12:10:am
10/12/12
Phần
II
Chương
18
Đoàn
xe GMC gần chục chiếc chuyển bánh chầm chậm vượt qua Cửa Đông, đi ngang qua ngã
ba phố Thành, xuống cầu Ông Cạn, rồi tới Cây Dầu đôi, ngay ngã ba Cải lộ Tuyến.
Đoàn xe tẻ ra. Một chạy về hướng cầu Sông Cái để đi ra quân trường Dục Mỹ của
chính quyền VNCH để lại, đó là toán bộ đội đầu tiên bị bắt lính tại miền Nam
VN. Hai xe còn lại, thẳng tiến hướng Nha Trang, đó là những thanh niên có gia
đình tham gia cách mạng hoặc là những du kích, bỏ học, bỏ đời… lên núi theo CS
trước 1975 khi còn rất trẻ.
Nhìn
cây Dầu đôi to lớn, già đến mấy trăm năm, lòng Tuấn chợt chùn xuống! Anh từng
đi qua đây suốt thời thơ ấu cho đến trưởng thành, nhưng chưa bao giờ, anh có ý
nghĩ như ngày hôm nay.Sao lại bỏ quê hương mà ra đi biền biệt, như trong tâm
tưởng anh từng nhắn nhủ. Những cánh đồng bạt ngàn, xa ngun ngút đến tận chân
núi Trường Sơn, những con sông trong mùa tháng hạ cạn nước, trơ ra bãi cát vàng
lồi lõm như những cù lao nhỏ, những mùa lúa trổ ngọn… đã nuôi anh khôn lớn và
làm người.
“Ta
về, ta tắm ao ta.Dù trong, dù đục ao nhà vẫn hơn”.
Hà
cớ gì, Tuấn đành phủ nhận quê hương mình? Sao u uất quá phút chia ly, rời xa
nơi chôn nhau cắt rốn! Một đất nước sau chiến tranh, vãn hồi hòa bình, sao lòng
người còn ly tán, muốn rời bỏ quê hương để ra đi về một khung trời vô định.
Những người như Tuấn, có thân nhân ruột thịt bên phe chiến thắng, còn muốn bỏ
nước ra đi, huống hồ những kẻ bại trận, chuốt lấy cảnh gia đình tan nát, bị
cướp luôn nhà cửa, cơ ngơi, họ sẽ sống ra sao trong một xã hội thù hằn này?
Bên
kia đường, là căn nhà của cha Tuấn, mua lại từ khi từ Bình Định vào lập nghiệp.
Tuấn đã được sinh ra trong ngôi nhà ấy, sống nơi đó gần 8 năm, với sự thương
yêu của người Cha. Anh vẫn nhớ, mỗi sáng Cha thường chở Tuấn và người chị kề
trên chiếc xe đạp đòn dong cũ kỹ. Anh ngồi một bên, trước Cha trên cái đòn dong
bằng sắt, bà chị ngồi sau bọc-ba-ga ôm chặt lưng Cha sợ hãi. Hai cha con, o
tròn miệng thổi “ù – ù” khi xe lao xuống con dốc không cao lắm. Mà, Cha không
cần đạp nữa vẫn tới quán ăn của ông A Ùi! Cha một tách cà-fê đen sữa, hai đứa
con “cưa” cái bánh bao, có nhân thịt và trứng gà, làm đôi, nhấm nháp thưởng
thức vào buổi sáng tinh khôi ánh mắt trời. Cha chở hai con tới trường. Ông là
thông dịch viên cho ông Quận trưởng quận Diên Khánh, khi cần.
Thời
ấy, “người ta” đã xuống đường dựng bàn thờ Phật làm “lá chắn” để biểu tình phản
đối nền Đệ nhị Cộng hòa, nhưng ở nhiều nơi, cảnh thanh bình vẫn còn. Đến khi,
những kẻ khát máu người, tuyên bố: “Dù chẻ dọc Trường Sơn, có chết bao thanh
niên miền Bắc, vẫn cứ tiến vào Nam, theo chủ trương lớn của đảng…”, thì cả xã
hội miền Nam bắt đầu trả giá cho sự phỉ báng làm Người ấy. Mậu Thân đã để lại
nhiều xác chết của lính và dân trong khu vườn nhà Tuấn, sau một đêm 8 Mẹ con
trốn dưới hầm. Mẹ Tuấn đã thật sự điên loạn khi nhìn thấy những xác người chết,
nằm co quắp đầy rẫy ngoài vườn, sau cái chết của người chồng không lâu vì bạo
bệnh!
Sau
này, khi lớn khôn thêm chút nữa, Tuấn kể lại trận đánh Mậu Thân ấy, một vài
người bạn bảo anh.
“8
– 9 tuổi, mày làm gì có ký ức của tuổi thơ, nhớ dai như vậy!”
Anh
đưa bàn chân mình, còn hằn vết sẹo để lại đời, nói:
-
Không hẳn 8- 9 tuổi, mà 7 tuổi, tao đã nhớ!
Đó
là một ngày, Cha chở Tuấn trên chiếc xe đạp đòn dong, anh đưa cả cái chân trái
vào bộ căm xe đạp. Trong một nhật ký lúc 10 tuổi, khi đi ở nhờ nhà người Cậu,
lúc tủi phận, Tuấn từng viết mà anh vẫn còn nhớ mang máng.
…
…
“Hồi
đó, mình 7 tuổi.Mình còn nhớ lắm.Tụi bạn thường gọi mình là thằng Tuấn què.
Mình đâu có què! Buổi sáng hôm ấy, Cha gọi mình dậy để đi học. Mình thưa là:
“Hôm
nay con bệnh, không muốn đi học.”.
Cha
bảo.
“Không
được lười, con trai. Dậy đi học!”.Mình ú ớ. Cha tiếp.
“Được
rồi.Hôm nay, Cha cho mỗi đứa một cái bánh bao ông A Ùi nhé”.
Được
ăn cả một cái bánh bao của ông A Ùi, là điều mình ước mơ từ lâu. Mình bật dậy,
mặc áo, xỏ đôi giầy “rọ heo” đã ngã sang màu ngà, vội đeo lên lưng Cha ra xe.
Mắt mình ráo hoảnh, cứ nghĩ tới cái bánh bao có trứng hột gà, hoặc vịt với vài
miếng lạp xưỡng, cộng viên thịt heo tròn tròn, bị cắt đôi chia cho bà chị… thấy
ứ cả lòng.Mình cứ nhễu nước miếng. Mình nhắm mắt mê tơi, tưởng tượng khi cả hàm
răng cắn cái bánh bao nóng hổi, tọng vào mồm. Ôi. Sướng “rên mé đìu hiu” (D.A);
và tánh háu ăn, làm mình ngủ gật hồi nào không hay! Đến khi chiếc xe lật gọng,
trước ngã ba A Ùi, mình mới khóc thét lên khi nhìn thấy một cái chân bị quấn
vào vòng căm xe, và rất nhiều người bu lại cố lôi cái chân mình ra, nhưng không
được, mình càng cố khóc thét lên thê thảm, trần ai. Trước tiệm ông A Ùi, là
tiệm xe đạp của ông Thuận Thanh. Ông sai người ra tháo cái niềng bánh xe, đem
cả mình và cái niềng vào tiệm, cắt căm xe lấy cái chân mình ra. Mình đi cà nhắt
cả tháng trời; tụi bạn nó kêu mình là Tuấn què.Mình không què đâu nhé, các bạn.
Mình chỉ bị tai nạn vì mơ và háu ăn thôi!…”
-
Ôi. Miếng ăn chết người!
“Trong
cái Nhục, có miếng ăn… vinh quang,
Trong Vinh quang, có Nhục… ăn quáng quàng.
Vinh quang, Nhục nhã chàng ràng…
Làm người cộng sản, cứ tàng tàng ăn!”
Trong Vinh quang, có Nhục… ăn quáng quàng.
Vinh quang, Nhục nhã chàng ràng…
Làm người cộng sản, cứ tàng tàng ăn!”
Đó
là bốn câu thơ của thằng Đại, tặng Tuấn ngày lên đường, ký một tên mới Trần Đại
Khoa, thân tặng bạn KH.! Nó bảo rằng: Bộ đội già Hồ vào miền Nam, – vào – vơ –
vét – về… để ăn, để vơ vét về, cho những năm thiếu thốn ngoài Bắc sau hơn 20
năm lạc hậu, đảng trị.
*
Trước
ngày trình diện làm người lính thú, thằng Khoa (Đại) và Tấn (Khiêm) đãi Tuấn
một con gà bé tẻo như một nắm tay, cùng một lít rượu Bầu Đá xuất xứ từ Bình
Định, một nhắc nhở thân phận làm người trung trinh như tiền nhân Võ Tánh. Thằng
Đại đưa cái “sắc-cốt” đựng mìn claymor, tặng Tuấn.Anh lặng người, tím tái.
-
Tụi mày chơi tao?
Đại
cười hè hè.
-
Của giả thôi, thằng bạn! Mày hãy đeo nó như một CS thứ thiệt.Xã hội bây giờ
toàn xài đồ giả cả.Từ động từ, danh từ, cả tính từ… he, he… nhớ nhé. Cái thật
đây nè! – Đại vỗ bồm bộp lên thành túi – cái xách mìn claymor.Tuấn nhìn xuống
thấy hàng chữ.
-
Nothing more preciuos than independence and freedom! (Không có gì quý hơn độc
lập và tự do!).
-
Tao cũng tặng mày! – Thằng… Tân tác gia “Khiêm” lấy cái “sắc-cốt”, kẽ thêm dấu
hỏi (?) thật lớn, sau cái chấm than (!)!
Tuấn
nói.
-
Đất nước này chưa bao giờ có độc lập và tự do! Độc lập, mà mọi thứ nhu cầu cho
đời sống, cho chính trị được bảo hộ từ thằng CS phương Bắc Tàu chệt tóm lấy. Tự
do, mà cái ăn, sinh hoạt đời sống phải báo cáo hàng giờ cho mỗi địa phương khi
muốn đi và muốn đến, để được tem phiếu cho cái bao tử luôn luôn trống rỗng vì đói
kinh niên! Người CS ngu về thuật trị nước, nhưng họ rất khôn về hành vi xử dụng
từ ngữ mê hoặc lòng người.
