Huỳnh Anh Dũng, cựu Đại sứ VN tại Campuchia
II. diễn biến cuộc đấu tranh về CPC và một
số quan hệ đối ngoại của Việt Nam giai đoạn 1979-1991
Cuộc đấu tranh về vấn đề CPC trong gần 13
năm (1979-1991) và những quyết sách của ta về CPC luôn luôn gắn liền với những
biến đổi trong chiến lược của các nước lớn những biến đồi sâu sắc trên thế
giới. CPC là trọng tâm của hoạt động ngoại giao của ta trong giai đoạn này. Có
thể có nhiều cách chia giai đoạn khác nhau những để tiện trình bày được chi
tiết, tôi phân chia làm 4 giai đoạn nhỏ:
2.1 Giai đoạn 1979 – 1981
a) Bối cảnh quốc tế:
Thắng lợi của VN trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ đã đưa đến sự suy yếu và khủng hoảng sâu sắc nhất của đế quốc Mỹ, kéo
theo sự khủng hoảng toàn diện của chủ nghĩa đế quốc trong thời kỳ sau VN. Mỹ
phải rút khỏi lục địa châu Á, chuyển sang chiến lược quần đảo tạo nên khoảng
trống trong khu vực. Thất bại của Mỹ, thắng lợi cách mạng VN và các nước Đông
Dương đã đưa tới sự khủng hoảng của các nước ở Đông-nam Á. Mỹ ra sức giải quyết
khủng hoảng nội bộ bằng mọi cách khôi phục lại sức mạnh của Mỹ về quân sự, kinh
tế và vị trí số một đối với đồng minh; đối phó với việc Liên Xô mở rộng ảnh
hưởng và sự phát triển của cách mạng thế giới. Nhằm mục tiêu đó, từ cuối những
năm 70, Mỹ đẩy mạnh chạy đua vũ trang, kiềm chế Liên Xô và quan hệ Đông-tây
nhưng tránh không làm đổ vỡ quan hệ Xô-Mỹ; đồng thời đẩy mạnh hoà hoãn với TQ,
từng bước chơi con bài TQ chống Liên Xô và cách mạng, nhất là từ sau chuyến đi
TQ của Brezinski tháng 8/1978, khi TQ chuyển hẳn sang đi với Mỹ chống Liên Xô,
phục vụ 4 hiện đại hóa. Trong vấn đề CPC, Mỹ lợi dụng chính sách chống Liên Xô
của TQ, tuy nhiên tránh dính líu trực tiếp và điều Mỹ quan tâm nhất là bảo đảm
an ninh cho các nước ASEAN nhất là Thái Lan.
Liên Xô triệt để khai thác cục diện quốc tế
“sau VN”, sự suy yếu của Mỹ và khó khăn của TQ để mở rộng ảnh hưởng, bao vây,
kiềm chế TQ và phá câu kết Mỹ-Trung. Đặc biệt Liên Xô đã lợi dụng thắng lợi của
VN để tăng cường vị trí ở Đông-nam Á. Liên Xô đã ủng hộ ta đưa quân vào CPC,
đồng thời thúc đẩy quan hệ với VN (ký Hiệp ước hợp tác hữu nghị tháng 11/1978),
với Lào, thiết lập quan hệ với CPC, mở rộng sự có mặt của Liên Xô cả về chính
trị, kinh tế lẫn quân sự, tranh thủ VN và các nước Đông Dương đi với Liên Xô
đối phó với câu kết Trung-Mỹ song tránh dính líu trực tiếp vào cuộc xung đột.
TQ coi Đông-nam Á là khu vực ảnh hưởng và
là hướng bành trướng chủ yếu của TQ. Thắng lợi của VN, Đông Dương và sự phát
triển của xu hướng hòa bình, ổn định ở Đông-nam Á làm cho TQ thất bại trong
chính sách truyền thống lợi dụng và kiềm chế cuộc đấu tranh của 3 nước Đông
Dương, phá hoại và chia rẽ các nước Đông-nam Á vì lợi ích chiến lược của TQ.
Thắng lợi của VN kéo theo việc Liên Xô tăng
cường ảnh hưởng ở Đông Dương, Mỹ thất bại và bị đẩy ra khỏi lục địa Đông-nam Á
tạo một khoảng trống chiến lược lớn. Các chính quyền của các nước ASEAN lâm vào
khủng hoảng, trong khi TQ bị suy yếu nghiêm trọng sau cách mạng văn hoá và bè
lũ 4 tên.
Trong tình hình đó, từ 1978 TQ triển khai
mạnh mẽ kế hoạch 4 hiện đại [hóa] đi liền với sự chọn lựa “phương Tây hoá cả
gói” đã quyết định bước ngoặt chiến lược đối ngoại của TQ đi với Mỹ dẫn đến
đỉnh cao của câu kết Trung-Mỹ trong những năm 1978-1981. TQ triệt để lợi dụng
sự suy yếu của Mỹ và yêu cầu của Mỹ ngăn chặn Liên Xô và cách mạng thế giới,
khai thác mâu thuẫn Mỹ-Xô và giữa cách mạng với phản cách mạng, đưa ra khấu
hiệu chống “đại bá” và “tiểu bá” tự xưng là “NATO phương Đông” phát triển mạnh
quan hệ với Mỹ và phương Tây.
