BÊN
THẮNG CUỘC - HUY ĐỨC
TẬP I : GIẢI PHÓNG
PHẦN
I : MIỀN NAM
Chương I : Ba
Mươi Tháng Tư
Diễn biến quân sự và
chính trị trong giai đoạn kết thúc cuộc chiến và những gì xảy ra trong dinh Độc
Lập trong ngày 30-4 (Đi từ bưng biền/ Xuân Lộc/ Tướng Big Minh/ Trại Davis/
Nguyễn Hữu Hạnh/ Sài Gòn trong vòng vây/ Xe tăng 390/ Đầu hàng/ Tuẫn tiết)
*
*
Ba
mươi tháng Tư năm 1975 là ngày kết thúc chiến tranh Việt Nam. Ngày mà những
người anh em miền Nam buông súng đầu hàng miền Bắc. Ngày chấm dứt hơn hai mươi
năm “da thịt tàn nhau, vạ trong tường vách”. Nhưng, không phải cứ súng ống vứt
đi là sẽ có hòa bình.
Đi từ bưng biền
Sáng
sớm ngày 30-4-1975, “cánh” của ông Võ Văn Kiệt về tới một khu “đám lá tối trời”
thuộc huyện Bình Chánh. Hai mươi hai ngày trước, ông Lê Đức Thọ vào Trung ương
Cục, sau đó, công bố quyết định thành lập Bộ Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh6,
đồng thời trao quyết định cử ông Võ Văn Kiệt làm bí thư Đảng ủy Đặc biệt Ủy ban
Quân quản Sài Gòn-Gia Định, cử ông Lê Đức Anh làm phó bí thư kiêm chủ tịch Ủy
ban Quân quản, và ông Mười Cúc Nguyễn Văn Linh đảm trách lực lượng nổi dậy phối
hợp với quân chủ lực.
Từ
R, căn cứ Trung ương Cục ở huyện Lộc Ninh, ông Kiệt cùng một bộ phận phục vụ
gọn, khoảng hai trung đội, chạy xe Honda 67 bọc qua phía Campuchia, tới cửa
biên giới Mỏ Vẹt, Long An thì bỏ xe lại, đi bộ. Ông Kiệt không lúc nào rời
chiếc radio ba làn sóng hiệu JVC của Nhật. Đài Hà Nội lúc đó gần như liên tục
phát Bão Nổi Lên Rồi, một bài hát mà nhịp điệu thì hối hả, lời lẽ thì thôi
thúc: “Từ Trị Thiên băng qua Tây Nguyên đi tới bưng biền lòng người bừng bừng,
cùng tiến lên thời cơ đã đến rồi”.
Thời
cơ đã đến! Anh em phục vụ quan sát thủ trưởng, trong lòng cảm thấy lần này chắc
ăn. Nhưng thủ trưởng vẫn im lặng. Ngày 27-4, đoàn vượt qua sông Vàm Cỏ Đông,
tới xã Mỹ Hạnh, huyện Đức Hòa, gặp cánh ông Mai Chí Thọ đã về trước ém quân ở
đó. Ông Năm Xuân Mai Chí Thọ, phó bí thư Khu uỷ Sài Gòn-Gia Định vào thời điểm
đó, là người thông thạo các đầu mối hoạt động nội thành. Hai đoàn bắt đầu nhập
lại làm một. Ít ai nghĩ rồi những người đàn ông mặc đồ bà ba đen, đi dép râu,
mặt mũi khắc khổ, đang xắn quần lội ruộng đó, chỉ vài ngày nữa sẽ nắm quyền
lãnh đạo Sài Gòn – Hòn Ngọc Viễn Đông.
Sáng
hôm sau, khi sương sớm còn phủ trắng, từ nơi tạm dừng nhìn qua phía bên kia
cánh đồng, cánh ông Kiệt nhìn thấy lố nhố xe pháo. Lúc đầu có người tưởng là xe
tăng “địch”, tới khi sương mù bớt đi mới nhận ra: “Cơ man tăng. Tăng mình!”.
Ông Kiệt viết thư, niêm kín, ra lệnh cho thư ký riêng là ông Phạm Văn Hùng (Ba
Hùng), đi kiếm Trung tướng Lê Đức Anh. Tướng Lê Đức Anh tới lúc ấy vẫn là phó
tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh, được giao chỉ huy Đoàn 232, một lực lượng tương
đương quân đoàn, tiến vô Sài Gòn ở hướng Tây Nam. Dọc đường Ba Hùng đi, đạn
pháo nằm la liệt trên các bờ ruộng, bờ kênh; dân công rầm rập, bộ đội, xe tăng
lớp lớp. Tướng Lê Đức Anh viết thư trả lời “Anh Sáu Dân” (bí danh của ông
Kiệt), rồi cũng niêm kín, đưa Ba Hùng cầm về. Sau này ông Phạm Văn Hùng mới
biết đó là thông tin về giờ G. Giờ G, ngày N, tức 00 giờ 00 phút ngày
29-4-1975, là giờ quy định cho tất cả năm cánh quân của quân Giải phóng đồng
loạt nổ súng tấn công vào Sài Gòn.
Trưa
29-4, đoàn lội bưng, băng vô vườn thơm Tân Nhựt, Bình Chánh, hạ trại nấu cơm.
Bếp rơm có khói, một chiếc trực thăng trờ tới, lia vài băng đạn vu vơ. Cách đó
không xa lắm là đồn Lý Văn Mạnh, nhưng lính trong đồn giờ đó đã không còn dám
ra ngoài. Đêm ấy, ở lại Tân Nhựt, Ba Hùng mắc võng bên cạnh ông Kiệt, nằm nghe
tiếng pháo, sau biết là “ta pháo kích vô Tân Sơn Nhất”, hai thầy trò trăn trở
không làm sao ngủ được. Sáng 30-4, ông Kiệt, trong khi trao đổi tình hình với
ông Mai Chí Thọ, không quên phân công người theo dõi đài phát thanh và cho phép
anh em nấu ăn. Từ đêm trước, chưa ai có hột cơm nào vô bụng.
Tới
khoảng 9 giờ 30 phút sáng, Đài Sài Gòn im lặng rất lạ, rồi tiếng phát thanh
viên: “Mời đồng bào nghe tuyên bố của Tổng thống”. Mọi người xúm lại quanh
chiếc radio theo dõi phát biểu của Tổng thống Dương Văn Minh: “Đường lối, chủ
trương của chúng tôi là hoà giải và hoà hợp dân tộc để cứu sinh mạng đồng bào.
Tôi tin tưởng sâu xa vào sự hoà giải giữa người Việt Nam để khỏi phí phạm xương
máu người Việt Nam. Vì lẽ đó, tôi yêu cầu tất cả các anh em chiến sỹ Cộng hoà
hãy bình tĩnh, ngưng nổ súng, và ở đâu ở đó. Chúng tôi cũng yêu cầu anh em
chiến sỹ Chánh phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam ngưng nổ súng.
Chúng tôi ở đây chờ gặp Chánh phủ Lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam để cùng
nhau thảo luận về lễ bàn giao chánh quyền trong vòng trật tự, tránh đổ máu vô
ích của đồng bào”.
Lời
Tướng Minh vừa dứt, Võ Văn Kiệt ra lệnh: “Giản chính đồ đạc. Đi!”. Đoàn người
lúc đó chẳng kịp ăn uống mà vẫn no tới tận cổ, băng đồng ra lộ, đi về hướng Phú
Lâm, cửa ngõ phía Tây Thành phố. Dọc đường, lính Sài Gòn bắt đầu trút bỏ quân
phục, súng ống, binh khí vất la liệt. Anh em bảo vệ lúc đầu còn khệ nệ xách,
sau thấy lếch thếch quá, lại vứt đi. Có nơi lính Sài Gòn ra hàng cả tiểu đoàn.
