Huỳnh Anh Dũng, cựu Đại sứ VN tại Campuchia
1.3 Năm 1977: quan hệ VN-Campuchia, VN-TQ ngày càng xấu
đi.
Bước sang năm 1977, tình hình biên giới
Việt Nam-CPC tiếp tục ngày càng xấu hơn do những hành động khiêu khích, xâm lấn
của bọn Pol Pot. Từ giữa tháng 1/1977 đến giữa 3/1977, các tỉnh Đông-bắc CPC
chấm dứt tiếp xúc với các Ban liên lạc của các tỉnh Khu 5 và từ cuối tháng
3/1977 đến giữa 5/1977 chấm dứt liên lạc với Ban liên lạc các tỉnh Nam bộ (cơ
chế liên lạc tiếp xúc này có từ 1975 và được củng cố sau chuyến đi CPC của Thứ
trưởng Phan Hiền tháng 5/1976).
Ngày 30/4/1977, bọn Pol Pot đồng loạt tiến
công 14 xã trên toàn tuyến biên giới tỉnh An Giang mở đầu cuộc chiến tranh qui
mô lớn biên giới Tây-nam nước ta.
Trước tình hình nghiêm trọng đó ngày
7/6/1977 Trung ương Đảng và Chính phủ VN gửi thư cho Trung ương Đảng và Chính
phủ CPC đề nghị có cuộc gặp cấp cao Đảng và Chính phủ 2 nước để giải quyết vấn
đề biên giới. Ngày 18/6/1977, phía CPC gửi thư trả lời Trung ương Đảng và Chính
phủ ta:
“...chờ một thời gian cho tình hình
bình thường trở lại và những xung đột ở biên giới được chấm dứt… sẽ gặp gỡ cấp
cao”.
Một mặt từ chối thương lượng, mặt khác bọn
Pol Pot điên cuồng tấn công biên giới ta. Ngày 18/7/1977, chúng đồng loạt tấn
công trên chiều dài 40 Km vào tỉnh Kiên Giang, pháo kích nhiều lần vào thị xã
Châu Đốc. Trên trường quốc tế, họ ra sức vu cáo VN; phát biểu ở ĐHĐ/LHQ, Ieng Sary
ám chỉ VN xâm lược CPC. Ngày 26/9/1977, sau một thời gian “nghỉ ốm” Pol Pot
xuất hiện trở lại tuyên bố Đảng ra công khai và đi thăm hữu nghị chính thức TQ
ngay và được đón tiếp rất linh đình.
Cùng lúc này, bọn Pol Pot cho một lực lượng
lớn tiến đánh toàn bộ tuyến biên giới tỉnh Tây Ninh, sát hại rất dã man đồng
bào ta ở biên giới.
Cũng lúc này, quan hệ Việt-Trung ngày càng
xấu đi. Ngày 2-20/6/1977, đoàn quân sự ta do đ/c Võ Nguyên Giáp dẫn đầu thăm
TQ, TQ nói gay gắt là ta đã làm tổn thương quan hệ 2 nước. Ngày 7- 10/6/1977,
Thủ tướng Phạm Văn Đồng thăm các nước Bắc Âu về qua Bắc Kinh, TQ trao bị vong
lục 7 điểm: VN công khai nói xấu TQ; vấn đề biên giới trên bộ; điểm nối ray
đường sắt VN-TQ; 2 quần đảo; vịnh Bắc bộ; Hoa kiều ở VN; VN dùng vấn đề lịch sử
để chống TQ. Ngày 20/11/1977, đoàn Đảng và Chính phủ ta do đ/c Lê Duẩn dẫn đầu
thăm TQ. TQ đón tiếp và hội đàm lạnh nhạt. TQ nhắc lại thuyết “3 thế giới”, từ
chối việc ta yêu cầu viện trợ 50 vạn tấn thép. Trong khi đó, quan hệ CPC-TQ
tiếp tục được tăng cường, tháng 12/1977, Phó Thủ tướng TQ Trần Vĩnh Quý thăm
CPC, đi thị sát tất cả các quân khu giáp biên giới với VN.
Lúc này chúng ta nhận định TQ vừa tranh
thủ, vừa kiềm chế ta mặc dù mặt kiềm chế nổi lên nhưng TQ không thể đẩy VN đi
hẳn với Liên Xô, bất lợi cho TQ. Trong khi quan hệ với CPC xấu đi, ta chủ
trương tăng cường quan hệ với Lào, ký Hiệp ước hòa bình, hữu nghị, hợp tác với
Lào 18/7/1977 và đưa quân trở lại Lào. Cần nhớ lại rằng ngày 5/2/1976, đoàn
Đảng và Chính phủ Lào thăm VN, khi hội đàm 2 BCT, phía Lào nêu vấn đề biên giới
nói phân định nhiều nơi chưa rõ và yêu cầu VN rút quân tình nguyện khỏi Lào. Ta
đáp ứng và hoàn thành việc rút quân vào tháng 4/1976. Tháng 12/1976, hội đàm 2
BCT ở Đồ Sơn, lúc này bọn phỉ Lào tăng cường hoạt động uy hiếp mạnh các đ/c Lào
nên một lần nữa Lào lại yêu cầu VN đưa quân trở lại.
Trong quan hệ với Mỹ, tháng 1/1977, Carter
nhậm chức Tổng thống; Đại sứ Mỹ ở LHQ A. Young nói: Tôi coi VN như Nam Tư ở
châu Á, không phải là một bộ phận của TQ hay Liên Xô, là một nước độc lập. Một
nước VN mạnh và độc lập là phù hợp với lợi ích quốc gia của Mỹ. Ngày 16/3/1977,
L. Woodcock, đặc phái viên của Tổng thống Mỹ thăm VN. Phía Mỹ nêu vấn đề MIA,
phía VN nêu vấn đề thực hiện điều 21 Hiệp định Paris. Ta và Mỹ cũng tiến hành 3
vòng hội đàm về bình thường hóa quan hệ 2 nước (3/5/1977, 1/6/1977, 19/12/1977)
nhưng không kết quả; tuy nhiên, Mỹ thôi không phủ quyết việc VN gia nhập LHQ.
Trong tình hình quá phức tạp như vậy ở CPC,
Ban Bí thư [TW ĐCS VN] quyết định lập “Tiểu ban lâm thời nghiên cứu vấn đề CPC”
gọi tắt là “Nhóm 77″ do đ/c Trần Xuân Bách, Chánh Văn phòng Trung ương phụ
trách; tham gia có các đ/c [Trung tướng] Trần Văn Quang (Bộ Quốc phòng), Phan
Đình Vinh (Ban Đối ngoại Đảng), Nguyễn Xuân (Bộ Ngoại giao). Sau một thời gian nghiên
cứu, Tiểu ban này đã kết luận và kiến nghị như sau:
“I. …Có thể nhận định: Đảng CPC hiện nay
với tên gọi chính thức là Đảng Cộng sản CPC, về thực chất, không phải là một
đảng cách mạng của giai cấp công nhân theo chủ nghĩa Marx-Lenin, mà có tính
chất một đảng dân tộc chủ nghĩa tiểu tư sản nông dân. Đường lối chính trị mà
nhóm Pol Pot – Ieng Sary đương thực hiện hoàn toàn không phải là đường lối độc
lập, tự chủ, mà là đường lối theo đuôi nước lớn, là sản phẩm và sự biến dạng
của tư tưởng Mao Trạch Đông. “Chủ nghĩa xã hội” hiện nay ở CPC không có những
yếu tố cơ bản của thời kỳ quá độ tiến lên CHXN, không phải là chuyên chính vô
sản, không có chính quyền nhân dân mà là một thứ chế độ bắt buộc lao động theo
kiểu nô lệ, bắt buộc công hữu hóa theo lối quân sự cưỡng bức, vừa dã man, vô
nhân đạo, vừa có tính chất thực dụng tiểu tư sản (cưỡng bức di tản, xóa sạch để
bảo đảm an ninh và để dễ “cải tạo”).