TQ cũng triệt để lợi dụng mối lo ngại của
các nước ASEAN trước việc Mỹ rút lui và nguy Cơ Liên Xô mở rộng ảnh hưởng ở
Đông-nam Á để lập mặt trận TQ-Mỹ-ASEAN-phương Tây chống Liên Xô, VN và cách
mạng thế giới. Nhằm thực hiện mục tiêu tranh thủ Mỹ và phương Tây phục vụ 4
hiện đại hoá đồng thời chống lại sự bao vây, kiềm chế của Liên Xô, TQ đã có
những bước đi rất quyết liệt về mặt đối ngoại, cắt viện trợ cho VN, Anbani
(1978), khuyến khích, hỗ trợ cho bọn Pol Pot tiến đánh VN, trực tiếp tiến hành
chiến tranh xâm lược chống VN tháng 2/1979, và lôi kéo Mỹ, ASEAN, phương Tây
bao vây cô lập VN, đối phó với ảnh hưởng ngày càng tăng của Liên Xô, VN trong
khu vực. Việc TQ chuyển từ cách mạng sang đi với Mỹ chống cách mạng, dùng vấn
đề CPC để chống Liên Xô và VN đánh dấu sự thay đổi lớn trong chiến lược của TQ
trong hơn 40 năm qua.
b) Về CPC, ngày
7/1/1979 khi ta giải phóng CPC mặc dù ta dùng cả hải-lục-không quân; dùng lính
dù nhảy xuống Siem Reap nhưng chủ yếu là lùa quân Pol Pot từ phía Đông sang
phía Tây, do đó cơ bản lực lượng Pol Pot không bị tiêu hao lớn.
Về mặt đối ngoại, ta phải đối phó với tình
hình rất khẩn trương. Ngày 6/1/1979, TQ cho máy bay đón Sihanouk sang Bắc Kinh
và cũng trong những ngày này Cảnh Tiêu, Hàn Niệm Long21 bí mật sang Bangkok gặp
Thủ tướng Kriangsak [Chomanan] bàn việc giúp Pol Pot ” đất thánh” và vận chuyển
vũ khí của TQ cho Pol Pot (tài liệu ta bắt được ở căn cứ Tà Sanh – Battambang).
HĐBA/LHQ họp ngày 10/1/1979 và ra dự thảo nghị quyết lên án VN xâm lược, đòi VN
rút quân; Liên Xô đã phủ quyết dự thảo nghị quyết này. Ngày 9/1/1979, Hội nghị
Ngoại trưởng các nước ASEAN ra tuyên bố kêu gọi rút ngay, rút hết quân nước
ngoài khỏi CPC. Cũng ngày 9/1/1979, Ngoại trưởng Mỹ Cyrus Vance nói: cuộc nói
chuyện giữa VN và Mỹ về bình thường hóa quan hệ đã đổ vỡ do cuộc xâm lăng của
VN vào CPC. Từ lúc này sức ép đòi ta rút quân ngày càng mạnh và cũng từ
30/6/1979 dòng người VN di tản ngày càng tăng vọt trong khi kinh tế trong nước
rất khó khăn làm xấu đi hình ảnh VN trên thế giới. Lập trường Cơ bản của chúng
ta về CPC lúc này là tuyên bố “tình hình CPC là không thể đảo ngược” và quyết
tâm “ăn cả” ở CPC. Tháng 7/1981, chúng ta tẩy chay không tham dự Hội nghị quốc
tế của Liên hợp quốc về CPC (ICK).
Trong nội địa CPC, sau giải phóng 7/1/1979,
ngoài việc bộ đội ta tiếp tục tiến công đánh vào 11 căn cứ lớn của Pol Pot,
nhiệm vụ khẩn cấp là phải cứu đói cho dân, lo tổ chức toà án kết tội Pol Pot
(8/1979) làm ngọn cờ chính trị cho chính quyền CPC, lo tổ chức bộ máy chính.
quyền từ Trung ơng đến địa phương, tổ chức in và phát hành đồng tiền trở lại.
Cần nói thêm rằng trong bối cảnh tình hình CPC lúc đó việc xây dựng Đảng và
chính quyền đều làm từ trên xuống, lập chính quyền tỉnh rồi mới đến huyện, xã;
phát triển đảng viên trong Bộ, Thứ trưởng trước rồi mới đến cán bộ… đây cũng là
nguyên nhân tại sao CPC không thể có Cơ sở vững chắc. Ngày 1/5/1981, ta giúp tổ
chức tổng tuyển cử bầu Quốc hội ở CPC; 26-29/5/1981, tổ chức Đại hội IV của
Đảng [Nhaan dân Cách mạng CPC] và công bố Hiến pháp mới. Có thể nói tất cả mọi hoạt
động của ta về đối ngoại và trên thực địa CPC lúc này là nhằm củng cố chính
quyền CPC, giữ nguyên trạng ở CPC.