-
Này nhé: Đây là chính quyền do dân và vì dân. Vì dân, nhưng lại thích thắt chặt
cái bao tử của Dân để dễ bề cai trị! Tụi mày hãy nhìn kìa… những cái loa, trên
những cột điện và trên những cây cao nó leo lẻo “ré” hằng ngày vào tai mọi
người, đến điếc đặc óc, làm mụ mị con người: những điều tốt đẹp nhất, do đảng
và nhà nước chủ trương! Chỉ có những thằng xấu, mới rên (rêu) rao, cái tốt đẹp
của nó! “Hữu xạ tự nhiên hương” là ý chí và sự quật cường của dân tộc VN, có từ
ngàn đời chưa được dịp phát tác. Cũng như, chúng ta là những thanh niên vào đời
bằng một trái tim trong sáng, sau chiến tranh, muốn nhìn một sự đổi thay toàn
bích, thì bị chính quyền này, gọi chúng ta là những Hạt Ươm Hư, do chính quyền
trước để lại. Mọi thanh niên, lớp kế tiếp chúng ta, đều kỳ vọng để vươn lên,
xây dựng lại đất nước sau thời chiến tranh.Chúng ta cũng chấp nhận là những
viên gạch lót đường, để tiến thêm bước nữa cho thế hệ kế tiếp.Hãy điểm lại lịch
sử, ai đúng ai sai? Thực dân Pháp, đã cai trị trên đất nước chúng ta gần 100
năm. Không một quốc gia nào, người dân nào trên đất nước ấy chịu, bị, cai trị
bởi ngoại bang. Kháng chiến chống Pháp là trách nhiệm của mọi công dân yêu
nước, như ông Cậu tao, ông Cậu đạo diễn của thằng Đại, – À, không… của thằng
Khoa, là điều nên làm. Nhưng khi, cái Búa và cái Lưỡi liềm lê tới VN, do Hồ chí
Minh đem về, thì mọi trí thức nên tự hỏi: Búa để đập đầu, Lưỡi liềm để cắt cổ
người Dân? Dĩ nhiên, thời đó thông tin bị bưng bít, nhưng cải cách ruộng đất,
gần 200 ngàn dân vô tội bị giết oan, dù chỉ có một mảnh đất cắm dùi, chó ỉa ba
ngày không hốt, đạp lên, bàn chân trét cứt cả nhà! He… he…
Tuấn
tợp thêm vài ngụm rượu Bầu Đá, đầu lơ mơ, tiếp.
-
Tao sẽ không là Hạt Ươm Hư; và cũng không là những viên gạch lót đường cho thế
hệ nối tiếp… Tao là tao, là thằng KH.!
Cả
ba ôm nhau rơi nước mắt, khi nhớ lại cái ngày chú Tám – ba thằng Đại – ôm chúng
khóc rống lên khi nghe tin ông Dương Văn Minh thông báo quân đội VNCH, đầu hàng
quân Bắc Việt vô điều kiện.
Tuấn
lau vội nước mắt, nói tiếp.
-
Chúng ta, không dính líu gì tới hai chế độ này. Nhưng chúng ta là “sản phẩm”
của họ để lại.Nên “chúng” gọi ta là Hạt Ươm Hư. Nói là “sản phẩm của họ” dường
như không đúng.Nhưng lịch sử sẽ phán xét điều này, sau đó. Chúng ta có mắt, có
đầu óc để phán xét cuộc chiến tranh tương tàn này, không phải bởi chúng ta đã
trưởng thành! Chiến tranh đã làm mụ mị cả dân tộc này của cả hai phía. Mà theo
lề truyền thông của báo chí, của một Chính, một Tà; một quốc, một Cộng! Chúng
ta – những thanh niên miền Nam – nên mang ơn trân trọng sâu nặng nền báo chí Tự
do miền Nam này. Họ cho chúng ta những kiến thức về một thể chế của chính quyền
đương đại. Chia ruộng đất cho người nghèo, qua chính sách: luật người cày có
ruộng, bảo vệ người biểu tình, hổ trợ những dân tộc thiểu số và nhất là những
người Chăm đã bị tiêu diệt cả một dân tộc v…v…
Còn
chính quyền bây giờ, chúng ta thấy được gì?Thâu tóm ruộng đất về một mối cho
nhà nước CS. Bỏ tù những người khác chính kiến, sau thất trận.Tiêu hủy cả một
nền văn hóa nhân văn, nhân bản mà họ cho là đồi trụy. Kềm kẹp cái bao tử của
con người để dễ bề cai trị, sai khiến… để sau đó dẫn đến đàn áp; và lập lại
những cái sai từ năm 1954: đào tận gốc, trốc tận rễ, cướp lấy nhà cửa người dân
miền Nam. Kết quả là, hằng bao nhiêu người vượt biển bằng những con thuyền nhỏ
bé, mong manh – mà nhân loại – không hề nghĩ tới, nó sẽ lênh đênh trên biển
nhiều ngày, tháng.
Đây
là chính quyền vì dân và do dân làm chủ đất nước?
-
Nhưng chúng ta đã bảo vệ những thằng “ăn cơm Quốc gia thờ ma Cộng sản”, làm đất
nước này chìm trong biển thù hận cùng dòng giống VN da vàng. Mày quên điều này,
Tuấn.
-
Tao không quên điều này. Bởi vì, tao không muốn nhắc tới, trong đó có ông anh
trí thức miền Nam của tao. Trí thức đúng là một cục cứt, như thằng cha
Sì-ta-lin và thằng Mao đã lập lại, rồi truyền tới cả đất nước VN khốn khổ này,
như một thứ ung thư… lây lan chưa bao giờ có trên trái đất này! Một Nguyễn Hữu
Đang, một Trần Đức Thảo, một… là những cục cứt này! Đừng bảo rằng, những ông
này không có đầu óc, mà lầm lạc! Cái danh vọng, cái tiền tài, cái dị hợm hơn
người đã làm họ biến thái. Cách mạng Nga 1917, họ biết tất, nhưng họ vẫn lao
vào như con thiêu thân, vì những thứ bá vơ ấy. Rồi đây, những con thiêu thân
trí thức miền Nam cũng sẽ lập lại.
*
11
tuổi, Tuấn biết sự phi lý của cuộc đời qua danh vọng hão huyền. Trước những năm
ấy, khi anh đi ở nhờ nhà người Cậu, đậu vào đệ thất trường Công, đứng thứ nhì
toàn quận, sau thằng Đại qua một bài Văn tả về một người Mẹ. Hôm lãnh cái giải
thưởng của nền Đệ nhị Cộng hòa, khi được xưng tên lên lãnh giải, Tuấn định bước
lên Hội trường nhận phần thưởng, thì ông Cậu, bảo anh dừng lại và kêu đứa con
trai ông cùng tuổi Tuấn, học cùng lớp, nhận giải. Anh khóc cả ngày hôm ấy! Và
Tuấn quyết sau này, không ai có thể nắm vận mệnh cuộc đời anh, khi khôn lớn và
hiểu biết.
…
…
-
Xuống xe, xuống xe các đồng chí!
Tuấn
thót giật mình buông trôi suy nghĩ, mà anh nghĩ rằng, đây là lần cuối nhìn thấy
cây Dầu đôi trong ký ức.
-
Mẹ nó. Tình đồng chí tăng cấp“lũy thừa”! Sao nhanh vậy?
Mới
tháng trước, gã công an Thắng lòng vòng quanh Diên Khánh, tìm kiếm để chiêu nạp
“hiền sĩ công an”, còn “cậu, tớ”, nay đã là “đồng chí”! Cả cái thế giới Tư bản
hay Đại đồng con mẹ gì đó, làm gì có cái tên đồng chí! Mỗi con người được Trời,
Phật, Chúa hay Thượng đế sinh ra, mỗi thân phận người, có suy nghĩ khác nhau,
như vân tay trong ngón tay mỗi con người. Thì làm sao gọi là đồng chí, cùng một
chí hướng suy tư?
Một
con lừa bị bịt mắt, khắc hẳn một con lừa chưa từng bị bịt mắt vì chúng được tự
do chạy nhảy, ăn cỏ nơi chúng thích. Chúng thích chạy nhảy nơi chúng sinh ra,
tìm cỏ lạ ăn.Chúng không thích.
“Nơi
đây biên giới là nhà
Bên
kia biên giới cũng là quê hương”.(T.H.)
Chỗ
chúng đang ăn “ngon lành” bảo qua bên kia biên giới cũng là quê hương, để bị
bắn giết lấy thịt à? Ôi tình đồng chí thắm thiết!
-
Các đồng chí nhanh nhanh vào hàng nào! – Thắng thổi còi, hối thúc.
Bọn
tân binh riu ríu vào hàng.Đã có sẵn trên 150 tân binh từ các quận, xã của tỉnh
Khánh Hòa tựu trung, trước đó.
-
Báo danh bằng số, theo thứ tự.
-
1, 2, 3… 219. – Bọn tân binh báo danh.
*
Tuấn
ngơ ngác nhìn quanh. Anh chợt nhớ trong miên man suy nghĩ, nhận thức rằng, xe
đang vào thành phố Nha Trang. Tới ngã ba Mã Vòng xe quẹo vào Phước Hải. Đây là
nơi có nhà tù lớn nhất tỉnh Khánh Hòa, gọi là Quân Lao, nay dùng làm quân
trường cho ngành Công an vũ trang hay còn còn gọi là Công an biên phòng. Trên
cánh cổng to lớn, Tuấn thấy hàng chữ:
“Trường
huấn luyện Công an vũ trang, đồn Ba Linh Một!
-
Ba Linh Một là cái quái quỷ gì? Sau này, Tuấn mới hiểu: Ba Linh Một là Ba Lẻ
Một, hoặc 301. Chữ nghĩa của đỉnh cao trí tuệ loài người thật khó hiểu!
Ông
thượng úy, đứng trước hàng quân, ra quân lệnh.
-
Tôi báo cáo cho các đồng chí rõ. Sau hơn 20 năm chiến tranh, nay vãn hồi hòa
bình, đất nước ta, dân tộc ta, vẫn còn đói nghèo, tôi mong các đồng chí thông
cảm, hãy ra ngoài phố, tự cắt tóc cho mình. Tôi cho các đồng 2 tiếng đồng hồ,
rồi trở lại quân trường!
-
Mẹ kiếp. Thế là mất toi tí tiền còm!
Tuấn
than thầm trong bụng. Trước khi ra đi làm người lính thú, bà mợ dâu cho Tuấn 2
đồng bạc cắc tiền Hồ, cho 6 tháng quân trường cam go. Giờ cái nhà nước, do dân
và vì dân, cái quân đội hùng mạnh nhất Châu Á đánh thắng hai thằng tư bản đầu
sỏ thế giới, lại không có một anh lính quân nhu (hậu cần) “húi” đầu tân binh?
-
Sao lạ vậy?
Bọn
tân binh túa đi nhiều ngã, ngơ ngác tìm những tiệm hớt tóc. Tuấn chạy đến một
tiệm chụp ảnh, anh quen thời trước 75 khi ông Năm còn làm ăn, chụp tấm ảnh kỷ
niệm cho một cái đầu sắp bị “húi” sát da.
*
“Công
an vũ trang chúng ta vì tổ quốc
Nguyện một lòng với non sông…”
Nguyện một lòng với non sông…”
219
cái mồm tân khóa sinh chu ra hát nghêu ngao, bài hát: Công an vũ trang… nhân
dân.
Lại
nhân dân!