Quân Giải phóng chỉ kịp giải thích chính sách rồi ai ở đâu về đó. Sự tan rã của
chế độ Sài Gòn diễn ra gấp gáp khiến ông Kiệt quá sốt ruột. Ông gọi Tư Thạch và
Chín Anh, hai người cận vệ vốn là dân thành phố, đến, ra lệnh: “Hai đồng chí
tìm cách kiếm xe, nhanh chóng đưa Đại quân vô Sài Gòn!”.
Chín
Anh cùng Tư Thạch ra lộ, gặp hai người bận đồ công nhân, chạy xe máy từ phía
Sài Gòn ra. Chín Anh nói: “Tụi tôi là Giải phóng. Nhờ mấy anh quay lại, đưa tụi
tôi vô Sài Gòn”. Hai người này sốt sắng: “Mời mấy anh”. Chín Anh tính đi thẳng
vô Phú Lâm nhưng mới tới xa lộ vành đai thì thấy một chiếc xe tải quân sự hiệu
GMC mới cáu đậu sẵn bên lề đường. Trên xe không biết lực lượng nào đã cắm sẵn
một lá cờ Giải phóng. Chín Anh hỏi: “Mấy anh biết lái xe không?”. Một người nói
liền: “Tôi là tài xế nè”. Chín Anh cho kiểm tra lại xe, thấy xe tốt, kêu hai
“chiến sỹ” vừa được “trưng dụng” đưa xe máy vô nhà dân cạnh đường gửi, rồi lái
chiếc xe quay lại.
“Đại
quân” lúc này vẫn đi bộ theo Lộ 10, gặp xe mừng quá, nhanh chóng leo lên. Chín
Anh ngồi bên cạnh tài xế, ông Kiệt và ông Năm Xuân ngồi kế bên. Bốn, năm anh em
khác bám hai bên thùng xe để bảo vệ. Một tốp thanh niên thấy chiếc GMC cắm cờ Giải
phóng chạy vô phố, cứ thế phóng xe máy theo. Dọc đường, chỗ nào cũng có lính
Việt Nam Cộng hoà cởi áo, cởi giày, chạy. Người dân gom vô, lấy chỗ cho chiếc
xe quân sự Mỹ chở một trong những nhà lãnh đạo “Việt cộng” đầu tiên tiến vào
Sài Gòn.
Ông
Võ Văn Kiệt, ông Mai Chí Thọ và những người trên chiếc xe GMC hôm đó, có người
đã suốt ba mươi năm mắc võng nằm rừng. Giờ ngắm phố xá chạy vùn vụt bên cửa xe,
mắt họ cay xè vì sung sướng. Không ai trong số họ, sau đó, có thể diễn đạt lại
được cảm giác khi ấy của mình, nhưng cuộc đời họ rồi sẽ khó lòng có lại một
niềm vui nào lớn lao hơn niềm vui trong cái ngày 30-4 đó.
Xuân Lộc
Trong
khoảng thời gian cánh ông Võ Văn Kiệt tìm cách di chuyển vô nội thành, chính
những chiếc tăng của Lữ đoàn 203, Quân đoàn II đã viết nốt những dòng cuối cùng
của một trang sử.
Kế
hoạch “bao vây chiến lược Sài Gòn” bắt đầu từ ngày N. Lúc đầu, theo Tướng Trần
Văn Trà, ở phía Tây, Đoàn 232 do Tướng Lê Đức Anh làm tư lệnh cũng gặp không ít
khó khăn; phía Đông, đêm ngày 9 rạng sáng ngày 10-4, Quân đoàn IV gồm hai sư
đoàn tấn công thị xã Xuân Lộc, tỉnh Long Khánh. Cuộc tấn công đã chọc thủng
tuyến phòng ngự thị xã bằng nhiều mũi, nhanh chóng phát triển vào trung tâm.
Tuy nhiên, sau khi cắm cờ trên dinh tỉnh trưởng và làm chủ một loạt các căn cứ
khác, ngày 10-4, một lữ đoàn dù của Việt Nam Cộng hòa được trực thăng vận đưa
tới thị xã để chi viện gấp và “giữ tinh thần cho Sư đoàn 18”.
Cho
đến ngày 15-4, gần hết tăng thiết giáp của Quân đoàn III và một lực lượng tương
đương một sư đoàn thuộc quân trù bị dù và thủy quân lục chiến của Sài Gòn đã
được điều về. Trận Xuân Lộc được được coi là khốc liệt nhất trong toàn chiến
dịch. Quân đội Sài Gòn đã ném xuống đây hai loại bom có khả năng sát thương
hàng loạt: Daisy Cutler và CBU7. “Mất Xuân Lộc là mất Sài Gòn”, mọi sức mạnh có
thể đều được Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu sử dụng.
Hãng
UPI (Mỹ), ngày 12-4, cho rằng, Xuân Lộc được chọn làm nơi thí nghiệm khả năng
chiến đấu của quân Nam Việt Nam. Khi quân Giải phóng gặp khó khăn, thương vong
rất lớn ở Xuân Lộc, báo chí Sài Gòn đánh giá khả năng chiến đấu của Quân lực
Việt Nam Cộng hòa đã hồi phục, và còn đủ mạnh để giữ vững chế độ.
Theo
Tướng Trần Văn Trà, tình hình đó khiến cho “các đồng chí Phạm Hùng, Văn Tiến
Dũng và cả anh Lê ĐứcThọ rất lo lắng”. Tướng Trà viết: “Trận đánh quá ác liệt,
e rằng các đơn vị ta bị thương vong nặng trong thời điểm này không lợi. Vì vậy
các anh gợi ý có thể cho anh em rút ra khỏi thị xã… tôi đề nghị cho tôi đến tận
nơi, nắm rõ tình hình cụ thể tại chỗ và cùng anh em nghiên cứu cách đánh. Các
anh đều đồng ý”8. Chiều 11-4, Tướng Trà đến chỉ huy sở của Quân đoàn IV đóng
trên bờ sông La Ngà. Sau khi nghe ý kiến của các tướng chỉ huy ở đây, Tướng Trà
kết luận: “Xuân Lộc là điểm then chốt, hết sức quan trọng trong tuyến phòng ngự,
nên địch đã tập trung nhiều lực lượng cố giữ. Hiện nay lực lượng chúng đã chiếm
ưu thế so với ta. Ta cũng không còn giữ được yếu tố bất ngờ. Vì vậy tiếp tục
đánh vào Xuân Lộc là không lợi… Nếu ta chiếm ngã ba Dầu Giây và giữ vững luôn…
thì Xuân Lộc tự dưng mất hết tác dụng vì bị đặt ra ngoài tuyến phòng thủ. Biên
Hòa thì sẽ lập tức bị uy hiếp”9. Tất cả nhất trí với phương án tác chiến này.
Để
chuẩn bị cho chiến dịch được đặt tên là Hồ Chí Minh, Quân đoàn I được điều từ
miền Bắc vào; Quân đoàn II thì vừa hành quân vừa tác chiến dọc theo bờ biển.
Tướng Trà viết: “Có đơn vị vào tới, nhưng đạn dược chưa tới, có xe tăng đến nơi
nhưng xăng dầu hết, đạn pháo chỉ còn một hai viên, cần phải bổ sung chấn chỉnh.