Từ giữa năm 1979, một vấn đề nữa mà ta phải
đối phó là nhân việc dân CPC đói, các tổ chức quốc tế dùng chiêu bài “cứu trợ
quốc tê” để mùa mưa kéo dân CPC tị nạn sang biên giới Thái và mùa khô thì đẩy
trở lại vào nội địa CPC để giúp bảo tồn và cung cấp lương thực, thực phẩm,
thuốc men cho bọn Pol Pot. Tiếp theo Hội nghị 3 Ngoại trưởng VN, Lào, CPC lần
thứ nhất năm 1980 tại Phnom Penh nhân kỷ niệm một năm ngày giải phóng CPC (đ/c
Nguyễn Duy Trinh dự Hội nghị này; sau Hội nghị, đ/c Nguyễn Cơ Thạch trở thành
Bộ trưởng ngoại giao). Hội nghị 3 ngoại trưởng lần thứ 2 họp tháng 7/1980 ở
Vientiane là nhằm đối phó với vấn đề tị nạn, cứu trợ quốc tế và từ đấy hình
thành cuộc họp thường kỳ Ngoại trưởng ba nước.
Về Sihanouk, sau khi rời Phnom Penh
6/1/1979, Sihanouk được đưa đến New York để trình bày vấn dề CPC, đòi VN rút
quân; trong tâm trạng vừa thoát khỏi tù Pol Pot nhưng phải bảo vệ Pol Pot, ngày
14/1/1979, Sihanouk xin tị nạn chính trị ở Mỹ nhưng TQ đã thuyết phục Mỹ không
cho Sihanouk tị nạn. Trở về Bắc Kinh, Sihanouk 4 lần viết thư cho Thủ tướng
Phạm Văn Đồng (7, 23, 27/10/1979 và 11/11/1979), nội dung thư Sihanouk cám ơn
đã giải phóng CPC khỏi diệt chủng nhưng đề nghị được đàm phán với VN để khôi
phục chủ quyền CPC.
Ta không nhận và không trả lời [những] thư
đó. Trong cuộc họp báo ở La Havana nhân dịp Hội nghị cấp cao 6 của Phong trào
không liên kết (tháng 8/1979), Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói về Sihanouk như
sau: “Qest ce qui est Sihanouk? C’est ùn homme fini”. Tình hình đó là do lợi
ích của ta là giữ nguyên trạng ở CPC, còn những người lãnh đạo mới ở CPC rất sợ
uy tín và ảnh hưởng của Sihanouk nên kiên quyết không muốn ta tiếp xúc với
Sihanouk. Trong một cuộc gặp lãnh đạo ta năm 1979, để ngăn ta có thể có tiếp
xúc với Sihanouk, Pen Sovan nói: giống như tục ngữ CPC, Sihanouk như con chó
khi chui qua rào thì cụp đuôi, vượt qua rào nó sẽ vểnh đuôi trở lại.
c) Về quan hệ của ta với chính quyền CPC:
Cán bộ, chuyên gia “làm thay, làm thầy, làm
tớ”, còn những người lãnh đạo, cán bộ CPC “hưởng thụ từ lúc còn thơ, quan liêu
từ lúc bơ vơ mới về” lại sớm nảy sinh đầu óc hẹp hòi dân tộc. Điển hình là vụ
Chea Sim22 và Pen Sovan. Chea Sim là đại biểu Quốc hội của Pol Pot, được coi là
người mẫu mực của CPC Dân chủ và Chea Sim dẫn đầu đoàn ly khai chạy sang VN
1978 trong đoàn có Heng Somrin nhưng không được trọng dụng, được cử làm Bộ
trưởng nội vụ một thời gian ngắn lại chuyển sang làm Mặt trận, Quốc hội. Vốn mặc
cảm vì không được tin cậy nên Chea Sim tỏ ít nói, lầm lì và càng mặc cảm hơn
khi bị khám nhà. Ngày 10/3/1979 một chiếc ca nô cặp bến Phnom Penh, có 47
người, có vũ trang và cờ Pol Pot, nói về để liên hệ với Chea Sim; tối
12/3/1979, quân quản Phnom Penh đem xe tăng đến khám nhà Chea Sim, chụp ảnh tài
liệu, những người trong nhà và cho máy rà mìn tìm vũ khí quanh nhà Chea Sim.
Cuối tháng 3/1979, Hun Sen nói với anh Ngô Điền về sự kiện này như sau: Sao lại
khám nhà một đ/c Trung ương. Có địch mới làm như vậy. Nếu là tôi, tôi không cho
phép làm thế, tôi bắn cả người khám và bắn cả tôi luôn. Còn Pen Sovan, vốn là
trẻ mồ côi CPC do bộ đội ta nhặt được và được nuôi từ bé, trở thành đại uý quân
đội ta, và thành Tổng Bí thư nhưng sớm trở mặt chống lại ta và tháng 7- 8/1981
làm găng về vấn đề người Việt ở CPC và đòi cử đoàn của Trung ương Đảng CPC sang
đàm phán với Trung ương Đảng VN về vấn đề này. Trong nội bộ đảng CPC, Pen Sovan
độc quyền, không tôn trọng tập thể. Tháng 12/1981, BCT CPC khai trừ Pen Sovan,
nhờ ta bắt giam Pen Sovan ở Hà Nội và Heng Somrin trở thành Tổng Bí thư.