Tuấn
nhìn khắp sân bóng chuyền, thấy 219 hình nhân đều giống nhau. Áo quần màu xanh
cứt ngựa (được phát hai bộ), một cái mủ vãi công an vũ trang, một cái nón cối,
một cái mền, chiếu, ba lô, một cái chén ăn cơm bằng sắt pha men, hai đôi giầy
vãi: một cao trên mắt cá chân, một thấp hơn. Mọi thứ đều từ Trung quốc viện
trợ. Bộ chỉ huy cấm tuyệt không sửa chữa lại quần áo từ nước anh em láng giềng
viện trợ, nên nhìn tân binh nào cũng giống như nhau: cái đáy quần, dài, kéo
xuống hai cái đầu gối của tân binh. Tuấn chưa nhìn thấy một quân đội nào lại ăn
mặc lượm thượm và khó coi như quân đội VN.
*
Ngày
đầu tiên vào quân trường, Tuấn xếp hàng chờ giờ cơm trưa. Anh đeo cái bát đựng
cơm sau túi quần, gắn vào đó bằng một cái móc tròn, như cái móc của thứ lựu đạn
“mảng cầu” đã được rút chốt, ném vào kẻ thù, và giữ lại. Nó tòng teng, sau túi
quần rộng thênh thang.219 tân binh ngóng chờ bửa cơm đầu tiên trong đời lính.
Buổi sáng sớm, chả tên nào được ăn, nên mau đói của tuổi mới lớn.
-
Đụ mẹ! Đói lắm rồi, quân đội ơi!
-
Đừng mất quan điểm lập trường của một chiến sĩ Công an nhân dân, tự nguyện đầu
quân!
-
Tao mà tự nguyện? Tự nguyện cái con cặc! Mấy ổng biết gia đình tao, có mấy ông
chú, bác đi tập kết, đi lên núi, nên phủ dụ. Tao làm dân phụ lơ xe đò, còn
sướng hơn. Ăn cơm dọc đường tùy thích, đéo chờ ai, cũng chẳng muốn ai chờ.
-
Sao đồng chí nói vậy?
-
Ê, thằng kia, mới mấy tiếng đồng hồ là đồng chí sao? Tao đéo là đồng chí của
mày nhé! Tao là Lơ xe đò bị gạt, bị bắt vào đây làm công an. Mả mẹ mày, lạng
chạng, tao dộng cho đi hết hàm răng… đồng chí của mày!
Đó
là Hưng, người bạn liên kết sau này với Tuấn
-
Cấm ăn nói “ninh tinh”. Các đồng chí vào hàng. Xếp hàng hai, nhận khẩu phần.
Khẩn trương vào hàng!
Tuấn
đun vai người bạn lính, chưa biết tên tiến tới. Nắp vung mở ra còn bốc khói!
-
Khẩu phần của các đồng chí đây!
Những
cái bánh được xếp chồng chất lên nhau, trong những cái nồi nấu ăn của quân đội
được mở ra, bốc khói, lan tỏa.
Đó
là những vòng tròn của những cái đít chai vỏ bia “con Cọp” chính quyền trước để
lại, vất bừa bãi trong kho nhà bếp, sau đói quá phải bán cho nhà ve chai kiếm
thêm miếng ăn, được chính quyền mua về, cắt ra bằng lửa đang đun nóng, bằng một
dây thép cột vòng ngang dưới đáy chai của…“đỉnh cao trí tuệ”. Đường kính trên
ba lóng tay, dày không hơn một đốt ngón tay, như người ta dùng một cái nắp của
chai lọ ụp xuống tàn nhẫn rồi chia ra từng phần, không một mãy may: thiếu, thừa
để tranh cãi vì miếng ăn!
-
Đụ mẹ.Toàn là bột mì.Ăn chỉ ngần này, làm sao đi, đứng, thao tác, mà nói chi
tác chiến!
Tuấn
bỏ vào mồm cục bột, nhấm nháp ngậm. Dường như, đây là thứ bột mì trong chiến tranh
còn để lại, xây xát thành bột, để lực lượng chủ yếu nhất, trong ngành quân đội
xử dụng!
Và
cái Tuấn để ý nhất, quân đội VNCS không bao giờ chào lá Quốc kỳ và chào nhau
bằng quân lệnh khi gặp nhau ngoài đường phố hay trong quân trường. Có một hôm,
Tuấn đi ra khỏi A, gặp trung sĩ Thắng. Trong thân tâm anh đã nhìn thấy trên báo
chí, hình ảnh… khi những người lính gặp nhau bất cứ nơi đâu – cùng một binh
chủng – đưa tay ngang trán chào. Anh đưa tay chào trung sĩ Thắng, nhưng hắn ngó
lơ và vẫn tiếp tục đi, như không thấy, không biết! Gần 6 tháng quân trường,
Tuấn chưa hề thấy lá cờ đỏ sao vàng được kéo lên trụ cờ (trong quân trường
không có trụ cờ để chào mỗi sáng, như học đường của chính quyền VNCH); chỉ thấy
lá cờ đỏ sao vàng, bay phất phới trên một chòi canh cao trước đồn, lưu cửu.
Quốc gia đâu. Dân tộc đâu… qua biểu hiện, của một lá cờ Tổ quốc?
Quốc gia đâu. Dân tộc đâu… qua biểu hiện, của một lá cờ Tổ quốc?
*
Chương
19
Đã
nhiều tuần, Tuấn đói meo.
Đói
thấy thương cho chính anh và cho những tân binh.Đa số, họ xuất thân từ giai cấp
cố cựu bần nông, có gia đình và thân nhân tham gia trong cuộc chiến đồng chủng
giết nhau.Sau này, Tuấn biết chỉ có hai sinh viên, có trình độ đại học năm thứ
2, và 3. Còn hầu hết, chưa qua lớp 9, thậm chí có rất nhiều anh mù chữ, và
không biết đường trở về quê khi có được giấy phép vài ngày, mà phải có đồng
chí, đồng hương dẫn về nhà, dù không xa là mấy – ở Ninh Hòa, cách trung tâm
huấn luyện gần 50 km. Nhưng họ ăn thì kinh khiếp lắm. Bản chất lao động của dân
vùng biển và nông thôn thì khỏi chê, cộng cái tuổi đang trẻ, một bát cơm họ
“lùa” vài nhát là xong!
Một
thau nhôm cơm, chia cho 6 tân binh.Nếu chia đều, mỗi người được 2 bát lưng
lưng, cộng vài con cá thiu, vài lát cà chua đỏ lòe, mằn mặn muối, hoặc một nhúm
rau muống cho vui đời lính chiến.Tuấn vừa gắp miếng cá ôi, lừa mảnh xương ra,
nhìn xuống thau cơm.Cơm đâu?
Chúng – bọn đồng chí khốn kiếp – đã nuốt vội vàng bát cơm tọng vào mồm, để lấp cái bao tử luôn trống rỗng, mà không hề cần biết đồng chí của họ cũng đói rã ruột!
Chúng – bọn đồng chí khốn kiếp – đã nuốt vội vàng bát cơm tọng vào mồm, để lấp cái bao tử luôn trống rỗng, mà không hề cần biết đồng chí của họ cũng đói rã ruột!
Anh
đói quặn cả người, khi trưa trưa ra nằm ngoài bãi tập ngắm bắn súng, hoặc mỗi
sáng sớm chạy gần 5 cây số, quanh thành phố Nha Trang rồi bọc xuống biển, với
cái ba lô đeo sau lưng trên chục ký, cùng cây C.K.C. cầm, đưa ngang trước ngực,
với cái bụng trống rỗng.
Những tuần đầu, sĩ quan, hạ sĩ quan từ miền Bắc vào làm huấn luyện Khung, cùng ăn chung với tân binh, cho thắm tình đồng chí như cá với nước. Sau một tuần, bọn chúng ăn riêng, có phục vụ riêng, ê hề mà chén!
Những tuần đầu, sĩ quan, hạ sĩ quan từ miền Bắc vào làm huấn luyện Khung, cùng ăn chung với tân binh, cho thắm tình đồng chí như cá với nước. Sau một tuần, bọn chúng ăn riêng, có phục vụ riêng, ê hề mà chén!
-
Đồng chí Thắng. Đồng chí hứa với tôi, khi tôi tình nguyện vào ngành Công an,
đồng chí lo cho tôi mọi bề. Sao giờ thế này! Tôi đói rã ruột, vì bọn ăn tham.
Mà các đồng chí, ăn ê hề ở đây! Đồng chí còn nhớ, đồng chí hứa cho tôi đi học
khóa điện ảnh quốc gia, vì gia đình cách mạng? -
Tuấn gào lên.
Tuấn gào lên.
-
Ơ kìa.Đồng chí nói gì lạ thế.Tôi hứa khi nào? Chủ trương, chính sách là do nhà
nước ta quyết định, chứ tôi có quyền gì nào!
Thì
ra thế! Thằng CS nào cũng nói dối như cuội.Chúng nói dối trơn mồm, miễn sao đạt
tiêu chuẩn “trên” giao cho, rồi trơ ra mặt mốc.Tên Thắng đã từng hứa, vào Công
an rồi, gã sẽ đề bạt cấp trên đưa Tuấn vào trường điện ảnh quốc gia, làm phóng
viên chiến trường, nên anh mới đầu quân. Khi còn trẻ, Tuấn mơ ước, sau này anh
sẽ là một phóng viên chiến trường như Phan Nhật Nam, đi khắp mọi miền đất nước
cho thỏa chí bình sinh một người lính.
Với
“Dựa lưng nỗi chết”, “Mùa hè đỏ lửa”, anh mê biết bao, để trở thành một phóng
viên báo chí, không thể nổi tiếng như Ông – đã đành. Anh sẽ có cơ hội đi nhiều
nơi, nhiều nước rồi “lĩnh” luôn ở một xứ tự do nào đó, cho hết kiếp người phù
du. Tuấn quay bước, đi.
-
Này… đồng chí Tuấn!
-
Đồng chí cái… bìu. Tên lừa dối!
*
Sợi
dây kẽm căng ngang tầm ngực, dùng để phơi áo quần tập thể bộ đội, đang chạy
ngang qua mắt Tuấn. Anh đưa cây C.K.C thẳng đuột về phía trước trên sợi kẽm
gai, theo thế đứng ngắm bắn qua đầu ruồi của nòng súng. Hai vai anh bắt đầu run
lên liên tục. Tuấn muốn liệng cây súng, chấp nhận mọi hậu quả nhưng anh ráng
nhịn. Đó là hình phạt bị kiểm điểm, sau nhiều lần anh ăn nói “ninh tinh” với
cán bộ Khung. Với người CS không có tư duy độc lập, mà phải theo sự chỉ huy của
thượng cấp. Đó là quân lệnh của ngành công an!