Trước mắt, trong đường lối chính trị và tổ
chức của Đảng CPC, những nhân tố tích cực (chống đế quốc, đoàn kết Đông Dương,
hữu nghị với VN, đoàn kết nội bộ để xây dựng xã hội tiến bộ ở CPC…) đương mất
đi, những nhân tố tiêu cực, phản động đương phát triển và chiếm ưu thế, tác
động và sự chi phối của các thế lực đế quốc và bành trướng từ ngoài vào CPC
đương tăng lên.
II. Đất nước CPC đương ở trong cơn khủng
hoảng nghiêm trọng, nhân dân CPC đương bị sống trong một trại tập trung khổng
lồ; hình ảnh Đảng Cộng sản và CNXH đương bị bôi nhọ, bị nhân dân khiếp sợ,
thành quả cách mạng CPC có nguy cơ tổn thất lớn. Tâm trạng của số đông quần
chúng CPC hiện nay là lo sợ, chán ngán, hoặc chịu đựng để sống yên, hoặc có cơ
hội thì chạy sang nước bạn mong có nơi nương tựa. Một bộ phận nhỏ cơ hội bám
vào chính quyền hiện nay để có quyền lợi và bảo đảm cho sinh mệnh của gia đình.
Gần đây nhiều nhóm ly khai, chống đối đương
phát triển ở trong nước hoặc lưu vong. Trong số những người đã chạy sang ta, đã
thấy có những tập thể nhỏ, lẻ tẻ hoặc tập thể lớn quần chúng hoặc binh lính
CPC, trong đó có một số cán bộ, đảng viên CPC có nguyện vọng được tổ chức lại,
được giúp đỡ để cứu vãn cách mạng CPC. Xen lẫn vào những người này cũng có
những tên trá hàng, những kẻ cơ hội, những phần tử mật vụ, gián điệp.
Trước tình hình ấy, Đảng ta, một Đảng luôn
luôn đứng vững trên lập trường quốc tế vô sản nhất định phải có thái độ và chủ
trương, hành động thích hợp với trách nhiệm quốc tế và điếu kiện cụ thể của
mình. Ta coi tổn thất hoặc thành công của cách mạng CPC, của nhân dân CPC cũng
như của bản thân cách mạng ta, nhân dân ta. Hơn nữa, một nước CPC tách ra khỏi
khối đoàn kết Đông Dương, trở thành lực lượng xung kích của một chiến lược phản
động ở Đông Nam Á, đối lập, gây chiến với ta, thực sự là mũi dao nhọn thọc vào
sườn ta và uy hiếp nước Lào. Vận mệnh của nhân dân 3 nước Đông Dương, sự nghiệp
độc lập dân tộc và CNXH của nhân dân 3 nước gắn bó với nhau. Đoàn kết, giúp đỡ
nhau, cùng nhau xây dựng đất nước, xây dựng hạnh phúc của nhân dân mình theo
đường lối của mối Đảng, cùng nhau tiếp tục chống chủ nghĩa đế quốc, là yêu cầu
sống còn và qui luật phát triển khách quan của cách mạng ở 3 nước trên bán đảo
Đông Dương.
Lập trường của Đảng ta đối với vấn đề
Campuchia là:
Kiên quyết đánh trả quyết liệt bằng những
đòn tiêu diệt đối với những lực lượng CPC khiêu khích vũ trang, gây rối, xâm
lấn biên giới ta, tàn sát nhân dân ta. Phối hợp đấu tranh quân sự, chính trị,
ngoại giao để thắng địch; hạn chế và đẩy lùi mọi âm mưu bên ngoài; kiên trì bảo
vệ tình đoàn kết hữu nghị giữa nhân dân VN và nhân dân CPC.
Tích cực ủng hộ, giúp đỡ và bảo vệ những
lực lượng CPC yêu nước và cách mạng chân chính xây dựng thực lực và phát triển
cuộc đấu tranh chính nghĩa chống lại nhóm cầm đầu theo chủ nghĩa dân tộc cực
đoan tiểu tư sản trong ban lãnh đạo CPC, nhằm cứu vãn cách mạng CPC, khôi phục
mối quan hệ đặc biệt giữa CPC và VN.
Cảnh giác ngăn ngừa và phá mọi mưu mô và
hành động nguy hiểm, cấu kết với nhau giữa đế quốc, thế lực bành trướng và nhóm
cầm đầu cực đoan trong ban lãnh đạo CPC đương khoét sâu hằn thù dân tộc, chia
rẽ nhân dân 3 nước, cô lập VN, duy trì và mở rộng chiến tranh biên giới, phá
hoại an ninh và sự nghiệp xây dựng kinh tế của VN và của Lào.
Mọi hoạt động của ta phải nhằm bốn yêu cầu
chính trị:
1) Bảo vệ bằng được nhân dân ta;
2) Đánh mạnh để trừng phạt bọn lấn chiếm và
giết hại dân ta;
3) Lấy lại đất bị lấn chiêm, bảo vệ toàn
vẹn lãnh thổ;
4) Phá âm mưu chia rẽ nhân dân hai nước, cô
lập bọn phản động.
Cần triển khai nhanh và đồng thời bốn mặt
công tác chính:
1. Phòng thủ thật vững, phản công và tiến
công thật mạnh về quân sự trên toàn tuyến biên giới, củng cố thật chắc an ninh
nội địa, từng bước làm nhụt, tiến tới đạp tan ý chí xâm lấn biên giới của nhóm
lãnh đạo CPC.
Trên thực địa toàn tuyến biên giới và ở
những tỉnh, huyện có biên giới, cần xây dựng hệ thống ấp, xã chiến đấu, cần áp
dụng những chính sách và tổ chức thích hợp với tình thế có chiến tranh biên
giới. Phải xây dựng khẩn trương sức mạnh tại chỗ, sẵn sàng chiến đấu và cảnh
giác thường xuyên, tổ chức mạng lưới phong gian nhân dân, quân báo nhân dân,
mạng lưới dân vận và địch vận. Kiên quyết không để lọt một tên gián điệp, một
tên quân xâm lấn CPC, đồng thời không làm hai tính mệnh và tài sản của một
người dân CPC.
2. Triển khai công tác ngoại giao trên thế
tiến công. Ta nắm chính nghĩa, ta thủy chung đoàn kết hữu nghị, ta không gây ra
xung đột biên giới, ta có quyền trừng phạt bọn lấn chiếm, bọn giết người. Ta ở
thế mạnh về ngoại giao vì ta đúng và nhân đạo.