Đối với Bộ Ngoại giao, từ 3 đ/c chuyên gia
đầu năm 1979, tháng 9/1979 theo yêu cầu của Bộ Ngoại giao CPC ta đã cử sang 17
chuyên gia bố trí tới tất cả các Vụ của Bộ Ngoại giao CPC (như các đ/c Hoàng
Đình Cầu – trưởng đoàn, Ngô Quý Cận, Ngô Viết Lũy, Đặng Đức Khôi, Châu Phong,
Lê Đông, Trần Ngữ, Đỗ Ngọc Sơn, Nguyễn Huy Cẩm, Lê Quang (Tài vụ), Kim Lân
(Cục) v.v…). Tháng 3/1981, Pen Sovan và Hun Sen gặp đ/c Nguyễn Cơ Thạch
ở nhà khách góc đường Nguyễn Du ở Hà Nội có ý chê chuyên gia ta, cho rằng một
số việc CPC tự làm tốt hơn chuyên gia VN như về lễ tân, báo chí… và yêu cầu ta
rút chuyên gia khỏi Bộ Ngoại giao và chỉ cử một vài cố vấn giỏi. Theo yêu cầu
của CPC, ta rút chuyên gia khỏi Bộ Ngoại giao và cử 5 cố vấn sang CPC giúp Bộ
Ngoại giao CPC trong thời gian từ 1982 đến 1988 (các đ/c Vũ Toàn, Hoàng Đình
Cầu, Khang, Trần Ngữ, Đoàn Trần Cảnh/Ban Đối ngoại, Phạm Công Bai…).
Cần phải nói rằng Bộ Ngoại giao ta có sự
giúp đỡ rất to lớn đối với Bộ ngoại giao CPC, ngoài sự giúp đỡ trực tiếp rất tỉ
mỉ hàng ngày của đ/c Ngô Điền với cá nhân Hun Sen và Bộ Ngoại giao CPC, những
cuộc họp ba ngoại trưởng thường kỳ hoặc những dịp sang trao đổi tình hình với
những bài phát biểu chuẩn bị công phu của đ/c Nguyễn Cơ Thạch thật sự là sự bồi
dưỡng rất Cơ bản về đánh giá tình hình thế giới và khu vực cũng như phương pháp
luận trong việc xem xét xử lý các vấn đề đối ngoại và điều này có ảnh hưởng rất
lớn đến Hun Sen. Không những thế, năm 1985 ta còn giúp mở lớp bồi dưỡng kiến
thức ngoại giao cho CPC, các đ/c Vũ Khoan, Lê Mai, Nguyễn Phượng Vũ đã từng
sang CPC giới thiệu với lớp học này về chiến lược của Liên Xô, Mỹ, TQ.
2.2 Giai đoạn từ 1982-1986
a) Bối cảnh quốc tế:
Dưới tác động mạnh mẽ của cuộc chạy đua
toàn cầu về kinh tế và KHKT và do những khó khăn nội tại của mỗi nước, từ đầu
những năm 1980 cả ba nước Mỹ, Xô, Trung đã bắt đầu điều chỉnh chiến lược, tập
trung phát triển sức mạnh bên trong, giảm bớt tình trạng căng mỏng ra nhiều địa
bàn và nhiều mục tiêu, từ đó ở mức độ khác nhau buộc phải giảm bớt chạy đua vũ
trang, giảm cam kết ở bên ngoài, tránh đụng độ trực tiếp với nhau và tránh bị
sa lầy vào một cuộc xung đột quân sự kéo dài. Quan hệ 3 nước lớn đã vượt qua
thời kỳ đối đầu căng thẳng của giai đoạn trước, chuyện sang hình thái cải thiện
quan hệ từng đôi một. Xô- Mỹ đã đẩy nhanh việc cải thiện quan hệ (gặp gỡ cấp
cao Genève 1985, ký INF 12/1985), củng cố thế 2 cực. TQ tiếp tục duy trì quan
hệ với Mỹ trong khuôn khổ các thông cáo chung Trung-Mỹ từ 1972, đồng thời từng
bước đi vào bình thường hóa với Liên Xô (nối lại đàm phán Thứ trưởng từ 1982,
gặp gỡ 2 Ngoại trưởng tháng 9/1984, đón Phó Thủ tướng Liên Xô Arkhipov tháng
12/1984). Tuy nhiên, việc cải thiện từng cặp quan hệ các nước lớn chỉ đang ở
bước đầu.
b) Cuộc đấu tranh về vấn đề CPC trong giai đoạn này về Cơ bản vẫn nằm trong khung cảnh tập hợp lực lượng.cho
cuộc đối đầu giữa 2 phía, đồng thời xuất hiện nhân tố mới là các nước lớn bắt
đầu sử dụng vấn đề CPC để dàn xếp quan hệ với nhau.
Khi nối lại đám phán Trung-Xô tháng
10/1982, ngay từ đầu TQ nêu “3 trở ngại”, trong đó có vấn đề CPC, đồng thời
trao 5 điểm cho Liên Xô (VN tuyên bố rút hết quân và bắt đầu rút một bộ phận;
đàm phán bình thường hóa Việt-Trung; cải thiện quan hệ Trung-Xô; lập Chính phủ
liên hiệp ở CPC; bảo đảm quốc tế cho một nước CPC độc lập và không liên kết).