Tuấn
nhớ lại những gì đã xảy ra…
-
Báo cáo các đồng chí. Dân tộc VN là một dân tộc oai hùng, có 4000 năm dựng nước
và giữ nước. Chúng ta bị bọn ngoại bang Pháp, Nhật, Mỹ… chiếm đóng và cai trị
tổng cộng trên 100 năm. Một dân tộc oai hùng, sẽ không bị khuất phục trước
ngoại bang. Vì thế chúng ta đã tranh đấu cho tự do của cả ba miền đất nước.
Chúng ta có: Ba Đình “của” Hà Nội, thành phố Sài Gòn “của” Hồ chí Minh, Huế của
“Mậu Thân”, đấu tranh để thành công ngày hôm nay. Để hôm nay… ta chiến thắng!
-
Báo cáo đồng chí. Chúng ta cũng bị chiếm lấy và lệ thuộc 1000 năm bởi Trung
Quốc! – Tuấn đứng lên, sau khi giơ tay, phát biểu.
Gã
thượng úy, khựng lại, mắt láo liêng.
-
Đồng chí ở A nào?
-
A.6!
*
Quân
đội CS cũng chia ra nhân số, như quân đội VNCH, chỉ khác cái tên. Nhưng vì bản
chất là một thứ tráo trở chữ nghĩa, nên chúng không dùng tên, mà dùng ký hiệu!
Một tiểu đội, đại đội… thì cứ gọi thế như bao quân đội trên thế giới, từng gọi.
Tiểu đội gọi là A: có từ 13 đến 17 người, Trung đội có nhiều hơn khoảng 120.
Khi lên cấp đại đội là C, trên 200 người. Còn Tiểu đội trưởng gọi là A trưởng
của Khung. Khung là gì, chả thằng lính nào hiểu! Nghe vậy, biết vậy.
Có
trời mà biết, bao nhiêu thanh niên miền Bắc, đáng thương… đã nằm xuống trên con
đường chẻ dọc Trường Sơn, Nam tiến bằng những nhân số mập mờ. Hãy nghĩ xem: có
tiểu đội 13, có tiểu đội 17 người, như vậy bộ đội miền Bắc, chết trên con đường
dọc Trường Sơn và cuộc Nam tiến là bao nhiêu?
Dân
tộc VN chỉ nghĩ đến điều lễ giáo trong thân tộc, làng xóm và đất nước. Chúng ta
bị co cụm trong chủ nghĩa lễ giáo có ngàn đời, mà không biết chia sẻ trong một
cộng đồng nhân loại: Đưa đất nước đi lên cùng mọi chủng tộc. Không một chủng
tộc nào, muốn đưa đất nước mình vào vòng khốn quẩn, ngoại trừ những đỉnh cao
trí tuệ loài người. Đã là những đỉnh cao trí tuệ loài người, thì hà cớ gì họ
chung tay cùng cộng đồng nhân loại. Phí… chất xám!
Một
Dân tộc bất hạnh, vì có những bộ óc đỉnh cao chuyên ăn khoai mì, khoai lang, bo
bo, và phá rừng trồng những củ ấy… sau khi đánh thắng hai thằng đế quốc: Thực
dân và Tư Sản!
Ui
chao. Tổ quốc ta ơi!
“Như
có bác Hồ trong ngày vui đại thắng…”
1975…
…Toàn
dân đều vui, khi thân nhân họ bị bắt bỏ tù qua cái tên “cải tạo”. Toàn dân đều
vui, khi bị lấy mất nhà và bị đày đi “Kinh tế mới”, bố thí vài chục ký gạo, rồi
bỏ họ nơi núi rừng hoang vắng.. Toàn dân đều vui khi có cả triệu, tỷ đồng trong
tay được đổi lại 200 đồng tiền Hồ. Toàn dân đều vui, khi ngày ngày, xếp hàng
nhận những phần ăn ít ỏi, để kèm kẹp cái bao tử. Toàn quân đội VN đều vui, khi
nhận khẩu phần ăn của mình, bằng bột mì, mì sợi, mì (sắn) lát, bo bo… những
thực phẩm còn thua cho con chó ăn, trước 1975 ở miền Nam!
Ông
thượng úy chính trị viên thường rêu rao đến nhàm tai, như một sự lập lại: đế
quốc Mỹ vào VN bỏ con tép, bắt con tôm.
-
Công an nhân dân vũ trang là cánh tay phải của đảng và nhà nước, là đội quân
xung kích bách chiến, bách thắng của chế độ ta, đánh trả kẻ thù đã đô hộ dân
tộc ta!
Vậy
mà, Tuấn mới nhắc ngàn năm bị đô hộ giặc Tàu phương Bắc, đã bị lãnh hình phạt:
chào bằng súng, đúng 2 giờ đồng hồ.
Những
viên gạch lót đường, bao giờ mà chẳng bị thua thiệt!
*
Miếng
ăn luôn dằn vặt những người lính, là cánh tay phải của đảng và là quân đội nòng
cốt của nhà nước thường rêu rao. Sáng một cục bột mì, trưa hai chén mì sợi
Trung quốc, với chút nước mắm lấm tấm đỏ trái cà chua, chiều là hai chén cơm
với cá ôi.Vậy mà vẫn tranh nhau ăn, như một dân tộc bị bỏ đói từ lâu. Những
cánh tay phải của đảng đã thế: – Đói – vậy ngoài xã hội dân sự cái ăn nó thê
thảm đến thế nào?!
“Độc
lập, Tự do, Hạnh phúc, Ấm no… là đây sao?”
Tuổi
trẻ vốn háo ăn vì đang sức trưởng thành, bị kềm hãm bởi cái ăn, ai mà chả tức.
Cái gì gọi là tình đồng chí? Chủ nghĩa CS đại đồng bách chiến bách thắng, nhân
dân anh hùng trong hai cuộc chiến, và nhiệm vụ của một công an nhân dân trong
thời bình, là cánh tay phải của đảng… đều bị vứt vào sọt rác! Bọn tân binh bắt
đầu canh nhau qua miếng ăn, là miếng tồi tàn và nhục nhả nhất của con người.
Tuấn
bắt đầu phản kháng. Anh đói lắm rồi, không thể nhịn!
Khi
tiếng kẻng được gõ lên, mọi tân binh như những con vật, chạy xếp vào chuồng,
náo nức chờ bữa ăn, sau mấy giờ đồng hồ thao tác quân sự, bụng trống rỗng, với
cái chén sắt tráng men trên tay. Tuấn xếp vào hàng, chờ đợi, đến lượt tốp anh.
-
Cũng lại là hắn – thằng tham ăn bất nhân, bất nghĩa… đồng chí – ăn nhanh nhất
quân trường – đứng trước Tuấn. Hắn to cao, như một lực sĩ, ai ai cũng sợ.Hắn
biết Tuấn, xuất thân từ một thằng học sinh mới vào đời, nên thường hiếp đáp
trong bữa ăn, cả trong sinh hoạt quân đội.
Sáu
thằng tân binh bước vào nhà ăn tập thể nhận thau cơm tí xíu, lại bàn ngồi. Cả
sáu tân binh trịnh trọng ngồi xuống chuẩn bị cho một bữa ăn ít ỏi, thiếu chất
đạm dinh dưỡng tuổi mới lớn vào đời sống quân ngũ nghiệt ngã. Hắn vụt đứng lên,
vùi chén cơm, vét một mẻ đầy vun, trước tiên.
-
Này, đồng chí. Sao làm vậy?Ai cũng đói.Chúng ta bắt đầu từ hôm nay, nên chia ra
6 góc trong thau cơm, cho mỗi người đồng đều.
-
Là một thằng lính, phải hiểu mình đang ở đâu, làm gì. Mạnh được, yếu thua là ở
trong quân đội!
-
Ông nói vậy, nghe sao được. Chỉ tiêu quân đội chỉ ngần ấy, phải chia đều chứ!
-
Tao là dân “Lò heo” Nha Trang, tao nói được là được! Mày hiểu rõ, thằng “mặt
trắng”?
-
Ông kêu ai “mặt trắng”?
-
Là mày!
Tuấn
đứng dậy, bê cái thau nhôm canh rau muống còn nóng hổi, đưa hai tay.
-
Mời đại ca… sơi!
Hắn
trườn mặt tới, từ bên kia ghế ngồi, nhận thau canh rau muống. Tuấn ụp thau canh
còn nóng hổi vào mặt hắn. Hắn vung tay ôm mặt la ré lên! Tiện tay, với thau cơm
bằng nhôm, anh chặt thẳng xuống sống mũi hắn. Máu trào ra.Tuấn lật ngược cái
thau, đập liên tục vào đầu và mặt hắn, như một thằng điên.
-
Thằng “mặt trắng” nè! Tao đập cho mày chết luôn.Đồ tham ăn.
Tuấn
đạp cả đôi giầy vào mặt hắn, làm máu mũi hắn trào ra thêm.Anh như điên tiết,
đưa đôi đũa định chọc vào mắt hắn.Mấy tân binh kéo Tuấn lại.Hắn quỳ xuống lạy,
liên tục.
-
Anh tha em!
-
Mày muốn ăn… hở, hở. Há miệng ra.Há ngay ra. Không tao dộng cho một đạp nữa!
Hắn
há miệng ra.Tuấn nhét nguyên một cục cơm còn nóng hổi vào mồm gã.Hắn ú ớ lết ra
khỏi bàn ăn.
Tiếng
còi ré lên liên tục. A trưởng Thắng xuất hiện.
*
Có
rất nhiều người VN bị nhốt “cô-nét” (hay còn gọi là container), sau “giải
phóng”.Nhà tù đã đầy, có muốn cất lên không đủ chi phí.Ai đó, trong “đỉnh cao
trí tuệ” nghĩ ra cách dùng container của Mỹ bỏ lại sau chiến tranh, nhốt phạm
nhân là hoàn hảo nhất.Bốn bức vách là sắt, ngoài một cái khóa bên ngoài có trời
mà thoát.
Mỗi
phạm nhân có những hình phạt khác nhau, tùy theo tội trạng, nặng nhẹ. Nhẹ bồng
súng chào 1, 2 giờ đồng hồ, nặng thì một ngày, một đêm trong “cô-nét”. Thế là
Tuấn vào nằm trong cái củi sắt ấy. Trời tháng 11, ban ngày vẫn còn nóng, nên
bên trong cái hộp sắt ấy nó nóng khủng khiếp; ban đêm lạnh thấu tâm can.
Ban
ngày trời rất nóng, Tuấn phải cởi áo ra, dỗi chân ngồi thở. Đêm đến, bắt đầu từ
2 giờ sáng, cái lạnh thấm dần, qua mông đít, rồi đến bàn chân. Thoạt đầu, Tuấn
nghĩ cái lạnh được truyền qua bộ máy nhạy cảm nhất là lổ đít khi ngồi, qua sự
bài tiết của tứ khoái.Nhưng không.Nó qua đôi bàn chân bị cóng ngồi xếp cả ngày,
đưa lên hệ thần kinh nhạy bén nhất.
Nhưng,
những cái đó hề gì!