Phương hướng tiến công ngoại gian là: nói
rõ sự thật, chính sách đúng đắn của ta trong quan hệ với CPC và trong việc giải
quyết vấn đề biên giới, tranh thủ dư luận đồng tình ủng hộ ta, đẩy đối phương
vào thế bí, cô lập đối phương trước thế giới, chủ động ngăn chặn những mưu đồ
bên ngoài giật dây đối phương hoặc can thiệp vào nội bộ CPC.
3. Giúp đỡ lực lượng cách mạng chân chính
CPC chống lại chính sách đối nội, đối ngoại phản động hiện nay của nhóm cầm
quyền CPC.
Coi trọng giúp về các mặt: tập hợp lực
lượng thành sức mạnh có tổ chức, có đường lối đúng, phương hướng hành động rõ;
đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chân chính; giúp đỡ đời sống và điều
kiện sản xuất cho nhân dân CPC chạy sang ta; xây dựng lực lượng vũ trang, đào
tạo cán bộ vận động quần chúng, cán bộ binh vận…
Thực chất là giúp xây dựng lại Đảng cách
mạng của giai cấp công nhân CPC; khôi phục và đặt nên móng vững chắc lâu dài
cho tình đoàn kết hữu nghị VN- CPC.
4. Đề nghị Bộ Chính trị lập một ban chuyên
lo về vấn đề CPC với nhiệm vụ: phối hợp và thống nhất thông tin về CPC, nghiên
cứu để đề nghị với BCT những nhận định và chủ trương có tính chất tồng hợp và
cơ bản; phối hợp và hướng dẫn những ngành công tác có trách nhiệm liên quan đến
vấn đề CPC. Ban này do một đ/c trong BCT hoặc BBT phụ trách, lấy các ngành quân
sự, nội vụ, đối ngoại, ngoại giao làm chỗ dựa, có một tổ chuyên viên trực thuộc
đ/c phụ trách để làm đầu mối tổng hợp, thông tin và liên hệ với các cơ quan có
liên quan.
Ban phụ trách về CPC phải dự kiến những
tình huống đột biến và đề nghị với BCT chủ trương đối phó thích hợp với từng
tình huống.
Tháng 1 năm 1978“.
Trước những cố gắng thương lượng của ta với
Pol Pot không thành công, cuối tháng 12/1977, ta đã dùng quân đội lớn có xe
tăng hỗ trợ phản kích bọn Pol Pot sâu vào nội địa CPC ở vùng Mỏ Vẹt dọc theo
đường quốc lộ 1 tiến đến thị trấn [khum] Prasaut, gần thị xã Svay Rieng (cách
biên giới khoảng 50 km).
Ngày 31/12/1977, bọn Pol Pot ra tuyên bố
chính phủ lên án VN xâm lược CPC và tuyên bố cắt quan hệ ngoại giao với VN. TQ
ủng hộ Pol Pot và phê phán VN. Ngày 31/12/1977, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Hoàng
Văn Tiến gặp Đại sứ TQ Trần Chí Phương về tình hình biên giới VN-CPC. Trần Chí
Phương nói VN đã xâm lược CPC, đây là sự kiện nghiêm trọng nhất của năm 1977;
VN phải nhanh chóng rút quân.
Tối 3/1/1978, đ/c Nguyễn Cơ Thạch thông báo
cho một số anh em ở Bộ Ngoại giao: BCT ta họp nhận định ta có thể thắng về quân
sự nhưng ta chưa có ngọn cờ chính trị của người CPC nên quyết định rút quân.
Ngày 6/1/1978 ta hoàn thành việc rút lui an toàn, bọn Pol Pot lấy ngày 6/1/1978
để ăn mừng “chiến thắng” chống VN.
1.4 Năm 1978: năm bước ngoặt.
Bước vào năm 1978, quan hệ VN với CPC và TQ
ngày càng căng thẳng Năm 1977, TQ gây ra 873 vụ va chạm ở biên giới và dùng
người Hoa phá chính sách kinh tế và cải tạo XHCN ở miền Nam, phá chính sách
nghĩa vụ quân sự.
Tiếp theo Tuyên bố của Chính phủ ta ngày
31/12/1977 về vấn đề biên giới VN-CPC ngày 4/1/78, Thủ tướng Phạm Văn Đồng trả
lời TTXVN lần đầu tiên đã nói ý chính sách nguy hiểm của nhà cầm quyền CPC
“được bọn đế quốc và phản động thế giới có tham vọng ở Đông-nam Á hoan nghênh
và khuyến khích”.
Ngày 5/2/1978, Chính phủ ta ra Tuyên bố về
vấn đề biên giới Việt Nan-CPC và đề nghị 3 điểm:
- Chấm dứt ngay hoạt động quân sự thù địch
ở biên giới, lực lượng vũ trang mỗi bên đóng sâu trong lãnh thổ của mình, cách
đường biên giới 5 Km.
- Hai bên gặp nhau ngay đề bàn và ký Hiệp
ước không xâm lược và Hiệp ước biên giới.
- Hai bên sẽ thoả thuận một hình thức thích
hợp bảo đảm quốc tế và giám sát quốc tế Phía Pol Pot hoàn toàn bác bỏ đề nghị
trên.
Về thái độ của Lào: trong tháng 2/1978, đ/c Xuân Thủy dẫn đầu đoàn đại biểu
Đảng ta thăm bí mật Lào thông báo tình hình biên giới VN-CPC. Trong cuộc họp
với BCT Lào, đ/c Souphanouvong13 kể lại chuyến đi thăm hữu nghị chính thức CPC
tháng 12/1977, đ/c Souphanouvong có ấn tượng tốt, cho CPC có kỷ luật và khâm
phục việc CPC làm tốt hệ thống thủy lợi. Về quan hệ VN- CPC, các đ/c Lào nói
đại ý:
VN là anh cả nên xử sự đúng như là người
anh cả, hãy gặp phía CPC bàn bạc giải quyết (lúc này, Lào thừa nhận VN là anh
Cả nhưng rất phấn khởi đảm nhận vai trò anh Hai). VN đưa 3 đề nghị 5/2/1978
nhưng chỉ ra tuyên bố, không gửi trực tiếp cho phía CPC có thể phía CPC phật
lòng, cho VN không chân thành. Lúc này trong nội bộ Lào có sự đấu tranh về quan
điểm khá phức tạp trong quan hệ với VN và với TQ trong khi đó TQ đẩy mạnh việc
đưa quân giúp làm đường ở Bắc Lào. Ngày 8/4/1978, Thứ trưởng Bộ Giao thông TQ
Phan Kì thăm Lào, khánh thành đoạn đường 286 km ở Bắc Lào. Theo gợi ý của Lào,
ngày 10/4/1978, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh gửi
công hàm cho Ieng Sary nhắc lại đề nghị 3 điểm, nhờ Lào chuyển công hàm này.
Ngày 15/5/1978, Bộ Ngoại giao CPC gửi công hàm trả lời, vu khống VN xâm lược,
muốn lập Liên bang Đông Dương, đòi VN thực hiện 4 điều kiện trong 7 tháng đến
cuối năm 1978, có như vậy hai bên mới có thể gặp nhau.