Cán
bộ tham mưu và hậu cần vùi đầu với công việc, mỗi ngày làm việc gấp mấy lần
ngày thường. Nhưng tinh thần phơi phới”10.
Ngày
18-4, ông Lê Đức Thọ, đại diện Bộ Chính trị đã cùng Bộ Chỉ huy chiến dịch duyệt
lại kế hoạch lần cuối. Trước đó, trong Điện số 07, ông Lê Duẩn viết: “Tôi đã
bàn với anh Văn (Võ Nguyên Giáp), nhận thấy cần chuẩn bị thêm mấy ngày nữa, đến
khi phần lớn lực lượng của Quân đoàn III và Quân đoàn I (cả bộ binh và binh khí
kỹ thuật) đến nơi sẽ bắt đầu cuộc tấn công lớn, chưa nên làm bây giờ”11. Rạng
sáng ngày 21-4, các tuyến phòng thủ cuối cùng của chính quyền Sài Gòn tại Xuân
Lộc sụp đổ. Bốn tiểu đoàn còn sống sót của Sư đoàn 18 quân đội Việt Nam Cộng
hòa với Tướng Tư lệnh Lê Minh Đảo đã phải thoát khỏi thành phố đổ nát ấy bằng
máy bay lên thẳng.
Đầu
tháng 4-1975, trong một cuộc họp báo tại Nhà Trắng, khi các phóng viên đặt vấn
đề loại bỏ Nguyễn Văn Thiệu mở đường cho một chính phủ “có thể nói chuyện
với Hà Nội” lên cầm quyền, Tổng thống Mỹ Gerald Ford nói: “Tôi không
tin là tôi có quyền ra lệnh cho một nguyên thủ quốc gia được dân bầu rời
nhiệm sở”12. Tuy nhiên, hơn hai tuần sau, vào ngày 20-4-1975, cả Tổng thống
Gerald Ford và Ngoại trưởng Henry Kissinger đều đồng ý để đại sứ Mỹ tại Sài Gòn
Graham Martin nói bóng gió với ông Thiệu về việc nên “cân nhắc từ chức”.
Nhà
Trắng hy vọng với việc từ chức của ông Thiệu, Liên Xô có thể giúp nói với miền
Bắc đàm phán để có “thêm vài ngày sơ tán những người Việt Nam có liên hệ với
Mỹ”. “Với một điệu bộ khá lạnh lùng, Thiệu trả lời rằng ông sẽ làm tất cả những
gì tốt đẹp cho đất nước của ông”13. Tuy nhiên, vào buổi trưa hôm sau, ngày
21-4- 1975, khi không còn Xuân Lộc, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu triệu Thủ tướng
Trần Thiện Khiêm và Phó Tổng thống Trần Văn Hương đến văn phòng, thông báo là
ông từ chức. Chiều tối hôm đó, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu lên truyền hình công
khai quyết định của mình và giao quyền cho Phó Tổng thống Trần Văn Hương.
Lúc
3 giờ 30 phút chiều ngày 22-4-1975, từ Hà Nội, một bức điện ký tên Bí thư Thứ
nhất Lê Duẩn được chuyển vào chiến trường: “Các anh ra chỉ thị ngay cho các
hướng hành động kịp thời, chú trọng kết hợp tấn công quân sự và nổi dậy của
quần chúng, sự hợp đồng giữa các hướng cũng như giữa tiến công và nổi dậy sẽ
thực hiện trong quá trình hành động. Nắm vững thời cơ lớn, chúng ta nhất định
giành toàn thắng”14.
Ngày
26-4-75, Tướng Văn Tiến Dũng, tư lệnh Chiến dịch, và Tướng Trần Văn Trà di
chuyển xuống Sở Chỉ huy tiền phương; hai ngày sau, Lê Đức Thọ và Phạm Hùng tới.
Đến lúc ấy thì tình hình đã ngã ngũ. Sài Gòn hoàn toàn bị vây hãm. Phía
Tây, Sư đoàn 5 của Đoàn 232 bắt đầu tấn công vào Sư đoàn 22, từ Tân An lên
đến Cầu Voi; Trung đoàn 16 đánh chiếm cầu Bình Điền và cầu An Lạc; hai Trung
đoàn đặc công 115 và 117 chiếm Phú Lâm. Xa hơn về phía tây, Lộ 4 bị cắt ở Cai
Lậy.
Cũng
từ ngày 26-4, Sư đoàn 8 Quân khu VIII đã cắt hoàn toàn Lộ 4 đoạn từ ngã ba
Trung Lương lên giáp Tân An. Lực lượng Quân khu IX cũng khống chế được đoạn Cái
Vồn-Ba Càng. Con đường chiến lược độc nhất xuyên suốt đồng bằng Cửu Long bị băm
nát. Về phía Đông, Quân đoàn II ngày 26-4 cũng nổ súng tấn công căn cứ huấn
luyện thiết giáp Nước Trong, đánh chi khu Long Thành; ngày 27-4 chiếm thị xã Bà
Rịa. Đường 15 bị cắt đứt hoàn toàn. Cùng đêm 26-4, Trung đoàn đặc công 116 bắt
đầu đánh cầu xa lộ Đồng Nai; Trung đoàn 10 đặc công đánh từ Phước Khánh đến ngã
ba Đồng Tranh, khóa chặt đường sông. Sân bay Biên Hòa bị bắn phá bằng pháo 130
ly. Ngày 23-4, sân bay Biên Hòa bị đóng cửa cùng lúc với tòa lãnh sự Mỹ ở
thị xã Biên Hòa. Sài Gòn chỉ còn kiểm soát hai sân bay cuối cùng: Lộ Tẻ (Cần
Thơ) và Tân Sơn Nhất”15.
Tướng
Big Minh
Đầu
tháng 4-1975, có những thông tin cho thấy người Mỹ quan tâm tới “phương án Big
Minh”. Tài liệu của CIA nói là ngày 2-4-1975, trùm CIA tại Sài Gòn Thomas
Polgar gửi một bức điện về Tổng Hành dinh đề xuất lật Thiệu để đưa Dương Văn
Minh lên thay, hy vọng thành lập được một chính phủ liên hiệp “có khả năng làm
chậm lại cuộc xâm lược của Bắc Việt”16. Theo Polgar, trưởng đoàn Hungary trong
Ủy ban Kiểm soát Bốn bên nói Hà Nội cho biết nếu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu bị
loại thì Bắc Việt sẵn sàng thương thuyết. Tại Dinh Hoa Lan (vốn là một dinh thự
của Đức Từ Cung ở số 3 Trần Quý Cáp, nay là Võ Văn Tần, được Tổng thống Ngô
Đình Diệm ban tặng cho Tướng Minh), nhóm ông Minh bắt đầu thảo luận về khả năng
chấp chính.
Đại
tướng Dương Văn Minh17 sinh năm 1916 tại Mỹ Tho. Cha ông, Đốc phủ sứ Dương Văn
Huề, có bảy người con. Em kế ông Minh, Dương Thanh Nhựt, “tập kết” ra Bắc năm
1954. Ông Minh, vốn là một sỹ quan trong quân đội Pháp, sau Cách mạng tháng Tám
đã từng tham gia kháng Pháp. Từ năm 1960, Xứ ủy Nam Bộ, khi ấy được lãnh đạo
bởi ông Mười Cúc Nguyễn Văn Linh, đã yêu cầu Cục trưởng Cục Địch vận Võ
Văn Thời giao nhiệm vụ cho Dương Thanh Nhựt về Nam để tiếp cận với Dương Văn
Minh. Tháng 3-1961, Dương Thanh Nhựt, bấy giờ mang bí danh Mười Ty, về đến miền
Nam, và tới tháng 8-1962 thì móc nối được với cậu ruột và vợ là Sử Thị
Hương.