Là
một người dám đánh đổi cuộc đời mình, qua sự thay đổi của cả một dân tộc bị trị
bởi ngoại bang sắp xếp, Tuấn chưa bao giờ chùn bước. Nhưng sự trả thù hạ cấp
của một chỉ huy, làm anh thêm thù hận chế độ: vì dân và cho dân. Chúng, thỉnh
thoảng vào khoảng 3, 4 giờ sáng ném những cục đá, gạch vào container. Làm anh
tê buốt linh hồn.
-
Đồng chí của ta đó, bạn ơi! Chúng mày là người hay là thú?
Tuấn
nhớ hôm đó, khi tiếng còi ré lên, anh như một thằng điên! Có lẽ điên vì đói nên
mất lý trí. Nhìn tên Thắng chạy tới, với cái còi trên miệng, anh lao ra, hút
thẳng vào bụng hắn. Sau lưng Thắng, là bể tắm tập thể rộng lớn. Thắng lớp ngớp
bám vào bể tắm, định leo lên. Tuấn túm đầu, dìm hắn xuống bể bơi nhiều lần, mỗi
khi Thắng ngoi lên.Mặt Thắng tím tái của kẻ sắp bị ngộp chết.Đám tân binh thấy
vậy, ôm lưng Tuấn kéo ra.Thắng thoát chết.
Bây
giờ là cái container, và cứ mươi phút, những cục gạch được ném vào kêu “oang
oang” nhức óc, cộng cái lạnh từ bàn chân tiếp xúc khí đất và đá.
Tuấn
co đôi chân, xếp lại, ngồi kiết bán già, lòng thấy thanh tịnh.
-
Cảm ơn, Trời, Phật… đã cho con bị đọa đầy và hiểu biết: Thế nào là tình đồng
chí của người cộng sản chuyên chính!
*
-
Có phải, mày là Tuấn đã dìm tên Thắng sắp chết dưới hồ tắm tập thể?
-
Tôi đây. Bạn là ai?
-
Đừng thắc mắc! Nè.Chui ra đi.Tao bẻ cọng dây kẽm rồi.
-
Nhưng bạn là ai? Tại sao tôi phải ra, khi còn bị phạt qua đêm nay.
-Tao
là Hưng lơ xe, mày nhớ chưa? Tao là thằng đòi vã rớt hàm răng thằng đồng chí
hôm nào!
-
Tôi nhớ rồi. Nhưng sao phải trốn ra?
-
Tụi nó, giờ này ngủ hết rồi. Mày ra, rồi vào bót gác ngồi cho đỡ lạnh, đến gần
sáng lại chui vô. Làm sao tụi nó biết?Tao đang gác ca cuối. Ra đi, dại gì ở
trong đó cho lạnh… chim!
Tuấn
rón rén bước ra. Anh cùng Hưng đi vào bót gác, gật đầu chào gã tân binh cùng
trực ban với Hưng.
-
Chào đồng chí.
-
Không đồng chí con khỉ gì cả! Tôi tên Thiện, bị bắt lính vào đây.Ông oách dữ
hén.Dám đánh cả tiểu đội trưởng.Hoan hô, tinh thần phản kháng… he he.
-
Nó là người cùng quê Ninh Hòa với tao, bị bắt cùng ngày. Sinh viên năm thứ 2
đó.
Khi
chính quyền CS thôn tính miền Nam xong, họ đã làm những điều “hắc ám” đã kể,
sau đó, họ bắt đầu lùng bắt những thanh niên tới tuổi đi lính vào quân đội. Họ
tuyển chọn rất kỹ. Công an vũ trang, họ chỉ tuyển chọn những tân binh có gia
đình quan hệ với cách mạng. Vì thế, họ mới gọi là cánh tay phải của đảng CSVN!
Họ cho đám tân binh miền Nam “ăn cứt gà”, để cũng cố chế độ và kèm kẹp nhân
dân. Chính sách ngu dân để trị, là ưu tiên hàng đầu của nhà nước VN. Những anh
đánh cá làng chài và nông dân chân chất, là phần tử dễ dụ nhất, để mụ mị đi
theo cái đảng… ăn cướp.
Tuấn
cười cười, thân thiện bắt tay Thiện.
-
Hai đồng chí đúng nghĩa đây! – Tuấn nghĩ thế.
Bên
cạnh cái cổng “văn minh”… Ba Linh Một, có bót gác bằng cement, rất rộng, để
kiểm soát tân binh ra vào cả ngày lẫn đêm. Người gác cổng cũng chính là những
tân binh trong quân trường.Mỗi ca hai người và hai giờ đồng hồ thay phiên trực.
Người
CS có tin cái đám con, cháu của bọn cách mạng miền Nam?
Không
hề!!!
Thời
đó, nhóm phục quốc của VNCH vẫn còn đầy rẫy khắp nơi ở thôn xóm, ở núi rừng
miền Nam. Thế mà, sáu tháng quân trường, họ chưa hề cấp đạn cho tân binh để
canh gác hằng đêm, thậm chí sáu tháng, tân binh nằm tập ngắm bắn súng cũng
không có đạn. Hai tân binh canh gác mỗi hai giờ, ngày lẫn đêm, của cái đồn có
trên 200 nhân mạng, với một cây súng C.K.C. hoặc A-ka không đạn! Vì thế, sau
này xãy ra trình trạng: Công an biên phòng đi tìm công an áo vàng, đánh, cướp
đạn để phòng thân. Trên thế giới này, chẳng có chính quyền nào coi sinh mạng
lính như cái kiến?
Chỉ
đến khi ngày thi bắn ra trường, mỗi tân binh được phát cho sáu viên đạn, để
dùng bắn hai loại súng C.K.C. và A-ka.
Gần
6 giờ sáng, Tuấn chun trở vô “cô-nét” chờ được thả.
*
Ông
Đại úy, trưởng đồn ngồi trước cái bàn vuông, bên cạnh ông Thượng úy chính trị
viên, hỏi.
-
Đồng chí có biết rằng: đánh và trấn nước cấp chỉ huy, hậu quả sẽ ra sao không?
-
Biết!
-
Ai biết?
-
Báo cáo đồng chí, tôi biết!
-
Và vẫn làm?
-
Tôi giận nên mất kiểm soát lý trí!
-
Ai giận?
-
Báo cáo đồng chí, tôi ạ?
-
Dường như, đồng chí không thích dùng từ “đồng chí” trong đối thoại?
-
Báo cáo đồng chí, không ạ! Bởi nó mới mẽ quá với thanh niên miền Nam ạ.
Ông
Thượng úy chính trị viên, quơ tay nói.
-
Lẽ ra, chúng tôi đưa đồng chí ra tòa án binh. Nhưng, nghĩ lại, gia đình đồng
chí là gia đình cách mạng nồng cốt tỉnh ta. Chúng tôi đã điện về huyện Diên
Khánh, gặp đồng chí bí thư huyện Vũ Quỳnh và chúng tôi biết nhân thân của toàn
bộ dòng họ và gia đình đồng chí, từng hoạt động từ đây ra tới Qui Nhơn, Bình
Định… Tôi bỏ qua vụ này! Nếu lần sau, đồng chí tái phạm, chúng tôi sẽ đưa đồng
chí qua quân đội nhân dân. Rõ!?
Nghe
ông Thượng úy chính trị viên hăm dọa đưa qua quân đội, quả thật, Tuấn hoảng
lên.Anh sẽ hết đường cho tương lai.
Đành
làm thằng Ngu, như chủ trương lớn của đảng: cả nước hãy cùng Ngu. Đợi thời
cơ!!!
*
Chương
20
Không
khí Tết đang về ngoài kia. Nhưng sao u ám quá! Dân chúng mua sắm Tết trong im
lìm, không ồn ào, vồn vã như trước 75. Cũng có những tiếng pháo nổ lẹt đẹt đâu
đó của bọn con nít vô tư.
Tuấn
đứng trong bãi tập bắn, luyện võ, cùng đồng đội nhìn ra bên ngoài ngắm cảnh
người dân đang chuẩn bị Tết. Đây là cái Tết thứ hai sau “giải phóng”.Một cái
Tết trầm lắng.
Người
người đi im lìm, thỏ thẻ buôn bán trước một cái đồn Công an vũ trang tai ác.
Sau 75, nghe nói đến công an của nhân dân, người dân mắt lấm lét, nhìn ngang,
xẻ dọc canh chừng. Đó là một thứ hung Thần của thời đại mới! Bọn chúng có thể
bắn chết dân, mà không tù tội gì không qua tòa án xét xử. Ai ai cũng biết, năm
1975, một anh bán đồng hồ dỏm, gọi là đồng hồ hai cửa sổ không người lái, của
Chợ Lớn, đã bị lôi ra trước chợ Đầm Nha Trang, bắn bỏ, bởi chỉ một anh bộ đội
quèn tiếc của, mà một tờ báo ở Khánh Hòa đưa tin, như một sự hăm dọa lẫn trấn
áp.
-
Tết, sao buồn quá, ông nhỉ! – Tuấn hích hông Hưng, nói.
-
Ê, Tuấn nhìn kìa!
Anh
sửng sốt nhìn theo ngón tay Hưng chỉ lên cao. Tuấn thấy một băng rôn treo trên
cao, từ cột trụ điện bên này đường chạy sang bên kia, với hàng chữ:
“Nhiệt
liệt, tưởng nhớ Tết Mậu Thân, quân ta toàn thắng!
Tuấn
ngạc nhiên giây lát, rồi đến bàng hoàng, như muốn vỡ cái mật của anh, – mà anh
cho rằng không nhỏ lắm!
Suốt
4 ngàn năm lập hiến, quốc dân VN chưa bao giờ có được một cái Tết, gọi là Tết
cho đúng nghĩa trang nghiêm của nó.Triền miên trong chiến tranh chống chọi
ngoại xâm, từ thế hệ này đến thế hệ khác qua bao đời khổ ải của cả dân tộc.Một
Mậu Thân bất hạnh, đã để lại cho dân tộc này những ngày vào Tết rơi vào trình
trạng đau khổ. Khó một ai có thể quên, những ngày Tết của Mậu Thân 1968, bằng
những nén nhang của thân nhân người chết khóc thảm thiết, kêu gào của gần 6000
nạn nhân bị giết tập thể, bởi người đồng chủng máu đỏ, da vàng khi Tết về trên
quê hương, gia đình đoàn tụ. Chỉ có lũ mọi rợ, không tim mới vinh danh ngày
này, bằng những băng rôn, treo la liệt khắp các nẻo đường thành phố và thôn
quê: “Nhiệt liệt, tưởng nhớ những ngày của Mậu Thân, quân ta toàn thắng”, trước
mắt Tuấn! Lẽ ra, anh đã quên từ lâu sự kiện đau đớn này trên quê hương anh và
của cả dân tộc anh, khi còn quá trẻ. Nhưng bây giờ, những băng rôn kia, treo
trước mắt, trên đường phố, hiển hiện đập vào mắt mọi người, và anh cũng nhìn
thấy, như nhắc lại lý do, vì sao, anh có một bà Mẹ điên!
