “hễ nhà nước xây một chợ thì
những người buôn bán không có môn bài xây được bốn cái” [5] .
Những người bán hàng rong đại diện
cho cái mà de Soto gọi là “cuộc trường chinh” tới chủ nghĩa tư bản. Nếu bị
chính quyền cản trở và quấy rầy thì quyền sở hữu không thể phát triển được. Kết
quả sẽ là suy sụp và đổ nát. Nhưng nếu thay vì kiểm soát, chính phủ lại hành
động như là người bảo vệ quyền sở hữu thì việc buôn bán trên đường phố sẽ là
bước khởi đầu trên con đường dẫn tới thịnh vượng.
James Peron là chủ tịch dự án Laissez
Faire Books và biên tập viên tạp chí Laissez Faire!
[1] Hernando de Soto, Con đường khác (The Other Path),
New York: Harper & Row, 1989), trang 66-67.
[2] Quyền tự do, quyền sở hữu và tội phạm (Liberty, Property and
Crime), Ideas on Liberty, November 2001, trang 11.
[3] Hernando de Soto, Bí ẩn của tư bản (The Mystery of
Capital), New York: Basic Books, 2000.
[4] Hernando de Soto, Con đường khác (The Other Path),
trang 67.
[5] Sách đã dẫn, trang 81.
No comments:
Post a Comment