Ngày
1-11-1963, Dương Văn Minh, người hùng của Ngô Đình Diệm, đã nhân danh chủ tịch
Hội đồng Quân nhân Cách mạng phát lệnh đảo chính tổng thống.
Năm
1967, khi Dương Văn Minh đi Pháp, ông Mười Cúc cũng đã cử Mười Ty qua Paris;
trước đó, Mười Ty cũng được đưa qua Hồng Kông tìm Dương Văn Minh, nhưng cả hai
lần đều không gặp18.
Giữa
tháng 4-1975, tại một nhà hàng đặc sản của Tướng Mai Hữu Xuân nằm trong rừng
cao su trên xa lộ Đại Hàn có tên là Đường Sơn Quán, ông Dương Văn Minh tổ
chức họp mặt với đông đủ báo giới trong và ngoài nước, tuyên bố “sẵn sàng thay
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu như một giải pháp tình huống để tìm cơ hội hòa bình
cho miền Nam”. Sau cuộc họp báo, ngày 17-4, Đại sứ Pháp Jean Marie Mérillon đã
đến Dinh Hoa Lan bằng xe có cắm quốc kỳ Pháp. Hành động của ông Đại sứ được báo
chí Sài Gòn bình luận là cố tình vi phạm nguyên tắc ngoại giao nhằm công khai
lập trường của Pháp đối với tình hình chính trị miền Nam.
Sau
khi từ chức, ngày 21-4-1975, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và gia đình vẫn sống
trong Dinh Độc Lập. Phe đối lập và Đài Hà Nội liền gọi Sài Gòn là “Chính
phủ Thiệu mà không có Thiệu”. Cả Tổng thống tạm quyền Trần Văn Hương và
Tướng Big Minh đều đánh tiếng để Đại sứ Martin thu xếp đưa ông Thiệu đi. Về mặt
công khai, chuyến đi của ông Nguyễn Văn Thiệu và Đại tướng Trần Thiện Khiêm là
“công cán”.
Buổi
chiều ngày 25-4-1975, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu với sự tháp tùng của một sỹ
quan tùy viên, Trung tá Tôn Thất Ái Chiêu, đi một vòng “hậu dinh”, nơi
ở của gia đình ông, và chỉ ra yêu cầu chuẩn bị đồ đạc cá nhân để đưa về tư
gia. Sau đó, ông đến văn phòng tổng thống. Sỹ quan tùy viên của ông Hương nói
“Tổng thống đang họp”. Ông Thiệu đưa cho viên sỹ quan một phong thư, dặn khi
nào Tổng thống họp xong thì trình.
Theo
ông Nguyễn Đức Từ, một trợ tá và là em rể họ của ông Thiệu, bức thư viết: “Thưa
cụ, theo chỉ thị của cụ, tôi và Đại tướng Trần Thiện Khiêm đi giải độc tại các
quốc gia bạn, cùng với đoàn tùy tùng gồm: Đại tá Đức, Đại tá Thiết, Đại tá
Diên, Trung tá Chiêu…”. Sau đó, ông Nguyễn Văn Thiệu cùng tùy tùng đến nhà
Tướng Khiêm ở Bộ Tổng Tham mưu; tại đây, một tiệc nhẹ đã dọn sẵn. Ăn xong,
Tướng Nguyễn Văn Thiệu cùng Trung tá Chiêu đi bộ về nhà, cũng trong khuôn viên
Bộ Tổng. Khi họ quay lại thì bàn ăn nhà Tướng Khiêm đã được dùng làm bàn thủ
tục cho chuyến bay.
Khoảng
9 giờ tối, ông Nguyễn Văn Thiệu cùng tùy tùng được đưa ra phi trường bằng ba
chiếc xe do hai sỹ quan CIA lái. Đoàn xe ra khỏi cổng Bộ Tổng Tham mưu, thay vì
rẽ phải vào phi trường, đã rẽ trái đi ngược ra Sài Gòn, vào Chợ Lớn, qua trường
đua Phú Thọ, Lăng Cha Cả… qua cổng Phi Long, Bộ Tư lệnh Không quân, theo đường
ngược chiều chạy vào sân bay. Tại “cổng nhà kính” của Không quân, đèn tắt,
không có nhân viên Việt Nam nào làm việc, chỉ có thủy quân lục chiến và quân
cảnh Mỹ. Sau khi nhận tín hiệu bằng đèn pin, đoàn xe đi qua, chạy thẳng
tới cầu thang một chiếc máy bay C-118. Ở đó, Đại sứ Mỹ Martin đã đứng chờ
đưa tiễn. Đêm ấy, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu bay đi Đài Loan19.
Những
ngày ấy, trong Dinh Hoa Lan, theo mô tả của một người kề vai sát cánh với ông
Dương Văn Minh, Dân biểu đối lập Hồ Ngọc Nhuận, là “những ngày dài như vô tận”.
Tổng thống tạm quyền Trần Văn Hương, người trước đó được Tướng Nguyễn Văn Thiệu
phong hàm “hạ sỹ danh dự” đã “quyết tử thủ dù Sài Gòn có phải tắm máu”. Tướng
Big Minh nói với Dân biểu Hồ Ngọc Nhuận: “Toa (anh) làm thế nào đó thì làm, nếu
ông Hương cứ kéo dài hoài thì moa (tôi) không nhận đâu!”. Ông Hồ Ngọc Nhuận
hiểu đại từ tiếng Pháp “toi” mà ông Tướng nói là nhằm chỉ ông Nhuận và nhóm dân
biểu đối lập đang “quậy” ở Quốc hội để ông Hương từ chức. Nghe ông Tướng nói
“moa không nhận”, Dân biểu Hồ Ngọc Nhuận nghĩ tới cái ghế tổng thống mà tới giờ
đó “ai cũng thấy là không còn cái chân nào”, ông Nhuận xót xa nghĩ: “Ông Tướng
đã từng muốn xua đi chén đắng để cuối cùng chấp nhận uống chén đắng cho tới cặn
sao”20.
Sau
đó, trong một cuộc họp ở Dinh Hoa Lan, Dân biểu Hồ Ngọc Nhuận khuyên Tướng Big
Minh “thôi”. Ông Dương Văn Minh ngạc nhiên: “Giờ này mà toa còn nói đâm bang!”.
Ông Hồ Ngọc Nhuận bỏ phòng họp lên sân thượng. Dân biểu Dương Văn Ba sau đó
theo lên nói: “Anh đừng buồn”. Ông Hồ Ngọc Nhuận nói: “Nếu ông Tướng nhận,
người ta sẽ làm nhục, giờ này thì chỉ có đầu hàng thôi. Cho dù lâu nay hoạt
động của chúng ta có gián tiếp tiếp tay cho họ (phía Cách mạng), nhưng tôi
không muốn đứng trong hàng ngũ những người sẽ bị họ bắt quỳ gối, đầu hàng”. Kể
từ đó, ông Nhuận không tham gia các cuộc họp bàn thành lập “nội các” nữa, cho
dù nhiều người muốn ông Nhuận, người đã từng là quận trưởng Quận 8 và đang là
một dân biểu đối lập hàng đầu, ra tay “giúp ông Tướng” mà nhận lãnh vai trò “đô
trưởng”.
Ngày
27-4-1975, Quốc hội Sài Gòn nhóm họp. Chỉ còn 136 nghị sỹ trên tổng số 219 của
lưỡng viện có mặt, phần đông trong số họ đã di tản ra nước ngoài.