Họ
muốn gì, khi lập lại sự kiện đau khổ này, vào những ngày Tết thiêng liêng nhất
của dân tộc VN, sau 1975?
Trí
thức đâu, Nhân sĩ đâu (của cả hai miền) sau hòa bình, nói gì? Các ông, là những
người đại diện cho quần chúng ở 2 miền Nam, Bắc… có thấy và nhìn; và làm gì
chưa? Vậy thì đừng nói: toàn dân miền Bắc chúng tôi, cả công, nông dân… chúng
tôi vì hạt gạo, hạt muối để giải phóng ách nộ lệ đế quốc Mỹ; và (một số trí
thức miền Nam) lập ra Mặt trận giải phóng miền Nam, để bài Mỹ!
Để
làm gì?
Hãy
trả lời đi! Vì sao, sau hòa bình, lại lập lại sự mất mát lớn lao nhất của cả một
dân tộc, sau Cải cách ruộng đất đang dần khép kín?
Có
phải, là một sự hù dọa, sẽ bùng lên đàn áp và tàn sát lần nữa!
“Đừng
nghe những gì CS nói”, và đừng nghe những gì Trí thức sống dưới chế độ ấy
nói.Chúng chỉ là những Cục Cứt chưa được gột rữa linh hồn, qua cái gọi là Sợ
hãi.
Người
có óc, có tim, có lý trí, và có tấm lòng VN… nên im lặng và phải nghĩ rằng đây
là một cuộc chiến phi lý tương tàn do ngoại bang gây ra, lại là ngày Tết dân
tộc cổ truyền. Mọi công dân VN, Tết là một cái gì đó vô cùng xót xa cho dân
tộc, dù vẫn vui chơi thưởng Tết, nhưng vẫn luôn nhớ gần 6000 nạn nhân đã bị
chết thê thảm dưới bàn tay CSVN. Nhưng lũ giết nhân dân mình không gớm tay lại
cổ võ ngày chiến thắng! Có chiến thắng không, khi rút lại về rừng làm thằng
Mán, Mọi, sau đợt phản công của quân đội VNCH!? Hay gặm khoai mì, khoai lang để
sống… lấp ló trong hang, trong hốc của núi rừng, để rồi lâu lâu xuống núi khủng
bố bằng: đắp mô chôn mìn, cho nổ xe lam, đặt bom trong nhà hàng, rạp chiếu bóng
giết dân…
Thế
nhưng, khi một ông Tướng miền Nam, đưa cây colt bắn vào đầu một trong những tên
khủng bố tàn ác này, giữa đô thành Sài Gòn thì cả thế giới la toáng lên. Bọn
thanh niên phản chiến và bọn cực tả ở nhiều nước, cả ở trong Quốc hội Mỹ, đều
đồng thanh lên án chính quyền VNCH, đưa đến Mỹ bỏ miền Nam vào tay bọn chuyên
trò khủng bố đê hèn!
Chỉ
có con ngưòi đội lớp Sa-tan, không còn trái tim làm ngưòi, mà nó là con Thú,
vui sướng trên những thân xác ngưòi đã chết. Cứ nói láo và tuyên truyền riết,
rồi nhân dân sẽ tin như một thằng điên Đức quốc xã đã nói trong thời Đệ nhị thế
chiến! Đó là chiến lược của người Cộng Sản.
Lưỡi
không xương, nhiều đường lắc léo! Lắc léo là bản chất con người, để tự vệ tính
gian xảo của họ, thủ thân cho chính mình để thủ đắc một điều gì đó. Nhưng lắc
léo, dối trá… để bảo vệ một thể chế, chính quyền, đó là sự gian xảo xuyên cấp
quốc gia, mang tính phản dân tộc.
*
-
Các đồng lên xe, khẩn trương. Giờ xuất phát bắt đầu!
Bộ
chi huy đại đội ra lệnh trên loa khi những chiếc G.M.C và Môlôtôva từ từ chạy
vào quân trường. Lính được đùn lên xe ngồi. 17 A trưởng của khung, đi trên một
chiếc xe Môlôtôva với dao, rựa chất đầy lòng xe. Tất cả sẽ đi lên Khánh Vĩnh,
đốn cây làm củi để chuẩn bị ngày tiệc Tết có thịt tươi. Nghe nói, hai A được
một con lợn, do hậu cần Tỉnh cung cấp! Bọn lính đói, nghe mà sướng cả lòng. Chỉ
còn năm hôm nữa là Tết, tha hồ chén no say, qua ba tháng đói meo, chưa bao giờ
được ăn thịt! Quả thật, Tuấn thèm một miếng thịt lợn, hơn bao giờ hết, mặc dù
khi còn ở với gia đinh ông Năm, anh thường ăn chay hơn mặn. Ôi. Một miếng thịt
lợn nhục nhả cho đời lính, mà vẫn nhớ, vẫn thèm quay quắc hơn bất cứ thứ gì
trên đời, trong một đất nước vừa hòa bình!
Tuấn
vẫn còn nhớ, tuần trước được lãnh lương “quí” sau ba tháng quân trường.Họ không
phát lương bằng tiền, mà là hiện vật, họ gọi là nhu yếu phẩm. Mỗi tân binh được
nhận: 1 cây thuốc lá Vàm cỏ, 1 ký đường, một ít bột ngọt, 2 ký xà-bông bột,
thuốc đánh răng…
Thằng
Hưng và Thiện dẫn Tuấn qua bên kia đường trước cổng trại, bán lại số nhu yếu
phẩm đó. Mỗi đứa được mấy chục bạc bỏ túi. Ngày hôm sau, khi chạy từ đường Trần
Phú (trước gọi là đại lộ Duy Tân) về gần đến trại, thằng sinh viên và Hưng tách
hàng, kéo Tuấn lại nói.
-
Ê Tuấn. Chạy chậm lại, rồi từ từ cắt hàng, vào quán bún cá, mỗi đứa làm một
tô.Tao đói lắm rối. Mẹ nó, cứ mỗi sáng chạy gần 5 cây số, 10 ký đồ trên vai,
với cái bụng đói meo, chắc có ngày té đường mà chết.
Ba
gã, chạy chậm lại, rồi tách hàng chạy lụt đụt cuối hàng, từ từ, vừa giả vờ ôm
súng thở dốc, chạy ngay vào tiệm bún cá bên đường. Mỗi chú, chén đến hai tô,
chứ không là một tô bún cá như dự tính, bằng thủ thuật nhà binh thật lẹ, miệng
vẫn còn thòm thèm, nhưng không dám ăn tiếp sợ trể khi điểm quân. Vậy mà vẫn trễ
đến hơn 5 phút! Khi cả ba vừa vào cổng đã thấy ông chính trị viên đại đội đứng
chờ, ngay bót gác, giọng trọ trẹ Hà Tĩnh.
-
Các đồng chí chạy đi mô, mà trễ hơn năm phút?
-
Báo cáo đồng chí. Chúng tôi bị vọp bẽ ạ!
-
Vọp bẽ cả ba? Các đồng chí đùa chắc. Các đồng chí tưởng rằng hôm qua, các đồng
chí đem đồ của quân đội phát cho đi bán lấy tiền, chúng tôi không biết à!? Đảng
và nhà nước luôn luôn sáng suốt và theo dõi tân binh các anh rất chặt chẻ. Đó
là chủ trương của đảng ta. Miệng mồm các đồng chí còn bóng nhẫy thế kia, có mà
chối!?
-
Báo cáo, đồng chí. Chúng em đói quá, nên khi thấy chạy về gần quân trường, tạt
ngang vào quán tranh thủ cứu đói ạ. Chúng em, thiệt tình rất đói, đồng chí ạ!
-
Không có cãi mà nì! Không những ba đồng chí, mà cả tân binh ở đây đều đói! Đó
là hậu quả chiến tranh do bọn Ngụy để lại trên đất nước chúng ta. Thằng tổng thống
– Ngụy – Nguyễn văn Thiệu, trước khi bỏ nước trốn chạy, đã cướp và mang theo 16
tấn vàng quốc gia ra khỏi đất nước, để bây giờ đất nước này khốn khổ và nghèo
đói. Bọn Ngụy quyền miền Nam chỉ biết sống hưởng thụ và xa hoa trên cộng đồng,
quê hương dân tộc, trên thân những con điếm sở Mỹ. Chúng chuyên bám vào chân đế
quốc Mỹ, ăn bơ thừa canh cặn và hút máu nhân dân miền Nam đau khổ. Đảng và nhà
nước ta, vì nhân dân miền Nam, ở miền Bắc phải cắn đôi hạt gạo, hạt muối trong
từng hộ gia đình mà chia sẻ đói no cùng nhân dân miền Nam ruột thịt, mến yêu.
Cả
ba thằng tân binh đứng im nghe giảng “moran” cái kiểu: đế quốc Mỹ vào miền Nam
Việt Nam bỏ con tép, bắt con tôm… như một thứ kinh nhật tụng của mọi thằng CS
tưởng rằng mình nói, kẻ khác im re, là hắn đúng! Hắn không nghĩ rằng, các đồng
chí của hắn: đang có trong tay bạo lực và súng đạn dư thừa, từ những nước anh
em CS viện trợ để đàn áp nhân dân. Hay hắn ngu đến mức như con Vẹt lập đi, lập
lại lời nói đã được gieo vào cái đầu vốn không khai mở nổi, khi nhìn thấy hai
miền Nam, Bắc có cuộc sống rất xa cách nhau!
Cả
ba im lặng.Họ biết, đừng chống chỏi những tên chiến thắng đầy hãnh tiến. Bọn
chúng ăn trên, ngồi trốc trong quân trường, thịt cá ê hề, có hôm phải đổ đi. –
Tuấn tự nhủ thầm.
-
Ba đồng chí vào hàng. Bơm dầu 100 cái! Rõ?
Bơm
dầu, chỉ là hình thức kỷ luật nhẹ. Đứng thẳng, hai tay bắt chéo qua tai, nắm
dái tai, ngồi thụp xuống, thụp lên như bơm dầu! Chưa đến 100 cái bơm dầu, ba
thằng tân binh háu đói, miệng ói ra những thức ăn vừa tọng vào mồm, mặt xanh lè
như trúng phải gió độc, mới được cho vào hàng điểm danh quân số!
“Thằng
tham ăn” nhìn Tuấn mỉm cười, khoái trá!
-
Mày cứ cười trên sự đau khổ của đồng chí mày. Một ngày nào đó, tao sẽ tính sổ!
*
Khánh
Vĩnh là một vùng rừng núi bạt ngàn, chưa được khám phá.Thời người Pháp đô hộ,
họ chưa mở đường đến tận nơi núi rừng nguyên sinh, còn nguyên vẹn nét hoang
sơ.Thời đệ nhị Cộng hòa cũng vậy.Khánh Vĩnh là một cái gì đó người ta nghe nói
tới, nhưng chưa bao giờ bước chân vào. Người ta đồn rằng: khi bước vào khu rừng
nguyên sinh, đã thấy cái đầu lâu, với hai cái xương bắt chéo nhau, với tấm bảng
ghi:
Nơi
cách mạng cư trú. Cấm vào!