Đáp lại công hàm của phía CPC, ngày
6/6/1978, Bộ Ngoại giao ta gửi công hàm cho Bộ Ngoại giao CPC nhắc đề nghị 3
điểm ngày 5/2/1978 và đề nghị 2 bên tuyên bố chấm dứt hoạt động quân sự thù
địch ở biên giới vào một ngày gần nhất mà hai bên thoả thuận, tách quân khỏi
biên giới 5 Km, cùng ngày đại diện ngoại giao 2 bên tại Viên Chăn (Vientiane)
hoặc bất cứ thủ đô nào gặp nhau để thoả thuận ngày giờ, địa điểm, cấp bậc cuộc
họp đại diện giữa 2 Chính phủ.
Tuy nhiên, mọi cố gắng đề nghị thương lượng
của ta với CPC đều bị bác bỏ kể cả nhờ bon-office của LHQ và [Phong trào] Không
liên kết. Trong khi đó những cuộc tiến công giết hại đồng bào ta ở biên giới
ngày càng nghiêm trọng thêm điển hình là vụ thảm sát vô cùng dã man ở xã Ba
Chúc (An Giang) và thị xã Châu Đốc luôn bị pháo kích bằng pháo 130 ly. Tại Hội
nghị Ngoại trưởng Phong trào Không liên kết ở Beograd 27/7/1978), phía CPC vu
cáo ta thậm tệ và chống lại nội dung thông cáo của Hội nghị Không liên kết kêu
gọi 2 nước thương lượng. Còn ở LHQ, Kurt Walheim, TTK/LHQ nói một bon-office
của LHQ về quan hệ VN-CPC không được TQ tán thành.
Trong khi cuộc chiến tranh biên giới với
CPC ngày càng diễn ra ác liệt thì quan hệ với TQ ngày càng căng thẳng hơn. Ngày
30/4/1978, lần đầu tiên, Lưu Thừa Chí, Chủ tịch Văn phòng công việc Hoa kiều
thuộc Quốc vụ viên TQ công khai nói Hoa kiều ở VN về nước hàng loạt, mở đầu cho
chiến dịch nạn kiều.
Ngày 12/5/1978, TQ gửi công hàm phản đối ta
“bài xích, xua đuổi Hoa kiều”, thông báo quyết định hủy bỏ 21 hạng mục thiết bị
toàn bộ cùng khoản tiền viện trợ dùng cho các hạng mục đó. Ngày 27/5/1978, TQ
bác bỏ đề nghị của ta về chấm dứt tuyên truyền chống nhau, đại diện 2 Chính phủ
gặp nhau đàm phán và tự quyết định đưa tàu sang đón “nạn kiều”. Ngày 30/5/1978,
Chính phủ TQ gửi công hàm cho Chính phủ ta hủy bỏ thêm 51 hạng mục thiết bị
toàn bộ cùng khoản viện trợ dùng cho các hạng mục đó. Ngày 2/6/1978, TQ gọi tất
cả chuyên gia TQ ở VN về nước. Ta gửi công hàm phê phán TQ (17/6/1978) làm xấu
đi quan hệ với VN và ủng hộ Pol Pot chống VN. Ngày 16/6/1978, TQ đòi ta rút 3
tổng lãnh sự quán ở Côn Minh, Nam Ninh và Quảng Châu.
Về quan hệ với Mỹ, ngày 3/2/1978 Mỹ trục xuất đ/c Đinh Bá Thi, Trưởng phái
đoàn ta tại LHQ. Tháng 5/1978, Phó Tổng thống Mondale14 đi Đông-nam Á. Ngày
19/5/1978, Đặng Tiểu Bình nói với báo chí: trong suốt thời gian Phó Tổng thống
Mondale thăm Đông-nam Á, hầu như ngày nào CPC cũng bị VN tấn công. Những cuộc
tấn công ác liệt này là do ảnh hưởng của Liên Xô ở VN tăng lên.
Ngày 20-23/5/1978, [Zbigniew] Brezinski15
thăm TQ, hai bên tố cáo “chủ nghĩa bá quyền Liên Xô” và cam kết cùng nhau chống
bá quyền. Ngày 16/12/1978, Mỹ, TQ công bố sẽ chính thức lập quan hệ ngoại giao
từ 1/1/1979 và trước đó ngày 12/8/1978 đã ký Hoà ước Trung-Nhật trong đó có
điều khoản chống bá quyền. Trong khi TQ, Mỹ đi vào câu kết chống Liên Xô, Đặng
Tiểu Bình không ngừng hết lời công kích và khiêu khích VN. Ngày 7/6/1978, Đặng
Tiểu Bình nói với nhà báo Thái: VN đã đi bước thứ 10 chống TQ. Khi họ đi bước
thứ 11 thì TQ mới đi bước thứ 1, tức là giảm viện trợ cho họ. Nếu họ đi bước
thứ 12 thì TQ sẽ có bước thứ 2. Ngày 3/10/1978, một lần nữa Đặng nói với các
nhà báo Thái: TQ cố tìm nguyên nhân tại sao VN chống TQ mạnh như thế và thấy
rằng đó là do VN muốn lập Liên bang Đông Dương mà TQ thì không tán thành. Ngoài
ra, còn do Liên Xô xúi giục và sử dụng VN để tìm căn cứ quân sự ở Đông-nam Á.
Hiện nay VN đã đưa quân lên biên giới TQ rất đông. Nếu VN cho rằng tiềm lực của
mình đứng thứ 3 thế giới và đem quân đánh phá các nước thì để họ làm thử xem…
Ngay dù Phnom Penh có mất, những người CPC kiên cường sẽ làm chiến tranh du
kích đến thắng lợi cuối cùng. TQ sẽ không đưa quân sang chiến đấu ở CPC nhưng
sẽ tiếp tục viện trợ cho CPC trong tất cả lĩnh vực. Ngày 5/11/1978, Đặng thăm Thái
Lan và gọi VN là tên côn đồ phương Đông. Giữa tháng 11/1978, Cơ Bằng Phi16 nói
với Đại sứ Nam Tư, và Đại sứ CHDC Đức nói lại với ta rằng: nếu VN tấn công CPC
và cả Phnom Penh, TQ sẽ không đưa quân vào; TQ sẽ có biện pháp kiềm chế VN ở
biên giới Việt-Trung.
Tình hình trên đặt ra cho ta một tình thế
rất khó khăn, quan hệ với CPC, TQ đều xấu đi nghiêm trọng và nhanh chóng. Tháng
5/1978, Bộ chính trị có Nghị quyết. Tháng 6/1978, Hội nghị Trung ương lần thứ 4
khoá IV của Đảng quyết tâm tiêu diệt bè lũ Pol Pot-Ieng Sary (theo tinh thần đề
nghị của Nhóm 77 như trên trình bày) và kiên quyết chống chủ nghĩa bá quyền TQ,
bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Marx-Lenin.
Ngày 27/7/1978, đ/c TBT Lê Duẩn ký Nghị
quyết số 09-NQ/TW với tiêu đề “Nghị quyết của Hội nghị lần thứ 4 của BCH Trung
ương về tình hình và nhiệm vụ mới”.