Bộ trưởng Quốc phòng Trần Văn Đôn và Tổng Tham mưu trưởng Cao Văn Viên đã
đến để thuyết trình tình hình chiến sự. Mãi tới 8 giờ 54 phút tối hôm ấy, các
nghị sỹ mới biểu quyết thông qua nghị quyết: “Yêu cầu ông Trần Văn Hương trao
quyền cho Tướng Dương Văn Minh để mưu cầu hòa bình cho dân tộc”.
Ngày
28-4, Tướng Dương Văn Minh chính thức công bố thành phần chính phủ: Luật sư
Nguyễn Văn Huyền, cựu chủ tịch Thượng viện, giữ chức phó tổng thống; luật sư Vũ
Văn Mẫu giữ chức thủ tướng. Nội các còn có thêm một thành viên chính thức nữa
là Tổng trưởng Thông tin Lý Quý Chung.
Quyết định đầu tiên của Đại tướng Dương Văn Minh là ký Văn thư số 33/TT/VT “mật – hỏa tốc” với nội dung: “Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa. Kính gửi ông Đại sứ Hoa kỳ tại Việt Nam. Thưa ông Đại sứ. Tôi trân trọng yêu cầu ông Đại sứ vui lòng ra chỉ thị cho các nhân viên của cơ quan tùy viên quân sự DAO rời khỏi Việt Nam trong vòng hai mươi bốn giờ đồng hồ kể từ ngày 29-4-1975 để vấn đề hòa bình Việt Nam sớm được giải quyết. Trân trọng kính chào ông Đại sứ. Sài Gòn ngày 28-4-1975. Ký tên: Đại tướng Dương Văn Minh”.
Trại
Davis
Sáng
29-4-1975, một người bạn cùng sinh hoạt tôn giáo với Phó Tổng thống Nguyễn Văn
Huyền là nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu chủ động gặp ông Huyền hỏi: “Chính
quyền ông Dương Văn Minh thành lập được nói là để hòa giải dân tộc, vậy các anh
đã tiếp xúc gì với phía bên kia chưa?”. Phó Tổng thống Nguyễn Văn Huyền nói
chưa, và đề nghị ông Nguyễn Đình Đầu vào trại Davis gặp đại diện Cách mạng có
mặt ở đó với tư cách là thành viên thuộc Ủy Ban Liên lạc Bốn bên theo Hiệp định
Paris.
Từ năm 1939, ông Nguyễn Đình Đầu hoạt động trong phong trào Thanh Lao Công, một tổ chức của lực lượng thanh niên Công giáo. Tại đó, ông gặp ông Nguyễn Mạnh Hà, nguyên giám đốc Kinh tế Bắc kỳ trong chính phủ thân Nhật của ông Phan Kế Toại, người được ông Võ Nguyên Giáp tiến cử làm bộ trưởng Kinh tế sau Cách Mạng tháng Tám. Ông Hà chọn ông Nguyễn Đình Đầu làm bí thư Bộ, một trong bốn viên chức chính trị của Bộ21.
Phái
đoàn vào trại Davis hôm 29-4-1975 gồm ông Nguyễn Văn Diệp, ông Nguyễn Đình Đầu,
Kỹ sư Tô Văn Cang và ông Nguyễn Văn Hạnh. Dọc đường đi họ gặp rất nhiều trở
ngại do binh lính cản đường. Ở trại Davis, một cán bộ Cách mạng tiếp họ nhưng
nói là Phái đoàn Chính phủ Cách mạng không có nhiệm vụ tiếp xúc. Nhưng khi trao
đổi không chính thức, vị cán bộ này gợi ý: chỉ cần các ông chấp nhận “Tuyên bố
ngày 26-4-1975 của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam”22.
Trở
về từ trại Davis, ông Diệp báo cáo với Phó Tổng thống Nguyễn Văn Huyền. Sau khi
có tranh luận trong nội bộ Chính phủ, ông Nguyễn Văn Diệp và ông Nguyễn Đình
Đầu về nhà ông Diệp cùng soạn thảo bản tuyên bố “Chấp nhận Điều kiện Ngừng bắn
của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam”. Dự thảo viết xong lúc 16 giờ và
ngay sau đó được “Phó Tổng thống đặc trách đàm phán” Nguyễn Văn Huyền trình lên
Tổng thống. Tướng Dương Văn Minh chấp thuận. Ông Nguyễn Văn Huyền đã công bố
bản này trên Đài Phát thanh Sài Gòn vào lúc 17 giờ ngày 29-4-1975. Cũng trong
ngày 29-4, sau bữa cơm trưa, Luật sư Trần Ngọc Liễng, một người hoạt động trong
lực lượng thứ ba, tới Dinh Hoa Lan gặp Tổng thống Dương Văn Minh. Ông Liễng,
một người của phía Cách mạng, thông báo với ông Minh về “bốn giàn pháo của quân
Giải phóng đặt quanh Sài Gòn” và nói: “Nếu anh chấp nhận không chống cự thì tôi
lên ngay trại Davis báo ý này với phái đoàn Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng
hòa Miền Nam Việt Nam và yêu cầu họ không pháo kích vào Sài Gòn, tránh cho nhân
dân khỏi bị chết chóc, Sài Gòn không đổ nát”. Ông Minh suy nghĩ rồi nói: “Liễng
đi đi”.
Khoảng
15 giờ, “sứ bộ” thứ hai gồm Luật sư Trần Ngọc Liễng, Linh mục Chân Tín, Giáo sư
Châu Tâm Luân vào trại Davis. Trưởng Phái đoàn Chính phủ Cách mạng Võ Đông
Giang ra tiếp, nhận thông điệp “Sài Gòn không chống cự” từ ông Liễng. Do
tình hình chiến sự, ông Võ Đông Giang đã giữ “sứ bộ” ở lại trại Davis cho tới
khi quân Giải phóng vào đến Sài Gòn. Trước đó, một người trong nhóm của
Luật sư Trần Ngọc Liễng đã được tiến cử để Tổng thống Dương Văn Minh bổ nhiệm
vào chức giám đốc Nha Cảnh sát Đô thành: ông Triệu Quốc Mạnh, chánh Biện lý Gia
Định, một “đảng viên cộng sản nằm vùng”. Trong ngày 29-4, Triệu Quốc Mạnh đã
kịp thi hành triệt để lệnh của tổng thống: thả hết tù chính trị.
Nguyễn
Hữu Hạnh
Trong
khi ấy, từ Cần Thơ, Chuẩn tướng hồi hưu Nguyễn Hữu Hạnh lặng lẽ theo dõi tình
hình, nhận thấy đây là cơ hội cuối cùng để mối quan hệ âm thầm với Cách mạng
gần chục năm qua mang về kết quả. Ông Hạnh với ông Minh đã có hơn ba mươi
năm biết nhau trên nghĩa thầy trò. Ngày đăng lính, ông Nguyễn Hữu Hạnh được
người Pháp đưa vào một đơn vị nơi ông Dương Văn Minh là thiếu úy đại đội phó.
Sau ba tháng huấn luyện với sự dìu dắt trực tiếp của ông Minh, ông Hạnh được
phong trung sỹ. Trong chiến dịch Thoại Ngọc Hầu, truy quét quân Bình Xuyên năm
1956, ông Minh bổ nhiệm ông Hạnh giữ chức tham mưu trưởng chiến dịch.