Đó
là theo lời của mụ Bốn Cao thường đi đường rừng về kể lại.
Sau
1975, một số đông người Dân tộc thiểu số, theo CS, nói rành tiếng Kinh, xuống
tiệm hình ông Năm Bóng Tối chụp ảnh để làm lý lịch, họ cũng nói vậy. Đất Khánh
Vĩnh đi khó về, nếu không có người dẫn đường.Nơi này cài chông độc, tên độc cả
mìm claymor của Mỹ và tự tạo đầy rẫy khắp núi rừng. Vào Khánh Vĩnh chẳng khác
nào vào đất chết! Chưa nói đến trên dãy Trường Sơn từ Buôn Mê Thuộc, lính chính
qui Bắc Việt nằm đầy rẫy trên những hang núi trùng trùng, có thể tiếp quân bất
cứ lúc nào.
Bây
giờ, Tuấn đang đứng trên cánh rừng bạt ngàn của Khánh Vĩnh. Nó đúng là bạt ngàn
khi những chiếc xe nhà binh lướt qua những con đường đất vừa mới cày sơ sài
bằng những chiếc xe ủi cơ giới còn đậu ngỗn ngang hai bên đường. Bây giờ thì nó
tang hoang, nát bấy!
Chỉ mới hai năm đầu “giải phóng” miền Nam mà nạn phá rừng đã đến mức trầm trọng.Quân đội phá bằng cơ giới. Người dân bắt đầu đói, cả làng, cả xóm đua nhau lên núi đốn cây, tàn phá rừng như một cơn dịch, để kiếm cái ăn bỏ bụng, khi tem phiếu thực phẩm càng lúc càng thắt chặt hơn. Tại sao, cái đói, nghèo nó đến nhanh như vậy ở miền Nam?Tuấn tự hỏi và tìm ra câu trả lời không khó.Cuộc sống hào nhoáng của những thành phố lớn ở miền Nam chỉ là bề ngoài của một đất nước chiến tranh triền miên, đã làm dân tộc VN kiệt quệ, sống trong vất vưỡng.Ruộng vườn bị bỏ hoang phế không thể canh tác, vì nạn ngày Quốc gia, đêm Cộng sản thao túng. Cộng nạn đổi tiền cướp trắng và đánh tư sản mại bản, những người nghèo gần như hoàn toàn trắng tay…
Chỉ mới hai năm đầu “giải phóng” miền Nam mà nạn phá rừng đã đến mức trầm trọng.Quân đội phá bằng cơ giới. Người dân bắt đầu đói, cả làng, cả xóm đua nhau lên núi đốn cây, tàn phá rừng như một cơn dịch, để kiếm cái ăn bỏ bụng, khi tem phiếu thực phẩm càng lúc càng thắt chặt hơn. Tại sao, cái đói, nghèo nó đến nhanh như vậy ở miền Nam?Tuấn tự hỏi và tìm ra câu trả lời không khó.Cuộc sống hào nhoáng của những thành phố lớn ở miền Nam chỉ là bề ngoài của một đất nước chiến tranh triền miên, đã làm dân tộc VN kiệt quệ, sống trong vất vưỡng.Ruộng vườn bị bỏ hoang phế không thể canh tác, vì nạn ngày Quốc gia, đêm Cộng sản thao túng. Cộng nạn đổi tiền cướp trắng và đánh tư sản mại bản, những người nghèo gần như hoàn toàn trắng tay…
Khi
đến khu trại của công an nhân dân Vũ trang, Tuấn thấy nhiều con đường xuyên
rừng bị cày phá làm đường cho xe chạy. Nguyên một khu rừng mấy ngàn héc-ta, bị
cày nát, chia cho những cánh quân đội CS làm nơi trú ngụ, học tập. Hải quân,
Không quân, Quân đội nhân dân, Công an áo vàng, Công an Vũ trang… gom lại thành
một vòng tròn, bịt kín ở chính giữa là một trại Tù Cải tạo và Phục hồi nhân
phẩm. Đố có phạm nhân nào vượt được tù ra khỏi nơi đây, dù một con kiến!
Cái
nhanh nhất và giỏi nhất mà người CS làm nên trên đất nước này là… nhà tù và
trại cải tạo cùng cướp tiền nhân dân! Cái Ngu nhất của CSVN là: ngoài phá rừng
ra và chỉ biết trồng khoai mì, khoai lang để sinh sống. Phá rừng để trồng khoai
mì và khoai lang để nuôi một quân đội hùng mạnh! Tuấn đã từng đọc những câu
chuyện, do những cán binh CS chiêu hồi, viết rằng: cái quan trọng nhất của lính
Bắc Việt, đi tới núi rừng Trường Sơn bất cứ nơi nào, có đào củ mì ăn, thì phải
chôn lại gắp 3, 4 những “hom” mì cho những lớp đi sau từ miền Bắc vào ăn tiếp.
Anh đã không tin, cho là tuyên truyền và bây giờ anh thấy. Không những anh
thấy, mà anh là người đang làm cái công việc ngu xuẫn nhất là đốt, và chặt cây
rừng để trồng khoai mì, khoai lang cho chính mình và cho các đồng chí sau này
ăn! Cả đất nước sau thời hậu chiến, đói mờ mắt vì cái ăn. Quân đội, học đường,
nhân dân… cứ cắm cúi, ghim những “hom” mì hai gang tay vào lòng đất, trong 3, 4
tháng sẽ có cái ăn mà không cần chăm sóc nhiều.
Trong
ba ngày, gần 10 chiếc xe G.M.C. và Môlôtôva, chạy lên xuống mỗi ngày hai bận,
để chở củ mì và củi về quân trường Nha Trang, với đoạn đường trên dưới 50 km.
Tuấn và những tân binh nhìn củ mì, thấy ớn tận họng vì đã ăn nó trên ba tháng
qua, nhưng vẫn phải nhai nó với lương khô Trung quốc.
-
Đất nước còn nghèo sau chiến tranh, do bọn tay sai Ngụy và đế quốc Mỹ để lại!
Đó
là những lời nói, đầy trí tuệ!
-
Ai đã gây ra cảnh nồi da, xẻ thịt??? Tuấn muốn hét lên thật to, và anh nghe
trong máu của núi rừng đang chảy thắm đất, vọng lại âm u.
-
Ai… aiai…???
Một
con sóc màu đỏ như máu, nhảy qua tàn cây, phóng vút theo tiếng âm vọng của núi
rừng Khánh Vĩnh. Tuấn chợt nhớ tới H’Nia, nhớ lão Tôn và mụ Bốn Cao da diết.
Anh nhận ra rằng: cuộc đời này, có rồi mất như một hằng cửu của đất trời và cây
cỏ.
Hạt
bụi hóa thành kiếp thân, rồi cũng trở về với cát bụi; và lập lại như trái đất
quay… miên viễn.
*
Ngày
cuối cùng được nghỉ, Tuấn đi lang thang trên những cánh rừng bạt ngàn bị chặt,
đốt nham nhở. Những chiếc xe cơ giới của mấy binh chủng cứ cày sâu vào rừng.
Anh cứ đi miết, mới biết rằng đang bước qua phần đất của công an áo vàng giữ
trại tù, khi nhìn thấy cái cổng: Trại
Cải tạo và Phục hồi nhân phẩm, Đồng Găng.
Cải tạo và Phục hồi nhân phẩm, Đồng Găng.
Tuấn
xốc lại áo quần chỉnh tề, bước vào bót trại định xin nước uống, thì anh nghe
tiếng gọi.
-
Phải Tuấn không? – Anh ngơ ngác nhìn. Từ trong một dãy láng, gã công an áo
vàng, đeo súng ngắn, mang lon trung sĩ lúp xúp chạy ra, ôm Tuấn.
-
Đúng là mày, Tuấn.Sao lại ở đây?
-
Ô kìa. Phải Lương không?
Đúng
là Lương. Nó là thằng đầu tiên cùng anh nhận cây súng Carbin M.2 vào đầu năm
1975, sau lên núi theo CS. Hai đứa hàn huyên trò chuyện. Chợt Lương nói.
-
Này Tuấn. Mày còn nhớ chú Tám, ba thằng Đại?Ông bây giờ đang ở đây.
-
Vậy à? – Tuấn thở khó nhọc.
-
Cả lão Tôn nữa, mày ạ! Mà sao lão Tôn bị bắt khi đang làm xã đội trưởng?
Tuấn
kể vắn tắc câu chuyện, đoạn nói.
-
Mày có thể cho tao nhìn chú Tám một chút được không?
Thằng
Lương ngập ngừng.
-
Tao trách nhiệm láng chú ấy. Mày chỉ nhìn thôi nhé. Cấm nói chuyện!
Cả
hai đi vào láng, như trao đổi chuyện trò.Đến trước láng, cả hai dừng lại. Chú
Tám – ba thằng Đại – đã đứng trước cửa từ khi nào nhìn Tuấn, như muốn ôm đứa
cháu từng là bạn con mình. Dường như, chú cố nén tiếng nấc nghẹn. Chú đứng im,
nhìn, tay vẫn vuốt thanh tre rừng. Tuấn sửng sờ nhìn chú.Mới gần hai năm chú
già đi và tóc bạc trắng.Hình ảnh của người lính quân cảnh thời VNCH hiện ra
trong trí Tuấn. Nó oai hùng biết bao! Nó an dân biết bao! Nó không luộm thuộm như
bộ đội, công an CSVN! Và nhất là không làm nhân dân sợ hãi khi thấy họ!
Ôi. Thời gian!
Ôi. Thời gian!
-
Dân tộc tôi, là một dân tộc bán khai man mọi, rợ, hay thông minh, khi (thế hệ
sau khen) hiến dâng cả con gái yêu của mình, lấy hai Châu Ô và Lý để sau đó,
diệt cả dân tộc Chăm, để tiến về phương Nam. (đầy hãnh tiến)? Có phải vậy
không?Chắc là không? Nhưng sao, tôi gặp lại người thân như người chú ruột, đã
từng thương yêu tôi, bạn bè tôi, cũng như các con của ông ấy, mà không một lời
hỏi thăm. Trời cuối năm, gió của núi rừng Khánh Vĩnh xào xạt lá cây cao, đổ
nghiêng ngã những bụi mì nằm sát rạt, mà chú với một cái áo vá chùm đụp đến
tang thương. Chú làm gì để bị đưa đi cải tạo, phục hồi nhân phẩm!? Những kẽ
giết người không gớm tay trong dịp Tết Mậu Thân, những tên khủng bố gài bom dân
lành, là những kẻ nên làm lại nhân phẩm làm người. Kẻ thua trận như chú, đã mất
tất cả, còn gì gọi là nhân phẩm? Hay nhân phẩm dựa trên những con chữ “hiếp
dâm” của chữ nghĩa, cho một sự trả thù nhỏ nhen, đê tiện và tàn ác của một loại
vong nô ngoại bang đang bắt đầu bằng trang sử mới?