Đến 1/3/1983, TQ đưa ra công khai 5 điểm, tháng 6/1983, TBT Triệu Tử Dương nhắc
lại 5 điểm ở Quốc hội TQ, và 10/1983 TQ nhắc lại tại vòng 3 Xô-Trung. Lập
trường của TQ về vấn đề CPC lúc này là không chấp nhận được đối với ta. Trong
khi thương lượng với Liên Xô về CPC, TQ cương quyết bác bỏ đàm phán với ta,
dùng việc TQ cải thiện quan hệ với Liên Xô, các nước XHCN để ép ta và gây xung
đột lớn trên biên giới Việt-trung đầu năm 1984. Đi vào đàm phán với TQ từ tháng
10/1982, Liên Xô tiếp tục ủng hộ VN, CPC, chưa chịu bàn với TQ về 3 trở ngại.
Cùng với việc điều chỉnh quan hệ với TQ, Mỹ coi trọng hơn vị trí của ASEAN. phó
Tổng thống, Ngoại trưởng, Bộ trưởng quốc phòng, Tham mưu liên quân Mỹ lần lượt
thăm Đông-nam Á (1983-1984). TQ cùng các nước ASEAN thúc đẩy việc lập “Chính
phủ liên hiệp 3 phái” (6/1982) và Mỹ ủng hộ, và từ 1983 TQ bắt đầu đề cao vai
trò Sihanouk phù hợp với yêu cầu của Mỹ và ASEAN hơn.
Từ năm 1985, khi các nước lớn đẩy mạnh quá
trình cải thiện quan hệ từng cặp một, vấn đề CPC ngày càng trở thành một chủ đề
quan trọng và trực tiếp trong đàm phán tay đôi giữa 3 nước lớn.
Từ giữa năm 1984, thái độ của Liên Xô trên
vấn đề CPC đã bắt đầu thay đổi, Liên Xô thúc đẩy ta và CPC đi vào giải quyết
vấn đề CPC bằng chính trị. Tháng 6/1984, lần đầu tiên gợi ý ta tiếp xúc với
Sihanouk, đồng thời lấy vấn đề CPC làm một nội dung trong đàm phán tay đôi với
Mỹ và TQ. Tháng 5/1985 vấn đề CPC đã được đặt vào chương trình nghị sự cuộc đàm
phán cấp chuyên viên Xô-Mỹ bàn về các vấn đề khu vực. Từ vòng 9 đàm phán
Xô-Trung tháng 10/1986, Liên Xô bắt đầu nhận bàn với TQ về vấn đề CPC, nêu lên
khả năng sử dụng Khieu Samphan. Tháng 7/1986, TBT Gorbachov tuyên bố ở
Vladivostok nêu vấn đề CPC phải giải quyết giữa VN và TQ là 2 nước XHCN. Tháng
3/1987, Ngoại trưởng Liên Xô Shevardnadze thăm VN, CPC khuyên CPC nên đẩy mạnh
hoà hợp dân tộc. Tháng 6/1987, đ/c Nguyễn Văn Linh thăm Liên Xô, Liên Xô gợi ý
giải pháp về CPC theo công thức Afghanistan; sau chuyến đi này, đ/c Nguyễn Cơ
Thạch sang CPC (2/6/1987) thông báo cho lãnh đạo CPC và phân tích sự khác nhau
giữa CPC và Afghanistan… Tháng 7/1987, Gorbachov tuyên bố với báo Merdeka
(Indonesia) Liên Xô ủng hộ việc lập Chính phủ liên hiệp ở CPC giống như ở
Afghanistan; cuối 1987, Liên Xô lại gợi ý với ta về việc Hun Sen gặp Khieu
Samphan. Khác với trước, Mỹ tăng cường hoạt động về vấn đề CPC, từ tháng
5/1985, cùng với Liên Xô đưa vấn đề CPC vào danh mục các vấn đề khu vực nhưng
ưu tiên bàn về các khu vực khác quan trọng hơn đối với Mỹ, đồng thời Mỹ bắt đầu
viện trợ công khai cho 2 phái không cộng sản CPC nhằm giúp 2 phái này tăng
cường lực lượng, khẳng định vai trò của Mỹ trong việc giải quyết vấn đề CPC.
Tới tháng 9/1985 Mỹ cùng với Liên Xô đàm phán ở cấp Thứ trưởng về CPC và châu
Á- Thái Bình Dương. Qua 8 vòng đàm phán Xô-Trung, TQ kiên trì đòi lấy vấn đề
CPC làm một nội dung đàm phán về bình thường hóa quan hệ 2 nước, và trước bước
phát triển nhanh của quan hệ Xô-Mỹ, TQ đã giảm yêu cầu, cố vượt qua “trở ngại”
để thúc đẩy quan hệ Trung-Xô (tháng 4/1985, Đặng đặt vấn đề: nếu VN rút quân
khỏi CPC, Liên Xô có thể duy trì căn cứ Cam Ranh và tháng 9/1986, Đặng tuyên bố
sẵn sàng gặp Gorbachov nếu để giải quyết vấn đề CPC). Ngay trong khi sử dụng
vấn đề CPC để thúc đẩy quan hệ với Liên Xô, TQ vẫn rất coi trọng việc tranh thủ
Mỹ, phương Tây và ASEAN. Tháng 11/1986, Đặng tuyên bố một chính thể cộng sản
không phù hợp với CPC, đồng thời TQ không chịu nói chuyện với VN.