Về nhận định tình hình, Nghị quyết viết: “sự nghiệp phấn đấu đưa cả nước tiến
lên CNXH theo đường lối của đại hội lần thứ IV của Đảng đã thu được những thành
quả bước đầu đáng phấn khởi và đương trên đà tiến triển tốt.
Nhưng chúng ta có nhiều khó khăn phải giải
quyết trong quá trình tiến lên. Khó khăn lớn nhất hiện nay là âm mưu và hành
động phá hoại của tập đoàn phản bội theo chủ nghĩa Mao trong giới cầm quyền Bắc
Kinh đối với cách mạng nước ta. Chúng đã dùng bè lũ Pol Pot-Ieng Sary gây ra
cuộc chiến tranh chống VN, đánh phá biên giới Tây-nam nước ta. Gần đây, chúng
dựng lên sự kiện “nạn kiều”, cắt hoàn toàn viện trợ kinh tế, rút hết chuyên gia
về nước, đóng cửa 3 tổng lãnh sự quán của ta ở TQ, tìm cách gây rối cho ta về
chính trị và kinh tế, uy hiếp về quân sự ở tuyên biên giới Việt-Trung và ở Biển
Đông, tiếp sức cho bọn phỉ Mẹo ở Lào17 và ở biên giới phía Tây, hàng ngày tuyên
truyền kích động tư tưởng chống VN ở TQ và trên thế giới”.
…“Mục tiêu chiến lược của chủ nghĩa Mao là
xóa bỏ chủ nghĩa Marx-Lenin, xóa bỏ CNXH, thực hiện chủ nghĩa bành trướng đại
dân tộc và bá quyền nước lớn trên thế giới, trước hết là ở Đông Nam châu Á”.
…”Trên thế giới đã hình thành 2 lực lượng
đối lập đấu tranh với nhau: một bên là các lực lượng cách mạng và tiến bộ trong
3 dòng thác cách mạng của thời đại; một bên là các lực lượng đế quốc, phản
động, chống CNXH, độc lập dân tộc, dân chủ và hòa bình, trong đó Mỹ là lực
lượng đầu sỏ, tập đoàn theo Mao phản bội chủ nghĩa Marx-Lenin trong giới cầm
quyền Bắc Kinh là thế lực phản động quốc tế lớn nhất, đồng minh của Mỹ.
Ở Đông-nam Á nổi bật lên mâu thuẫn chủ yếu
giữa độc lập dân tộc và CNXH với chủ nghĩa bành trướng, bá quyền nước lớn của
tập đoàn theo Mao trong giới cầm quyền Bắc Kinh và các thế lực đế quốc đương
tranh giành quyền lợi và ảnh hưởng trong khu vực này. Tập đoàn phản bội theo
Mao đóng vai trò xung kích phản cách mạng nguy hiểm nhất, trực tiếp chống lại 3
dòng thác cách mạng ở Đông Nam châu Á. Nước Cộng hoà XHCN VN độc lập, tự chủ,
tiêu biểu cho CNXH và độc lập dân tộc, có sức mạnh và tiềm lực lớn, có uy tín
chính trị cao trên thế giới, là nhân tố quan trọng của hòa bình và cách mạng ở
Đông- nam Á, đồng thời là trở lực lớn nhất đối với mưu đồ bành trướng và bá
quyền ở Đông-nam Á của những người cầm quyền Bắc Kinh theo Mao…
…Cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa bành trướng
đại dân tộc và bá quyền nước lớn của tập đoàn phản bội trong giới cầm quyền Bắc
Kinh là một bộ phận quan trọng trong cuộc đâu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và
cách thế lực phản động, vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và CNXH trên thế
giới. Thắng lợi của cuộc đấu tranh đó sẽ có tác dụng to lớn, phát triển thế
tiến công của 3 dòng thác cách mạng, bảo vệ chủ nghĩa Marx-Lenin, nêu cao tinh
thần quốc tế vô sản, khôi phục và tăng cường đoàn kết trong hệ thống XHCN thế
giới và trong phong trào cộng sản quốc tế” .
…“Chúng ta đang ở trong giai đoạn vừa có
hòa bình, vừa có chiến tranh trên một bộ phận đát nước, đồng thời kẻ địch đương
đe dọa chiến tranh từ bên ngoài và gây rối bên trong, hòng gây khó khăn cho
công cuộc xây dựng của chúng ta và làm suy yếu ta về kinh tế và quốc phòng.
Tình hình còn diễn biến phức tạp. Chúng ta không loại trừ khả năng kẻ địch tiến
công quân sự qui mô lớn. Ta phải làm thất bại mọi âm mưu và hành động của kẻ
thù. Một mặt, ta phải tìm mọi cách làm cho khả năng xấu nhất không xẩy ra.
Nhưng mặt khác, ta phải khẩn trương chuẩn bị và sẵn sàng ứng phó với mọi tình
thế “.
…“Chúng ta đương có nhiều khó khăn của một
nước sau nhiều năm chiến tranh ác liệt nhưng Đảng, Nhà nước, nhân dân ta hoàn
toàn có đủ sức đánh thắng bọn theo chủ nghĩa bành trướng đại dân tộc, nếu chúng
trực tiếp xâm lược nước ta, đồng thời đạp tan mọi âm mưu phá hoại của đế quốc
Mỹ.
Chưa bao giờ nước VN XHCN lại có sức mạnh
như ngày nay. Đó là sức mạnh tổng hợp của một nước độc lập, thống nhất, có
chính nghĩa, có truyền thống anh hùng, bất khuất, đoàn kết chống ngoại xâm, đã
đánh thắng nhiều đế quốc lớn, kể cả tên đế quốc đầu sỏ; có sức mạnh của nền
chuyên chính vô sản…”
…“Đánh bại mọi âm mưu và hành động của chủ
nghĩa bành trướng đại dân tộc chống VN là sứ mệnh lịch sử của nhân dân cả nước
ta để bảo vệ độc lập dân tộc, tiến nhanh tiến mạnh tiến vững chắc lên CNXH, góp
phần bảo vệ và tăng cường CNXH trên thế giới và ở TQ, giữ gìn sự trong sáng của
chủ nghĩa Marx-Lenin.
Một lần nữa, tiếp theo cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta, mâu thuẫn của thời đại lại tập trung ở VN,
cuộc đụng độ lịch sử mới có thể lại diễn ra ở VN, và kết quả cuối cùng là nhân
dân VN, chủ nghĩa Marx- Lenin, chính nghĩa và công lý sẽ thắng!”.
Từ những nhận định như vậy, Nghị quyết xác
định nhiệm vụ chung của cách mạng VN trước tình hình mới là:
“Động viên cao độ tinh thần yêu nước và
yêu CNXH, phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, truyền thống đoàn kết chiến
đấu chống ngoại xâm, tinh thần tự lực tự cường của toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân, xây dựng chế độ làm chủ tập thể XHCN toàn diện và rộng khắp, đẩy mạnh
công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc, tăng nhanh tiềm lực kinh tế và quốc
phòng, phá tan âm mưu của địch hòng làm suy yếu và đánh phá nước ta, giành
thắng lợi trong chiến tranh biên giới phía Tây-nam, tăng cường phòng thủ đất
nước, sẵn sàng chiến đấu đánh bại chiến tranh xâm lược trên qui mô lớn. Tăng
cường đoàn kết với các nước XHCN anh em và toàn thể loài người tiến bộ, kiên
quyết đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là đế quốc Mỹ, chống chủ
nghĩa bành trướng và bá quyền nước lớn của tập đoàn phản động trong giới cầm
quyền Bắc Kinh, làm tốt nghĩa vụ quốc tế của nhân dân ta, góp phần bảo vệ sự
trong sáng của chủ nghĩa Marx-Lenin, tăng cường lực lượng của CNXH và độc lập
dân tộc ở Đông-nam châu Á và trên thế giới“.