Ông
Hạnh có một người bác, nhưng nhỏ tuổi hơn ông, ông Nguyễn Tấn Thành – thường
gọi là Tám Vô Tư. Ông Nguyễn Tấn Thành “trụ” lại ở miền Nam, trong khi con trai
của ông, Nguyễn Tấn Phát23, được đưa ra miền Bắc. Mấy lần ông Tám Vô Tư bị
chính quyền Sài Gòn bắt, ông Nguyễn Hữu Hạnh đều khéo léo sử dụng quyền lực và
các mối quan hệ để cứu ra. Khi ba của ông Nguyễn Hữu Hạnh mất, ông Hạnh muốn
đưa về an táng ở quê lúc bấy giờ nằm trong vùng kiểm soát của quân Giải phóng,
ông Tám Vô Tư lại đứng ra “dàn xếp”. “Ổng khéo lắm”, Chuẩn tướng Nguyễn Hữu
Hạnh nhớ lại. Dần dần, ông Nguyễn Hữu Hạnh nhận ra bác mình, ông Tám Vô Tư,
đang thực hiện một kế hoạch “binh vận” do ông Bảy Lương, tức Lê Quốc Lương24,
phụ trách.
Tướng
Nguyễn Hữu Hạnh tỏ ra hợp tác; tuy nhiên, ông khôn khéo từ chối lời đề nghị “ra
căn cứ dựng cờ sỹ quan yêu nước trong Mặt trận Giải phóng”, từ chối tham gia
lực lượng thứ ba, và từ chối tiếp xúc với “anh em Cách mạng”. Tướng Nguyễn Hữu
Hạnh nói với ông Tám Vô Tư: “Ông bị bắt, tôi cứu, tôi mà bị bắt không ai cứu
được”. Giữa năm 1974, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cho Nguyễn Hữu Hạnh về hưu;
ông về Cần Thơ, gặp gỡ binh vận nhiều hơn nhưng vẫn không chịu “đi hẳn theo Cách
mạng”. Tuy nhiên, khi thế cờ đã gần như ngã ngũ, đặc biệt, khi thấy ông thầy
Dương Văn Minh nhảy ra chấp chính, Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh quyết định nắm
lấy cơ hội cuối cùng.
Ông
kể: “Sáng 29-04-1975 tôi đến gặp ông Minh tại nhà riêng, văn phòng khi ấy vẫn
còn ở nhà ông, số 3 Trần Quý Cáp. Trung tướng Mai Hữu Xuân, phụ trách sự vụ nói
với tôi: Đại tướng bận họp, Chuẩn tướng chờ một chút. Ông Dương Văn Minh là một
con người kín đáo, trầm lặng, nhưng lúc này trên gương mặt ông cũng lộ rõ vẻ
suy nghĩ lo âu. Một sĩ quan tùy viên vào trình có Đại sứ pháp đến. Tôi sang
phòng bên để ông Minh và ông Huyền tiếp Mérillon nhưng vẫn nghe được tiếng của
Đại sứ Mérillon thông báo là Tổng trưởng Ngoại giao Pháp đã liên lạc với Hà Nội
về vấn đề thương thuyết, nhưng Hà Nội trả lời ‘Rất tiếc là đã quá trễ’.
Hai
ông Dương Văn Minh và Vũ Văn Mẫu tiếp tục trao đổi sau khi Mérillon ra về. Họ
quyết định tuyên bố thả hết tù chính trị. Tôi hỏi ông Dương Văn Minh: ‘Thưa Đại
tướng, còn về tình hình quân sự ra sao?’. Ông Minh nói: ‘Toa là quân nhân không
đi xem còn hỏi gì?’ Là tổng tư lệnh quân đội, nhưng lúc bấy giờ ông Minh cũng
không nắm nổi tình hình mà còn phó thác cho Trung tướng Đồng Văn Khuyên phụ
trách mọi việc ở Bộ Tổng tham mưu. Tôi thấy lúc này cần phải nắm lấy việc chỉ
huy quân đội và tôi đoán thế nào ông Minh cũng trao việc này cho tôi. Tôi nói:
‘Tôi về hưu rồi đi coi sao được. Đại tướng có cho quyền thì tôi mới đi’.
Ngay lúc đó ông Minh phái tôi đến Bộ Tổng Tham mưu xem xét tình hình quân sự”.
Ông
Nguyễn Hữu Hạnh chưa kịp về tới nhiệm sở thì Tổng Tham mưu trưởng Cao Văn Viên
và Tướng Nguyễn Văn Minh, tư lệnh Biệt khu Thủ đô, đã bỏ ra nước ngoài. Trung
tướng Vĩnh Lộc được cử giữ chức tổng tham mưu trưởng, Thiếu tướng Lâm Văn Phát
giữ chức tư lệnh Biệt khu Thủ đô. Tướng Vĩnh Lộc trao cho ông Nguyễn Hữu Hạnh
bộ đồ quân phục của một đại úy và cho ông cặp quân hàm chuẩn tướng. Chân ông
Hạnh đi giày quân sự nhưng đầu thì không mũ, Tướng Vĩnh Lộc nhìn, lắc đầu, chửi
thề rồi nói: “Bây giờ chúng nó chạy như chuột”.
Tình
hình ở Bộ Tham mưu rối ren, bế tắc. Theo Tướng Nguyễn Hữu Hạnh, khi ông Minh
gọi Tướng Vĩnh Lộc tới nhà, cử ông làm tổng tham mưu trưởng, thì Tướng Vĩnh Lộc
từ chối: “Đại tướng giao cho Ngô Quang Trưởng đi, sớm nay tôi còn thấy nó ở
Tổng Tham mưu”. Quân đoàn I của Tướng Trưởng vừa bị đánh tan tác ở Huế và Đà
Nẵng, Tướng Trưởng vừa mới chạy tới Sài Gòn. Dương Văn Minh không đồng ý.
Nhân
khi ông Minh rời phòng khách, Tướng Nguyễn Hữu Hạnh cố thuyết phục Vĩnh Lộc
chấp nhận. Tướng Vĩnh Lộc lên nắm quyền nhưng vẫn sắp xếp cho gia đình chuẩn bị
“di tản”. Ông Hạnh nhớ lại: “Cái chức ấy bao năm qua nhiều kẻ đã phải giành
giật nhau, vậy mà bấy giờ không ai muốn nhận nữa”.
Sài
Gòn trong vòng vây
Theo
Henry A. Kissinger, cuối tháng 4-1975, người Mỹ đã hoàn thành phần lớn việc di
tản, kể cả hơn một trăm nghìn người Việt Nam có thể bị nguy hiểm do đã cộng tác
với người Mỹ. Ngày 22-4-1975, Bộ Tư pháp Hoa Kỳ đã “chấp thuận yêu cầu” của
Tổng thống Gerald Ford, đồng ý gỡ bỏ những điều kiện hạn chế (extend parole)
cho “khoảng 130,000 dân tị nạn đến từ Đông dương, trong đó có 50,000 người
thuộc diện nguy cơ cao”. Đây là lần thứ hai Bộ Tư pháp Hoa Kỳ “chấp thuận một
trường hợp ngoại lệ” (lần đầu, năm 1960, được dành cho “dân tị nạn Cuba”).
Từ
ngày 21-4, các máy bay, C-141 vào ban ngày và C-130 vào ban đêm, liên tục cất
cánh từ Sài Gòn, đưa “khoảng 50.000 người Việt nam” ra đi. Hơn 80.000 người
Việt Nam khác “với sự trợ giúp của Mỹ chạy thoát bằng các phương tiện khác”.