Trước triển vọng Xô-Mỹ, Xô-Trung dùng vấn
đề CPC để dàn xếp với nhau, ASEAN cũng điều chỉnh chính sách gia tăng đối thoại
với VN về vấn đề CPC, trong đó Indonesia đi mạnh hơn cả do Indonesia muốn đề
cao vai trò nước lớn trong khu vực, tạo thế đi vào bình thường hóa với TQ. Từ
cuối 1987, Thái Lan cũng bắt đầu tìm kiếm quan hệ với ta và CPC. Một nhân tố
không kém phần quan trọng là các nước Đông-nam Á cũng đi vào cuộc chạy đua về
kinh tế và KHKT, từ đầu những năm 1980 do giá sản phẩm sơ cấp giảm mạnh, nhiều
nước khó khăn lớn, phải điều chỉnh Cơ cấu để thích nghi với tình hình.
Nếu như trước đây các nước Tây Âu đứng về
phía ASEAN trong giải pháp cho vấn đề CPC thì nay đã tích cực tham gia, từ năm
1984 Pháp đã gợi ý tổ chức cuộc gặp Hun Sen-Sihanouk nhưng không thành do TQ
cản phá.
c) Từ 1982, với những chuyển biến mới trong tình hình
quốc tế và sau Đại hội V của Đảng,
chính sách của ta về CPC cũng từng bước điều chỉnh. Ngày 6/7/1982, Hội nghị 3
Ngoại trưởng VN, Lào CPC họp ở Vientiane tuyên bố đơn phương rút một bộ phận
quân đội VN ở CPC. Ngày 1 8/9/1982, lần đầu tiên Hun Sen tuyên bố: nếu những
người trong hàng ngũ Pol Pot tuyên bố ly khai chúng, tôn trọng Hiến pháp CHND
CPC thì sẽ được hưởng quyền công dân trong bầu cử theo Hiên pháp qui định và sẽ
mời người nước ngoài quan sát cuộc tổng tuyển cử tự do ở CPC.
Trong lúc này, ý định về việc phải rút quân
tình nguyện VN ở CPC về nước là một ý định rõ ràng tuy nhiên việc rút quân đó
phải trên Cơ sở giữ nguyên trạng ở CPC. Ngày 22/2/1983, Hội nghị cấp cao Đông
Dương ở thủ đô Vientiane đã ra tuyên bố về vấn dề quân tình nguyện VN ở CPC,
khẳng định hàng năm, một bộ phận quân đội VN sẽ rút quân tùy theo sự phát triển
của tình hình CPC và Tuyên bố chung của Hội nghị tăng cường hơn nữa quan hệ
đoàn kết đặc biệt giữa 3 nước, quyết định lập Ủy ban hợp tác kinh tế 3 nước và
Hội nghị Bộ trưởng ngoại giao 3 nước 6 tháng họp một lần là nằm trong Cơ chế
tăng cường hợp tác kinh tế-văn hóa-KHKT giữa 3 nước. Đ/c Lê Duẩn trong hội đàm
cấp cao ba nước đã phát biểu đại ý: chúng ta có SEV lớn ở Đông Âu còn ở
Đông-nam Á, 3 nước chúng ta hình thành một SEV nhỏ .
Tháng 2/1983, BCT Đảng Nhân dân cách mạng
(NDCM) CPC ra Nghị quyết đề ra 3 mục tiêu phấn đấu của cách mạng CPC: xây dựng
thực lực cách mạng; làm cho địch suy tàn; xây dựng đoàn kết VN-CPC, CPC-Lào.
Tháng 5/1983, BCT ta ra Nghị quyết 11 chỉ đạo các ngành, các tỉnh giúp CPC thực
hiện 3 mục tiêu nói trên.
Ngày 3/2/1983, đ/c Nguyễn Cơ Thạch cùng đ/c
Lê Đức Căng (Vụ trưởng Vụ châu Á 2), Trần Như Lịch (thư ký) đến thăm bí mật
CPC. Ngày 4/2/1983, đ/c Thạch làm việc với BCT CPC có mặt: Heng Somrin, Sai
Phuthong, Bouthong, Chao Si, Hun Sen, Chia Soth, Chea Sim. Phía ta có thêm đ/c
Lê Đức Anh và đ/c Ngô Điền.
Đ/c Lê Đức Anh nói: Từ 1979 đến nay, hàng
năm, tùy theo sự phát triển của tình hình CPC, sự suy yếu của địch mà một bộ
phận quân đội VN rút bớt. Năm 1983, đề nghị rút thêm Bộ tư lệnh Quân đoàn, 1 sư
đoàn và 5 trung đoàn trực thuộc binh đoàn. Từ 1981 ta rút không công khai, từ
1982 việc rút đó có kết hợp với tấn công ngoại giao và đã thu được kết quả tốt.