Một
dân tộc thích chém giết và bỏ tù người đồng chủng, hành hạ nhau kẽ ngã ngựa,
thì làm sao có thể có một thế giới Đại đồng với những dân tộc khác?
Vậy
thế giới Đại đồng là gì? – Tuấn đau nhói.
-
Thế giới, cái mả mẹ bọn CS khát máu và khoác lác! Thế giới… bạo dâm bằng chữ
nghĩa và mồm của một thứ chủ nghĩa ngoại bang từ… Mút-cu-vào-nhanh!!!
…
…
Tôi
đi giữa ngàn
Trên từng cây số tang thương
Màu xanh của lá đang chuyển vàng
Phá nát… quê hương tôi
Có cánh cờ đỏ sao vàng
Giữa rừng núi âm u
Dập nát cả tương lai
Tôi tự hỏi:
Của tôi hay của cả dân tộc tôi!?
Trên từng cây số tang thương
Màu xanh của lá đang chuyển vàng
Phá nát… quê hương tôi
Có cánh cờ đỏ sao vàng
Giữa rừng núi âm u
Dập nát cả tương lai
Tôi tự hỏi:
Của tôi hay của cả dân tộc tôi!?
*
Một
dân tộc hay một chế độ, một chính quyền… sống trong sự giả dối rất nhiều năm
thì cái xã hội ấy sẽ rã rệu ra sao, không cần nói nhiều. Nó sẽ băng hoại tất
cả, về mặt dân sự, văn hóa, tâm linh như một tất nhiên.
“Phê
và tự phê”, là một chính sách độc hại nhất của con người CS. Không có lỗi lầm
gì, cũng phải tự tìm cái lỗi của chính mình và đồng đội mình (mà không có!) để
phê!
-
Nếu, các đồng chí cho rằng, mình không có lỗi trong đời sống thường nhật, thì
ít nhất các đồng chí, đôi lúc cũng có những suy nghĩ khúc mắc này, nọ trong ý
tưởng, phải không? v..v… Vậy chúng ta, kiểm điểm lại từ đầu nhé!
Những
anh nông dân từng cắm đầu và lưng xuống, cho trời và đất; và những gã kéo lưới
chài suốt một thời tuổi trẻ dầm mình trên sóng nước, dễ bị cho ăn “cứt gà sáp”
nhất! Chủ trương ngu dân để dễ bề cai trị và sai khiến, làm đám tân binh thất
học bị mụ mị cả tinh thần. Họ bắt đầu ra chiêu, bằng cách tự họ ăn cứt gà sáp!
Ban đầu họ còn ngu ngơ phê bình lung tung, sau, thấm dần, họ khôn ra theo chiều
con số IQ ngược.
“Thằng
tham ăn” phát biểu.
-
Đồng chí Tuấn là một con người không gắn liền và đoàn kết với đồng đội chúng
ta.Đồng chí ấy, thường ngồi riêng một mình đọc sách và thường nghĩ “dớ dẩn”. Đó
gọi là… tiểu tư sản tính, phải không các đồng chí!
-
Nhưng đồng chí T. cũng sai. Đồng chí luôn háu đói, ăm tham phải không ạ? Đồng
chí cũng không coi đồng đội ra gì. – Một gã khác phát biểu.
Tuấn
muốn phì cười văng nước bọt, nhưng kềm lại.Bọn này, ban đầu chỉ tìm cách châm
chích nhau, sau không thấy hiệu quả, chúng đi dần tới moi móc nhau, để lấy điểm
thi đua.Kết quả, là tình đồng chi thắm thiết bắt đầu rạn nứt để tìm cách hảm
hại nhau. Từ đó, người CS sống trong bon chen, nghi ngờ lẫn nhau, đánh phá nhau
nếu có dịp. Chậm dần, theo năm tháng họ chai cứng tình cảm và trở thành một
cánh tay đắc lực nhất của đảng, như một con thiêu thân trung thành vìquyền lợi.
-
Còn đồng chí Tuấn thế nào. Có khuyết điểm nào không? – A trưởng Thắng hỏi.
-
Khuyết điểm lớn nhất của tôi, là đã dìm đồng chí A trưởng xém chết đuối ở hồ
bơi tập thể. Tôi xin nhận khuyết điểm và tự phê bình, làm như vậy là… mất cảnh
giác, để địch dễ lợi dụng!
-
Báo cáo đồng chí A trưởng. Đêm hôm kia, lúc 1 giờ sáng, tôi thức dậy đi trực
ban, tôi thấy đồng chí Tuấn, hình như đang ngồi tu hay làm gì khó hiểu lắm ạ!
Có đồng chí A, B cùng thấy khi vào đánh thức tôi đi trực ạ!
Tuấn
giật thót mình. Thì ra “thằng tham ăn” nó theo dõi anh bấy lâu. Có những đêm
khó ngủ hoặc suy nghĩ nhiều, Tuấn thường ngồi thiền nữa giờ, cho thanh thản.
-
Hãy coi chừng Tuấn ơi! Mày biết mà.Chế độ này, nó phải triệt hạ cho bằng hết
mọi thứ tôn giáo từ từ.Mọi thứ tôn giáo, đều dạy con người làm điều thiện và
sống lễ nghĩa. Bẩm sinh của con người là cái ác và cái thiện rất gần kề nhau,
vì thế cần phải xây đắp và gầy dựng lâu dài, nhiều thế hệ, con người mới thuần
tính làm người. Khi con người sống hướng thiện thì xã hội sẽ lành mạnh. Khi con
người sống trong sự thủ ác ẩn ý, thì xã hội hỗn loạn. Ai nói người CS muốn xây
dựng một xã hội ổn định để trị dân.Đó là điều sai lầm to lớn nhất.Họ luôn luôn
muốn tạo một xã hội hỗn loạn, để trấn áp, cũng cố cái đảng mang về từ trời Âu,
để địa vị ngày một thăng tiến. Vì vậy, họ luôn luôn trấn áp tôn giáo để làm hỗn
loạn xã hội theo chiều hướng suy nghĩ của cách cai trị độc ác để độc tài và độc
trị.
Khi
những con người đã gọi là đồng chí với nhau, mà hằng đêm, họp tổ tam tam (tổ có
3 người) cấu xé nhau, bôi bác nhau, kể tội nhau… rồi cuối tuần họp tiểu đội,
rồi cuối tháng họp đại đội. Con người đồng chí bắt đầu giả dối và bất toàn tính
nhân văn. Hãm hại nhau để khỏi bị loại ra khỏi vòng thủ ác.Họ trở nên lạnh
lùng, không còn sự mẫn cảm trong chiều suy nghĩ làm người.Chỉ có người thủ ác,
mới gọi là đồng chí cho nhau và song hành đi bên nhau, vì quyền lợi.Khi không
còn gọi là đồng chí của nhau, người CS sẽ triệt hạ đối tượng họ một cách không
thương tiếc và dã man nhất.
Ôi,
tình đồng chí thắm thiết vô cùng đảng ta ơi! – Tuấn rên lên sau nhiều đêm bị
kiểm điểm.
*
29
Tết, mọi tân binh được nghỉ ngơi, được quyền ra khỏi doanh trại không cần báo
cáo.Tuấn chẳng biết, phải đi về đâu, khi anh đã chối bỏ quê hương đã nuôi anh
khôn lớn. Đã quyết ra đi, không nên trở lại Diên Khánh, nơi anh đã được sinh
ra, uống sữa nơi đó, ăn cơm nơi đó… Anh bây giờ như người mất quê hương trên
chính đất nước mình.Tuấn đi quanh quẩn trại. Anh nghe tiếng ồn ào từ dưới ban
hậu cần vọng lên. Tuấn xuống nhà bếp, nhìn bọn anh nuôi đại đội đang chuẩn bị
tiệc Tết, cho buổi chiều nay. Anh nhìn quanh căn bếp, thất vọng khi không thấy
một con lợn nào ở đó, như lời đồn hậu cần Tỉnh sẽ cung cấp vào dịp Tết. Tuấn đi
vào láng nằm nghỉ trên bộ ván cá nhân.
Có
một mùi gì đó tanh tanh khó ngữi cả buổi sáng hôm ấy, mà Tuấn chưa tìm ra. Anh
bật dậy nhìn quanh láng cũng không thấy gì! Cuối dãy láng, “thằng tham ăn” đang
nằm trùm chăn, kín mặt.Tuấn gõ gõ trên mặt ván giường, “thằng tham ăn” ló đầu
ra.
-
Ông hổng về nhà à, ngay Nha Trang mà?
-
A, đồng chí Tuấn. Quê tôi tận Tuy Hòa, xa lắm đồng chí ơi! Làm gì có tiền, đón
xe về quê trong dịp Tết!
-
Sao hồi đó ông nói, là dân Lò Heo Nha Trang?
-
Hù mấy đồng chí chơi thôi. Ai dè, đồng chí Tuấn… làm thiệt!
-
Hỏi thiệt nhé. Còn giận tôi không?
“Thằng
tham ăn” trù trừ, mắt nhìn lên trần nhà, nói nho nhỏ.
-
Hết rồi, đồng chí Tuấn ạ. – Đôi mắt là cửa sổ của linh hồn, Tuấn biết hắn không
thành thật, nhưng vẫn bắt tay.
-
Ta hòa nhé, đồng chí Tòng. – Hắn đưa tay ra bắt.
-
Mẹ kiếp. Một bàn tay lạnh ngắt! – Tuấn nghĩ.
-
Dường như, có một mùi tanh tanh khó ngữi, ông có cảm giác đó?
“Thằng
tham ăn” chỉ dưới gầm giường.Tuấn cúi xuống nhìn, thấy một bao bố có ít vết máu
loang ra.
-
Cái gì vậy?
-
Chó!
Mọi
thù hằn của Tuấn đối với “thằng tham ăn” chợt tiêu tan! Anh gọi hắn bằng từ
“đồng chí” chân thật nhất, lần đầu trong đời.
-
Tôi xin lỗi đã đánh đồng hôm ấy, vì thiếu suy nghĩ!
“Thằng
tham ăn” ngơ ngác nhìn Tuấn không hiểu. Tuấn khoác áo, đội mũ công an vũ trang.
Anh đi ra khỏi doanh trại, hướng về phía biển, hướng Đại lộ, mang tên một vị
Vua còn trẻ, vì quốc gia, dân tộc, chịu lưu đày trên một đất nước xa lạ toàn
giống dân Da đen, bởi thực dân Pháp không một lời van xin.
Anh
đi ra khỏi doanh trại, lòng ngổn ngang, chưa biết dừng chân lại chỗ nào.
(Còn
tiếp)
©
Đàn Chim Việt
No comments:
Post a Comment