Tuy nhiên, vào 4 giờ sáng ngày 29-4, khi quân
Giải phóng tấn công bằng tên lửa vào sân bay Tân Sơn Nhất, 8.000 người Việt nam
và 400 người Mỹ vẫn còn đang tập trung ở đó để chờ lên máy bay. Cuộc sơ tán đã
phải tạm ngưng vì đám đông hoảng loạn. Trong ngày hôm ấy, Sài Gòn chứng kiến
những đợt rút chạy cuối cùng của phái bộ Mỹ, trực thăng lên xuống ầm ĩ trên
vùng trời Tân Sơn Nhất, binh sĩ dưới đất bắn lên, tức giận.
Ba
giờ chiều ngày 29-04-1975, tình hình quân sự được báo cáo về Bộ tổng tham mưu
Sài Gòn: Hướng Củ Chi, Sư đoàn 25 của Chuẩn tướng Lý Tòng Bá thất thủ vào chiều
28-04-1975 sau khi căn cứ Đồng Dù bị mất. Ở Biên Hòa, Trung tướng Toàn cho
biết: trong ngày 28-04-1975, lúc 18 giờ 10 phút, Việt Cộng dùng xe tăng đánh
chiếm chi khu Long Thành; 18 giờ 50 phút mất tỉnh lị Bà Rịa; 19 giờ 30 phút
Biên Hoà bị bao vây ba mặt.
Tối
29-04-1975, Thiếu tướng Lê Minh Đảo nói với Tướng Nguyễn Hữu Hạnh ông đang bị
bọc hậu và xin rút về bên này sông Đồng Nai để cố thủ. Theo ông Hạnh thì giọng
Tướng Lê Minh Đảo lạc đi. Cách đó mới hơn một tuần, Tướng Đảo tuyên bố “Cố thủ
Xuân Lộc”, nhưng rồi Sư đoàn 18 đã phải rút chạy. Trong khi đó, ở Sư 22 đóng
tại Tân An, Chuẩn tướng Phan Đình Niệm đã bỏ trốn. Hướng Thủ Dầu Một do Sư 5
trấn giữ đã bị chọc thủng đêm 29-04-1975, liên lạc bị cắt đứt.
Khi
quân Giải phóng tràn đến Hố Nai, Sư đoàn 18 và Lữ đoàn 5 thiết giáp lập tuyến
phòng thủ bên này sông Đồng Nai. Đêm 29-04-1975, nhiều đoàn xe của quân Giải
phóng từ phía Hóc Môn đã tiến về Sài Gòn. Tư lệnh Biệt khu Thủ đô cho biết
đã lập xong kế hoạch phản công. Theo Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, muốn kéo dài
sự phòng thủ thì cần chỉ thị sắp xếp quân lại. Tuy nhiên, ông đã không bàn với
Tướng Vĩnh Lộc việc này. Theo chỉ thị của Tổng thống Dương Văn Minh, “không
được di chuyển quân để chờ ông thương thuyết”.
Trước
khi về gặp tổng thống, ông Nguyễn Hữu Hạnh trình bày tình hình quân sự với
Trung tướng Vĩnh Lộc và Trung tướng Nguyễn Hữu Có: “Phía Tân Sơn Nhất quân của
Biệt khu Thủ đô đang chạm súng với Việt Cộng. Có thể họ sẽ giữ nổi nhưng phải
chịu thiệt hại nhiều về người và vật chất. Tuy nhiên phía Biên Hòa và Thủ Dầu
Một, Quân đoàn III không còn; chỉ huy các đơn vị của họ, Trung tướng Toàn đã bỏ
chạy; Sư đoàn 18 và Lữ đoàn 5 thiết giáp kẹt ở tuyến sông Đồng Nai. Hướng Thủ
Dầu Một bị bỏ ngỏ. Một đoàn chiến xa của Việt Cộng đang tiến về Sài Gòn. Mặt trận
phía này chúng ta không có quân xung kích mà chỉ có lực lượng phòng thủ. Tôi e
trong thời gian ngắn nữa chúng ta sẽ không thể gỡ nổi”. Theo ông Nguyễn Hữu Hạnh:
“Nghe xong, Tướng Vĩnh Lộc biến đổi sắc mặt, vội cầm lấy điện thoại báo cáo với
ông Dương Văn Minh. Sau đó Vĩnh Lộc bắt tay tôi, đó là cái bắt tay cuối cùng”.
Tám giờ sáng 30-04-1975, viên tướng dòng dõi hoàng tộc này đã cùng gia đình “di
tản” bằng đường thủy.
Ông
Nguyễn Hữu Hạnh nhớ lại: “Tôi và Tướng Nguyễn Hữu Có chạy đi tìm xe,
tài xế đã bỏ đi mất. Tướng Có phải gọi điện thoại về nhà đưa chiếc xe
riêng đón chúng tôi đến nhà ông Dương Văn Minh lúc 6 giờ sáng. Gặp ông Minh,
Tướng Có trình bày lại toàn bộ tình hình quân sự như tôi đã nói. Ông Minh trầm
ngâm. Tôi nói thêm: ‘Tình hình rất nguy ngập, xin Đại tướng quyết định
gấp’. Ông Minh quay lại hỏi: ‘Bây giờ toa muốn gì?’ Tôi nói: ‘Thưa Đại
tướng quyền chính trị là ở Đại tướng, riêng về quân sự thì Đại tướng phải giải
quyết, tình hình quá nguy ngập không cho phép chúng ta chần chừ nữa’. Ông Minh
suy nghĩ trầm ngâm một hồi rồi nói: ‘Thôi để tôi đi bàn với ông Huyền và ông
Mẫu, các toa ngồi đây đợi’. Tôi đề nghị được đi theo, ông Minh đồng ý”.
Ông
Minh và ông Hạnh tới Phủ Thủ tướng, số 7 đường Thống Nhất (nay là đường Lê
Duẩn). Trên đường đi họ chứng kiến sự hốt hoảng của dân chúng, tại tòa đại sứ
Mỹ có nhiều kẻ đang hôi của. Đại sứ Mỹ Martin rời khỏi Sài Gòn vào lúc 4 giờ 58
phút sáng 30-4-1975. Tuy nhiên, chuyến trực thăng cuối cùng rời khỏi tòa Đại sứ
Mỹ, theo Ngoại trưởng Kissinger, là vào lúc 8 giờ 53 phút sáng 30-4, để sơ tán
129 lính thủy đánh bộ bảo vệ cuộc di tản ở tòa Đại sứ.
Ông
Dương Văn Minh yêu cầu cho xe đón ông Huyền và ông Mẫu. Xe riêng của tổng thống
đã đón ông Nguyễn Đình Đầu trước khi qua nhà ông Nguyễn Văn Huyền. Ông Đầu
thuật lại, trên đường đi đến số 7 Thống Nhất, ông Huyền có nói với ông Đầu một
câu bằng tiếng Pháp “Il faut se rendre”(phải đầu hàng).
Tình
hình chiến sự mỗi phút càng nguy ngập. Lúc 8 giờ sáng 30-4, ba ông Dương Văn
Minh, Nguyễn Văn Huyền và Vũ Văn Mẫu không còn lựa chọn nào hơn là đơn phương
tuyên bố “bàn giao chính quyền cho Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền
Nam Việt Nam”. Ông Vũ Văn Mẫu soạn lời tuyên bố mất khoảng một tiếng đồng hồ; 9
giờ ông Minh đọc vào máy ghi âm, và lúc 9 giờ 30 phút lời tuyên bố này được
phát đi trên sóng. Những người như ông Võ Văn Kiệt như trút được gánh nặng khi
nghe được tuyên bố này phát trên đài Sài Gòn.