Lần rút này, đề nghị kết hợp tốt với đấu tranh ngoại giao. TBT Heng Somrin phát
biểu tán thành nhưng đề nghị VN tăng cường giúp quân đội CPC. Việc rút Quân
đoàn 4 (Binh đoàn Cửu Long), đợt rút quân lớn nhất cho đến lúc này, được tiến
hành vào tháng 5/1983, kết hợp với tuyên truyền đối ngoại, đã gây tiếng vang
lớn trên thế giới. Cũng lúc này trên chiến trường CPC là bọn Pol Pot giảm hoạt
động quân sự nhưng đẩy mạnh xây dựng chính quyền 2 mặt. Điển hình là vụ đánh
địch “ngầm” ở Siem Reap tháng
5/1983, sai về phương pháp, phương châm, đánh vào cán bộ CPC. Ban lãnh đạo
chuyên gia toàn CPC đã kiểm điểm và ta đã thi hành kỷ luật: cảnh cáo trong Ban
chấp hành Trung ương Đảng và rút về nước đ/c Bùi San (thường trực Ban Lãnh đạo
Tổng đoàn chuyên gia ở CPC), kỷ luật lưu Đảng và hạ cấp đ/c Hồ Quang Hoá từ
Thiếu tướng xuống Đại tá. Ngày 18-19/10/1983, nhân dự Hội nghị chủ nhiệm Tổng
cục chính trị 3 nước, đ/c Chu Huy Mân và Trần Xuân Bách thay mặt BCT ta xin lỗi
Bộ chính trị CPC về sự kiện Siem Reap và thông
báo quyết định kỷ luật của phía ta.
Ngày 15/6/1984, Đại sứ Ngô Điền gặp TBT
Heng Somrin thông báo việc Ngoại trưởng Pháp Claude Cheysson gửi thư cho Ngoại
trưởng Nguyễn Cơ Thạch đề nghị thu xếp cuộc gặp với Sihanouk nhưng VN không
chấp nhận, chỉ có thể cùng Pháp thu xếp cuộc gặp CHND CPC với Sihanouk. Heng
Somrin nói Sihanouk là kẻ thù trước mắt của CPC và là kẻ thù của 3 nước Đông
Dương.
Ngày 24/9/1984, đ/c Lê Đức Anh gặp Bộ chính
trị CPC tại Phnom Penh.
Đ/c Lê Đức Anh phát biểu đại ý: BCT VN hoàn
toàn ủng hộ 3 mục tiêu mà BCT ra nghị quyết tháng 2/1983 nhằm xây dựng lực
lượng cách mạng CPC. Qua thực hiện thấy CPC có nhiều tiến bộ. Cách mạng nước
nào là sự nghiệp của bản thân nhân dân nước đó. Cuối 1978, đầu 1979 do hoàn
cảnh rất đặc biệt của CPC, sự phản bội của chủ nghĩa bành trướng; nhân tố cách
mạng, nhân tố những người cách mạng chân chính CPC bị tàn sát do đó lực lượng
cách mạng VN phải tạo điều kiện cho nhân dân CPC đứng lên xây dựng lại lực
lượng cách mạng, tạo điều kiện cho những người cách mạng chân chính thoát khỏi
bàn tay giết người của Pol Pot.
Do hoàn cảnh đặc biệt đó, lúc đầu cách mạng
CPC phải do 2 lực lượng VN- CPC quyết định nhưng lực lượng quyết định là cách
mạng CPC, không ai có thể làm thay… BCT VN ủng hộ và sẽ giúp thực hiện 3 mục
tiêu. Sau khi thực hiện được 3 mục tiêu đó, lúc bấy giờ mới tính giải pháp
chính trị. Trong khi đẩy mạnh xây dựng thực lực cách mạng, hiểu bản chất kẻ
thù, chúng ta có thể vận dụng sách lược để phân hoá hàng ngũ kẻ thù, tranh thủ
sự đồng tình của quốc tế đặc biệt sách lược đó phải làm cho cách mạng mạnh lên.
Trên tinh thần đó BCT VN tán thành cuộc gặp gỡ CHND CPC với Sihanouk. Heng
Somrin và Hun Sen phát biểu nhấn ý thúc đẩy để gặp Sihanouk chỉ dể tìm hiểu chứ
chưa phải là để tìm giải pháp.
Cuối tháng 11 đầu tháng 12/1984, Hun Sen đi
thăm Thụy Điển và đi thăm Pháp để gặp Sihanouk theo sự sắp xếp của Ngoại trưởng
Pháp Claude Cheysson nhưng cuộc gặp không thành do TQ phá. Hun Sen chỉ gặp
người bà con tên là Hun Yendi có quan hệ mật thiết với In Tam, nguyên Chủ tịch
Quốc hội thời Lon Nol và từ đó Hun Sen thiết lập được quan hệ với In Tam.
Ngày 4/12/1984, anh Trần Xuân Bách gặp tay
đôi với Heng Somrin và tôi đi dịch. Anh Bách thông báo Thủ tướng Chan Sy ốm
phải điều trị lâu dài ở Liên Xô do đó CPC nên cử Quyền Thủ tướng. Anh Bách nói
Chia Soth và Buthong bận quá nên để Hun Sen làm Quyền Thủ tướng. Heng Somrin
nói Hun Sen có khả năng hơn, giải quyết việc nhanh hơn còn Chia Soth khi bận
việc hay ngang ngạnh và hay quên. Ít lâu sau đó, Chan Sy23 chết vì ung thư và
Hun Sen trở thành thủ tướng từ đó.