Về quốc phòng, an ninh:
…”Kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng kinh tế
và củng cố quốc phòng theo một kế hoạch cơ bản, lâu dài và được nghiêm chỉnh
thực hiện từng bước vững chắc. Chuẩn bị sẵn sàng về mọi mặt để nắm chắc thế chủ
động, giáng cho kẻ thủ xâm lược những đòn sấm sét ngay từ đầu, dù chúng dùng
phương tiện chiến tranh gì, với bất cứ qui mô nào.
Tập trung sức thực hiện nhiệm vụ quân sự
trước mắt là đánh thắng trong chiến tranh biên giới phía Tây-nam; tăng cường
khả năng và trình độ sẵn sàng chiến đấu trên hướng Bắc và Tây Bắc, tăng cường
phòng thủ các đảo và bảo vệ vùng biển; bảo vệ vững chắc cả nước. Phối họp với
các đ/c Lào dẹp bạo loạn, củng cố mọi mặt ở tuyến biên giới phía Tây, phát huy
sức mạnh của đường biên giới hữu nghị Việt-Lào, ra sức làm tốt nghĩa vụ quốc tế“… ‘
Nghị quyết kết luận:
“Tiếp theo cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước vừa kết thúc thì sứ mệnh lịch sử mới, cuộc đấu tranh mới chống một đối
tượng mới rất thâm độc và thô bạo, lại bắt đầu.
Nhân dân ta đương vững bước tiến lên, hăng
hái, dũng cảm và bình tĩnh thông minh vượt qua mọi khó khăn, thử thách, quyết
giành những thắng lợi vẻ vang trong sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc
VN yêu quý, đánh bại mọi mưu đồ của chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa bành trướng
đại dân tộc, tích cực làm nghĩa vụ quốc tế cao cả vì hòa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và CNXH trên toàn thế giới, tích cực góp phần bảo vệ sự trong sang của
chủ nghĩa Marx- Lenin“.
Từ đây, ta tiến hành một loạt hoạt động quan trọng để
thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 :
- Ngày 16/6/1978, BCT ra Nghị quyết 20
thành lập một ban mới gọi là B- 68 nhằm giúp Trung ương trong việc giúp cách
mạng CPC. Nghị quyết nói rõ đây là một cơ quan nghiên cứu, làm tham mưu, vừa là
cơ quan chuyên gia của bạn CPC. Trụ sở B-68 đặt ở ngôi nhà 606, đường Trần Hưng
Đạo thành phố HCM. B-68 lúc đầu do đ/c Nguyễn Xuân Hoàng làm Trưởng Ban, là đ/c
có quá trình lâu dài giúp CPC, từng là Trưởng ban CP-48 của Trung ương Đảng;
sau này đ/c Thiếu tướng Hoàng Thế Thiện làm Trưởng ban, Phó ban có các đ/c Lê
Hai (hiện là Trung tướng, Phó Chủ nhiệm Tổng cục chính trị), Đăng Thành, Vũ
Oanh, Phan Đình Vinh, Nguyễn Hữu Tài (Ban Đối ngoại Trung ương), Ngô Điền, sau
này có thêm đ/c Phạm Chung (nguyên Phó Văn phòng Trung ương Đảng). Khi cơ quan
thành lập do đ/c Lê Đức Thọ trực tiếp phụ trách đã nhanh chóng triển khai những
công việc đế chuẩn bị thực hiện Nghị quyết Trung ương
Đ/c Lê Đức Thọ vào Nam, tập hợp những cán
bộ miền Nam vốn quen biết CPC để xác minh những người ly khai Pol Pot chạy sang
VN, dùng trực thăng để triệu tập cán bộ, lúc này Souvanna ở miền Đông CPC vốn
có quan hệ tốt với VN hồi 1970 bị Pol Pot trấn áp đã tự sát, (sau này Nayan
Chanda và Ben Kierman viết nhiều sách về vụ nổi dậy này ở miền Đông)18. Theo
lời Hun Sen, Chea Sim, trước khi tự sát Souvanna có dặn khi khó khăn cần chạy
sang VN tìm sự giúp đỡ. Heng Somrin và Chea Sim chạy sang VN năm 1978 cùng một
số đông cán bộ cũng thuộc lực lượng miền Đông mà Pol Pot gọi là khu 203, còn
Hun Sen thì sang VN từ 6/1977. Một nguồn cán bộ nữa là những người dân CPC khi
ta tấn công lên CPC ở khu vực Svay Rieng tháng 12/1977 cũng theo bộ đội VN về
VN tị nạn, sống tập trung ở trại Bến Sắn (Tây Ninh) trong số đó sau này có
người là Bộ, Thứ trưởng như Prach Sun, Phó Ban đối ngoại; Chay Kannha, Chủ tịch
[Hội] phụ nữ và Thứ trưởng Bộ Y tế; Chan Ven, Bộ trưởng Bộ Giáo dục… Tôi được
nghe kể lại là đ/c Lê Đức Thọ dặn cán bộ ta là phải tìm cho bằng được ngọn cờ,
ngọn cờ chính trị của người CPC dù đó là “ngọn cờ rách”.
Trong khi bên trong ta chuẩn bị khẩn trương
như vậy thì hoạt động đối ngoại để chuẩn bị cho hành động của ta cũng diễn ra
rất khẩn trương. Nghị quyết Trung ương IV tháng 7/1978, đề ra nhiệm vụ cho hoạt
động đối ngoại là:
“Tiếp tục giương cao ngọn cờ độc lập dân
tộc và CNXH, giữ vững độc lập, tự chủ, đoàn kết với tất cả các lực lượng chống
chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân cũ và mới, chủ nghĩa bành trướng đại dân
tộc, tranh thủ mọi lực lượng có thể tranh thủ, ra sức lợi dụng mọi mâu thuẫn
giữa các đế quốc, giữa đế quốc và các nước khác với bọn phản động quốc tế phân
hoá và cô lập cao độ kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm nhất hiện nay của nhân dân
các nước Đông-nam châu Á là tập đoàn phản động theo Mao trong giới cầm quyền
Bắc Kinh.
Ra sức củng cố và tăng cường tình đoàn kết
anh em và quan hệ hợp tác gắn bó về mọi mặt với Liên Xô, đồng thời tăng cường
quan hệ hữu nghị với các nước XHCN khác tranh chủ sự giúp đỡ của các nước XHCN
cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước ta“…
- Ngày 29/6/1978 : VN chính thức gia nhập
SEV [Hội đồng tương trợ kinh tế].
- Ngày 3/7/1978: Thứ trưởng Bộ Ngoại giao
Phan Hiền thăm Thái Lan, Nhật Bản, Singapore, New Zealand, Malaysia, Lào.