Năm 1984, ta và CPC tổng kết thành tựu 5
năm kể từ 1979), CPC rất phấn khởi, tự tin. Cuối năm 1984 đầu 1985, mặc dù rất
gian khổ và chịu nhiều hy sinh, quân đội VN mở chiến dịch mùa khô tấn công đánh
chiếm toàn bộ các căn cứ của cả 3 phái CPC phản động trên toàn bộ tuyến biên
giới CPC-Thái Lan; đánh chiếm đến đâu ta xây dựng công trình kiên cố, rào lại
toàn bộ biên giới và đưa lực lượng CPC chốt giữ – Lực lượng CPC này có tên gọi
là A.3.
Trên cơ sở thắng lợi lớn về quân sự đó, Hội
nghị 3 Ngoại trưởng lần thứ 11 tại Phnom Penh 16/8/1985 đã ra tuyên bố nêu nội
dung mạnh mẽ nhất về giải pháp chính trị :
- VN sẽ đơn phương rút hết quân vào năm
1990.
- CHND CPC sẵn sàng nói chuyện với cá nhân
và các nhóm Khmer đối lập bàn về vấn đề hoà hợp dân tộc trên Cơ sở loại trừ bọn
diệt chủng Pol Pot.
Tuy nhiên, những cố gắng của ta về đàm phán
với TQ, đàm phán về CPC vẫn bế tắc, TQ vẫn giữ đòi hỏi cao về vấn đề CPC. Trước
Đại hội VI, BCT họp ngày 12/6/1986 đã thảo luận và ngày 8/7/1986 đã ra Nghị
quyết 32 về tình hình thế giới và chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta,
đánh dấu bước ngoặt trong đấu tranh của ta về CPC và quan hệ với TQ.
Nghị quyết 32 nhận định: “Trong cuộc đấu
tranh hiện nay của nhân dân ta, đế quốc Mỹ là kẻ thù lâu dài và Cơ bản, bá
quyền TQ là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm. Nhưng trong bối cảnh hiện nay, TQ
lại là đối tượng mà Liên Xô, các nước XHCN và lực lượng tiến bộ trên thê giới
đang tranh thủ đồng thời có đấu tranh”… ” Trong 10 năm qua, chúng ta giành được
những thắng lợi lớn trên mặt trận đối ngoại, đồng thời cũng có một số khuyết
điểm và thiếu sót“.
Nghị quyết đề ra nhiệm vụ đối ngoại trong
tình hình mới và chủ trương: “Ta phải chủ động tạo ra thế ổn định để tập
trung vào xây dựng kinh tế“. Nghị quyết nhận định, do thuận lợi trên
thế giới và thắng lợi của cuộc đấu tranh của ta “đang mở ra khả năng mới cho
phép chúng ta chủ động chuyển sang một giai đoạn đấu tranh mới dưới hình thức
cùng tồn tại hòa bình giữa 3 nước Đông Dương với TQ, với các nước ASEAN, với đế
quốc Mỹ, xây dựng Đông-nam Á thành một khu vực hòa bình, ổn định và hợp tác,
tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho việc xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc“.
Tình hình CPC đang có thuận lợi, CPC lớn mạnh và có chỗ dựa là VN, Lào; …”tuy
nhiên sự nghiệp cách mạng CPC phải do nhân dân CPC quyết định“.
Nghị quyết 32 chủ trương: “Để giải quyết
hòa bình vấn đề CPC và Đông- nam Á, chúng ta cần phải đạt được một sự thoả
thuận của các bên có liên quan trực tiếp ở Đông-nam Á, đồng thời chúng ta có
thể và cần ra sức lợi dụng mâu thuẫn giữa bọn đế quốc và bá quyền để đạt một
giải pháp có lợi nhất cho 3 nước Đông Dương. Một giải pháp về CPC phải bảo đảm
giữ vững thành quả cách mạng CPC và cách mạng CPC phải tiến lên, tăng cường
khối liên minh giữa 3 nước với nhau và giữa 3 nước với Liên Xô…” ...“Ta
cần tranh thủ Liên Xô ủng hộ một giải pháp về CPC có lợi cho cách mạng 3 nước
Đông Dương. Mặt khác, một giải pháp về CPC mà không tính đến vai trò của TQ là
không phù hợp với tình hình thực tế cuộc đấu tranh ở CPC và trong khu vực
Đông-nam Á. Đồng thời chúng ta phải tính đến thực tế và kinh nghiệm của ông cha
ta. Chúng ta kiên quyết chống chính sách bá quyền của. TQ đối với ta, đồng thời
tranh thủ cùng tồn tại hòa bình với TQ ” ...“ta có thể vận dụng
sách lược linh hoạt với TQ để kéo TQ đi vào một giải pháp cùng tồn tại hòa
bình. Làm được như vậy chúng ta chủ động tạo được thế mạnh và vững chắc cho
cách mạng 3 nước tiếp tục tiến lên.”
(Còn tiếp)
—
Ghi chú:
17 Mr. Han Nianlong, born in Renhuai County of Guizhou
Province in May 1910, served as vice minister of Foreign Affairs of the
People’s Republic ofChinafrom April 1964 to April 1982.
18 Nay là Chủ tịch Đảng Nhân dân CPC (PCC).
19 Chủ tịch Hội Đồng Bộ trưởng (thủ tướng) nước CHND
Campuchia từ tháng 12.1981 cho tới ngày 31.12.1984, khi công bố tin mất tại
Matxkva.
No comments:
Post a Comment