- Từ 13/9/1978, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đi
thăm các nước Thái Lan, Philippines, Indonesia, Maylaysia, Singapore nêu đề
nghị ký Hiệp ước không xâm lược, không lật đổ, lập khu vực hòa bình, độc lập,
tự do, trung lập và ổn định, phồn vinh. Ta tuyên bố không ủng hộ các tổ chức Mao-ít
ở các nước này.
- Cuối tháng 9/1978, tại LHQ, VN và Mỹ gặp
nhau về bình thường hóa quan hệ 2 nước. VN không gắn điều 21 với bình thường
hóa quan hệ Việt-Mỹ.
Hai bên thoả thuận lập Working Group bàn về
bình thường hóa quan hệ 2 nước.
- Trong 2 tháng 8 và 9/1978 đàm phán
Trung-việt về người Hoa nhưng không kết quả.
- Tháng 10/1978, Mỹ chuyển mạnh sang câu
kết với TQ chống Liên Xô, VN, giảm và tạm ngừng thương lượng về bình thường hóa
quan hệ với VN.
- Ngày 3/11/1978, VN ký với Liên Xô Hiệp
ước hữu nghị và hợp tác.
- Ngày 2/12/1978, ta giúp hình thành Mặt
trận đoàn kết dân tộc cứu nước CPC, ngọn cờ chính trị của lực lượng yêu nước
CPC và Hãng thông tấn SPK ra đời. Anh Ngô Tiến (hiện là phát thanh viên tiếng
Khmer của Đài Tiếng nói An Giang) là người dịch và chép tay bản Tuyên ngôn và
Cương lĩnh của Mặt trận để phân phát. Trong quá trình chuẩn bị, một lần nữa
những người CPC lại tỏ ý ngại VN lại chi phối CPC, điển hình là Ouch Bun
Chhoeun người thuộc khu miền Đông cùng chạy sang với Chea Sim, cũng nhắc lại đề
nghị tương tự như Pol Pot năm 1970 là VN chỉ giúp pháo binh, vũ khí và huấn
luyện còn CPC tự đánh. Vì tư tưởng dân tộc đó nên Ouch Bun Chhoeun không được
lựa chọn vào hàng ngũ lãnh đạo mặc dù anh ta có trình độ, sau này Chhoeun làm
Bộ trưởng tư pháp. Người được lựa chọn đứng đầu Mặt trận là Heng Somrin, một
người nông dân chất phác, hiền lành.
Ngay trước và sau khi ra đời Mặt trận, ta
đã từng bước ém quân vào sâu trong nội địa CPC, giúp xây dựng những đội quân vũ
trang tuyên truyền CPC. Sau khi tập trung 19 trong số 25 sư đoàn ở biên giới
CPC-VN, ngày 23/12/1978, quân Pol Pot tiến công thị trấn Bến Sỏi và mục tiêu là
đánh chiếm thị xã Tây Ninh. Từ 25/12/1978, ta bắt đầu mở cuộc tấn công lớn sang
CPC và 7/1/1979, đánh chiếm Phnom Penh và các tỉnh khác của CPC.
Cần nói thêm rằng, sau khi ta đã đưa quân
đánh sang CPC ngoài Mặt trận ta chưa kịp giúp thành lập Đảng, khi Phnom Penh
sắp giải phóng, ngày 6/1- 8/1/1979, tại Thủ Đức (thành phố HCM) đã họp Hội nghị
xây dựng lại Đảng CPC với tất cả là 62 đảng viên tập hợp từ các nguồn khác nhau
bầu 7 người vào Ban xây dựng Đảng (sau này được gọi là Đại hội III): Pen
Sovan19, Trưởng ban; Heng Somrin, Chea Sim, Van Son, Chan Kiri, Bouthong, Hun
Sen là Uỷ viên. Van Son làm Trưởng ban tổ chức; Chan Kiri làm Trưởng ban kiểm
tra. (Chan Kiri là một đ/c gốc Nam bộ tham gia kháng chiến chống Pháp, người
trung thực chất phác nhưng năng lực hạn chế. Pen Sovan không thích đ/c này,
thường chê bai và cũng không muốn có một đ/c lớp cũ như vậy trong lãnh đạo. Van
Son là Trưởng ban tổ chức kiêm Bí thư thành Uỷ Phnom Penh sớm có những biểu
hiện sa đoạ và liên hệ với những phần tử xấu. Tháng 3/1979 Van Son và Chan Kiri
bị Pen Sovan gạt và đưa Sai Phuthong thay Van Son nhưng không trao đổi gì với
phía VN. Pen Sovan, Chea Sim và Sai Phuthong hình thành Thường vụ Trung ương
Đảng). Ngày 7/1/1979, ta giải phóng Phnom Penh và các tỉnh nhưng các cán bộ chủ
chốt của CPC vấn còn ở tại căn cứ Quân khu 7 ở sân bay Tân Sơn Nhất mãi đến
ngày 24/1/79, một chiếc Yak 40 của ta mới chở số lãnh đạo CPC bao gồm cả Pen
Sovan, Heng Somrin, Chea Sim, Hun Sen… về Phnom Penh để 25/1/1979 dự lễ mừng
chiến thắng ở sân vận động Olimpic, còn mọi việc của buổi lễ đều do chuyên gia
và anh Phùng Thế Tài đứng ra tổ chức. Chuyên gia VN đến làm tất cả, “làm thay,
làm thầy” và “làm cả tớ”. Khi chuẩn bị đón Thủ tướng Phạm Văn Đồng, ngoài vật
chất, lễ tân, người phục vụ do Anh Khai ở Sở Ngoại vụ thành phố Hồ Chí Minh đưa
lên, ta còn đưa cả công nhân quét đường lên Phnom Penh. Tôi còn nhớ một chi
tiết khi Phnom Penh giải phóng, cần ra đời Chính phủ và tên nước mới, Bộ Ngoại
giao được giao nhiệm vụ soạn giúp Tuyên ngôn của Chính phủ mới CPC. Một buổi
tối sau 7/1/1979, tại Phòng họp lớn của Bộ, các đ/c Nguyễn Cơ Thạch, Võ Đông
Giang, Phạm Bình, Nguyễn Xuân, Lưu Văn Lợi thảo luận và phân công giao viết
gấp. Anh Võ Đông Giang nói là Tuyên ngôn nên ngắn gọn, súc tích, mang tính chất
hiệu triệu như Tuyên ngôn 2/9 của VN. Tuyên ngôn phải ra đời tên nước có ý kiến
là đặt tên là Cộng hoà Dân chủ, có ý kiến là Cộng hoà Dân chủ Nhân dân, ý kiến
này bị bác vì quá giống tên nước Lào, cuối cùng anh Giang đề nghị đặt tên Cộng
hoà Nhân dân cho giống TQ.
Bản Tuyên ngôn được viết, điện mật vào
trong kia [tp HCM] và 12/1/1979, Tuyên ngôn của Hội đồng nhân dân cách
mạng CPC chính thức được công bố và tên nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân CPC có
từ đấy. Và cũng từ đó, do Bộ Ngoại giao CPC chưa hình thành, chuyên gia giúp Bộ
Ngoại giao chỉ có anh Ngô Điền, anh Chiến Thắng và anh Bùi Hữu Nhân nên phần
lớn các tuyên bố của Bộ Ngoại giao CPC đều được viết từ Bộ Ngoại giao VN, anh
Võ Đông Giang duyệt rồi gửi sang Phnom Penh để dịch và công bố.
Ngày 16/2/1979, Thủ tướng Phạm Văn Đồng
sang thăm chính thức CPC; ngày 17/2/1979 ký Hiệp ước hữu nghị và Hiệp định quân
sự; cùng ngày TQ đưa 60 vạn quân tiến công các tỉnh miền Bắc VN để “dạy cho VN
một bài học”.
Chúng ta đưa quân vào CPC, giúp CPC làm lại
cuộc cách mạng từ con số 0 trên tất cả mọi lĩnh vực. Để hiểu thực chất đội ngũ
cán bộ CPC, xin trích đoạn báo cáo nhận xét của chuyên gia ta ở CPC năm 1980:
“Lực lượng cán bộ, đảng viên CPC do nhiều
nguồn tập hợp lại, chưa thông cảm và hoà hợp với nhau:
- Số cán bộ đảng viên tập kết từ miền
Bắc [VN] về nay còn độ 40 người.
Số lượng ít song giữ vị trí quan trọng, chủ
chốt (3/6 Uỷ viên Trung ơng, 5/8 Bộ trưởng, 9/26 Thứ trưởng, 7/29 Bí thư và Chủ
tịch tỉnh. Nói chung, thái độ chính trị tốt, tin cậy và đoàn kết với VN. Có một
ít thật sự là ly khai Pol Pot ở lại miền Bắc, giác ngộ chính trị khá. Còn số
đông là già yếu hoặc do cầu an, sinh hoạt bê tha. Đến nay một số đã thoái hoá,
rơi rụng.
- Lực lượng ly khai Koh Kong thuộc dân
tộc Thái, đã sớm nhận ra bản chất phản động của Pol Pot, nổi dậy chống lại
chúng ngay từ năm 1974 rồi chạy sang Thái Lan, lúc đó có 65 đảng viên. Lực
lượng ly khai Đông Bắc chủ yếu là thuộc dân tộc ít người ở Ratanakiri cũng đã
sớm chống lại Pol Pot, chạy sang VN và Lào.
Hai lực lượng ly khai này đều thuộc các dần
tộc ít người, nói chung có lập trường chính trị tốt, đoàn kết gắn bó với VN.
Các dân tộc ít người tuy chiếm tỷ lệ nhỏ nhưng có lực lượng cán bộ, đảng viên
khá đông và giữ vị trí quan trọng. Dân tộc Thái chỉ có gần 4.000 [người] song
đảng viên hiện tới 70 người chẳng những giữ vị trí chủ chốt của tình Koh Kong
mà cả Kampot và một vài ngành Trung ương. Số cán bộ dân tộc ở Ratanakiri nay được
bố trí giữ các chức vụ chủ chốt ở cả 4 tỉnh Đông Bắc và một vài ngành Trung
ương.
Bên cạnh chỗ mạnh, căn bản về lập trường
chính trị, các cán bộ đảng viên người dân tộc (Koh Kong và Đông Bắc) đều có
nhược điểm là trình độ văn hoá thấp, chủ nghĩa địa phương và thành kiến dân tộc
với người CPC Kinh20 khá nặng nề.
- Lực lượng nổi dậy của K-203, có số cán
bộ, đảng viên khá đông, giữ nhiều chức vụ quan trọng (2 Uỷ viên Trung ương, 10
Bí thư tỉnh, 2 Bộ trưởng và 4 Thứ trưởng). Số do nhận rõ đường lối, quan điểm Pol
Pot phản động mà chống nó là số ít còn số đông do bị Pol Pot nghi ngờ trừng trị
mà nổi dậy. Có người đến nay thấy rõ là tiến bộ, chuyển biến tốt lên nhưng cũng
còn những người ta chưa thật hiểu rõ, ảnh hưởng quan điểm dân tộc hẹp hòi, nghi
ngờ VN, tác phong xấu của thời kỳ Pol Pot trong một số người còn nặng.
- Những người tị nạn và ly khai khác, lẻ
tẻ không thành tổ chức, chạy rải rác sang VN từ 1977 đến cuối 1978. Số này
không thuần nhất. Có những người tốt nay trở thành cán bộ nòng cốt. Nhưng cũng
có người khá phức tạp.
- Lực lượng cán bộ mới sau 7/1/1979, chủ
yếu là học sinh, sinh viên, trí thức. Số đông có tinh thần yêu nước, nhiệt
tình, tận tuỵ đã thấy những nhân tố mới, có triển vọng nhưng những người giác
ngộ chính trị thấp, nhận thức mơ hồ, dễ dao động, có ảo tưởng đối với Sihanouk,
hoài nghi chưa tin chế độ mới.
Số cán bộ này đã chiếm tới 25% các Ban cán
sự tỉnh, 38% UBND tỉnh, 80% cấp Vụ, Cục và 7 Thứ trưởng”.
(Còn tiếp)
–
Ghi chú:
13 Prince Souphanouvong (July
13, 1909 - January
9, 1995) was, along with his
half-brother Prince Souvanna Phouma and Prince Boun
Oum of Champasak, one of the “Three Princes” who
represented respectively the communist (pro-Vietnam), neutralist, and royalist
political factions in Laos. He was the figurehead president of Laos from December 1975 to
October 1986, a period where the country was effectively under the control of Vietnam.
14 Walter Frederick “Fritz” Mondale (born January
5, 1928) is an American politician and member of the Democratic-Farmer-Labor Party. He was the 42nd Vice President of the United States (1977 – 1981) under President Jimmy Carter.
15 Brzezinski, Zbigniew (zbĭg‘nyū brəzhĭn‘skē)
, 1928–, American political scientist and public official, b. Warsaw, Poland,
Ph.D., Harvard, 1953. The son of a diplomat, he was raised in Canada and became
(1958) a U.S. citizen. A professor of international relations at Harvard and
Columbia Univ. (1960–77), he was a Soviet specialist and proved to be an
influential voice regarding political affairs in the Communist world. As
President Carter’s national security
adviser (1977–81), he advocated a hard line toward the USSR. In 1981 he resumed
his academic career, writing extensively on U.S. strategic relations, the
collapse of Communism, and America’s security challenges. His books include Ideology
and Power in Soviet Politics (1962, repr., 1976), Between Two Ages (1970,
repr. 1982), The Grand Failure (1989), The Grand Chessboard (1997),
and The Choice: Global Domination or Global Leadership (2004).
16 乔冠华/Qiao Guanhua
(1913.3.28-1983.9.22), Minister of Foreign Affairs of the People’s Republic of
China (1974.11-1976.12) After 1976, he held the position of advisor to the
Chinese People’s Association for Friendship with Foreign Countries.
17 Chỉ nhóm tàn quân của Vang Pao sau năm 1975.
18 Nayan Chanda (1986)). Brother Enemy: The War After
the War. ISBN 0-15-114420-6.
Ben Kierman - The Pol Pot
Regime.
19 Lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước CPC từ
1979-12/1981.
No comments:
Post a Comment