Vào
khoảnh khắc Bản Tuyên bố bàn giao chính quyền sắp được đọc vào máy ghi âm,
trước 9 giờ ngày 30-04-1975, Tướng Vannuxem đến Phủ Thủ tướng gặp ông Nguyễn
Hữu Hạnh nhờ ông Hạnh đưa vào gặp ông Minh, khi đó đang ngồi trong phòng khách
với ông Nguyễn Văn Huyền và ông Vũ Văn Mẫu. Vannuxem là thiếu tướng người Pháp
đã hồi hưu, thân Mỹ và thân cả Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và Tướng Cao Văn
Viên. Vannuxem đi ngay vào câu chuyện: “Tôi ở Paris mới đến, trước khi đi có
gặp nhiều nhân vật, kể cả đại sứ Trung Cộng”. Rồi Vannuxem yêu cầu ông Minh kéo
dài cuộc chiến ít nhất hai mươi bốn tiếng đồng hồ, tuyên bố bỏ Mỹ đi với Bắc
Kinh. Theo ông Vannuxem, làm như vậy Bắc Kinh sẽ gây áp lực với Hà Nội để ngưng
chiến tại miền Nam. Ông Minh không đồng ý. Khi Vannuxem về rồi, ông Dương Văn
Minh nói: “Mình đã lỡ đi với Mỹ, bây giờ lại bán nước cho Trung Cộng sao”.
Theo
kế hoạch thì chính phủ của Thủ tướng Vũ Văn Mẫu sẽ “ra mắt” vào lúc 10 giờ sáng
30-4-1975, nhưng khi các nhân vật của chính phủ cũ và mới đến số 7 Thống Nhất
thì họ nghe được Tuyên bố Bàn giao Chính quyền. Nhiều người trong số họ đã di
chuyển sang Dinh Độc Lập không phải để tuyên thệ mà để chờ đợi.
Trong thời gian ấy, Tướng Nguyễn Hữu Hạnh mang Tuyên bố Bàn giao Chính quyền của Tống thống Dương Văn Minh và Chỉ thị buông súng của Phụ tá Tổng Tham mưu trưởng Nguyễn Hữu Hạnh sang phát trên Đài Phát thanh Sài Gòn. Khi Tướng Hạnh trở lại Phủ Thủ tướng thì nơi đây đã hoàn toàn vắng lặng. Ông Hạnh chạy đến nhà ông Dương Văn Minh ở số 3 Trần Quý Cáp thì được biết ông Minh và gia đình đã vào Dinh Độc Lập. Ông Hạnh đến Dinh Độc Lập. Ngoài đường lúc ấy im phắc. Ông Nguyễn Hữu Hạnh vào Dinh bằng cổng chính, cổng Dinh mở, không lính gác.
Trước
thềm Dinh, ông Hạnh thấy một xe Jeep và một xe GMC đầy lính vũ trang. Tướng
Hạnh hỏi một sỹ quan đeo lon trung úy mới biết Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng Tiểu
đoàn Lôi Hổ phòng thủ Tân Sơn Nhất đang gặp ông Minh ở tầng một Dinh Độc Lập.
Tướng Nguyễn Hữu Hạnh định về Bộ Tổng tham mưu, nhưng ông Minh giữ lại. Vừa
lúc, điện thoại tại phòng làm việc của Chánh văn phòng Tổng thống reng. Một
thiếu tá xin gặp Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh. Đó là Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng
Tiểu đoàn Lôi Hổ phụ trách phòng thủ Bộ Tổng tham mưu.
Viên
thiếu tá hỏi: “Chuẩn tướng bảo chúng tôi buông súng là làm sao? Tôi không đầu
hàng đâu, tôi đã bắn cháy ba xe tăng”. Tướng Nguyễn Hữu Hạnh giải thích và
khuyên: “Thiếu tá không nên để cho máu đổ ở giờ thứ 25”. Viên thiếu tá yêu
cầu nói chuyện với Tổng thống, Tướng Hạnh mời ông Minh đến, nhưng câu
chuyện chưa xong thì chiếc tăng 843 xuất hiện. Ông Minh nói: “Quân Giải phóng
đã vào tới Dinh rồi, thôi cúp”.
Xe
tăng 390
Lúc
đó là 10 giờ 45 phút ngày 30-4-1975. Trước đó ít phút, khi Tiểu đoàn trưởng Lôi
Hổ phòng thủ Tân Sơn Nhất bỏ đi, một dân biểu thuộc lực lượng thứ ba, Trung tá
Nguyễn Văn Binh, đã cẩn thận đóng cổng Dinh Độc Lập. Hành động này của Trung tá
Nguyễn Văn Binh đã điều chỉnh một chi tiết trong lịch sử: Chiếc tăng 843 đi
theo đường Thống Nhất từ Sở Thú tới trước rồi dừng lại trước cổng phụ trong khi
xe tăng 390 tới sau, nhưng hùng dũng húc đổ cổng chính Dinh Độc Lập, cánh cửa
cuối cùng của cuộc chiến.
Vào
lúc 9 giờ 30 phút sáng 30-4, khi ở phía Tây Sài Gòn, ông Võ Văn Kiệt ra lệnh
“giản chính đồ đạc”, ở phía Đông, Trung tá Bùi Văn Tùng, chính ủy Lữ đoàn tăng
203, cũng nghe được tuyên bố của Tướng Dương Văn Minh qua chiếc radio mà ông
luôn đeo bên người. Phía sau ông, Tư lệnh Quân đoàn II, Tướng Nguyễn Hữu An,
luôn theo sát đốc chiến. Họ như những người lính xung trận linh cảm được chiến
thắng, càng nóng lòng hơn khi có thể “sờ” thấy ở phía trước mục tiêu cuối cùng.
Đêm
29-4, Tướng Nguyễn Hữu An gửi thư cho Lữ đoàn 203. Bức thư được Trung tá Bùi
Tùng ghi chú “Nhận lúc 24 giờ ngày 29-4-1975” viết: “Anh Tài và Tùng. Bảy chiếc
tăng và một bộ phận bộ binh đã đến cầu xa lộ Biên Hòa gặp bộ phận đặc công của
116 giữ đã hai ngày nay. Tình hình như vậy là thuận lợi do đó phải mạnh dạn
tiến lên, đừng để bọn tàn binh lẻ tẻ nó cản trở. Cố gắng đưa toàn bộ đội hình
của các anh qua bên Tây cầu đêm nay và độ 3-4 giờ sáng 30-4 là ta xốc được tới
Sài Gòn chiếm xong cầu Rạch Chiếc và Tân Cảng đến cầu Sài Gòn. Tôi đã nói anh
Ân cho 2d (tiểu đoàn) của E9 tràn về phía cầu xa lộ Biên Hòa. Các anh thi hành
khẩn trương và giữ liên lạc với tôi thường xuyên. Mục tiêu vào Sài Gòn là Dinh
Tổng thống – Đài Phát thanh, BTL (Bộ Tư lệnh) Hải quân, ngân hàng, phủ đặc ủy trung
ương tình báo./An”.
Trước
đó, vào lúc 10 giờ ngày 29-4-1975, ngay sau khi Tổng thống Dương Văn Minh ra
lệnh cho quân đội Sài Gòn ngừng di quân, Bộ Chính trị điện: “Gửi anh Sáu, anh
Bảy, anh Tư, / Đồng điện anh Tấn,/Bộ Chính trị và Quân uỷ đang họp thì được tin
Dương Văn Minh ra lệnh ngừng bắn. Bộ Chính trị và Quân uỷ Trung ương chỉ thị:
Các anh ra lệnh cho quân ta tiếp tục tiến công vào Sài Gòn theo kế hoạch; tiến
quân với khí thế hùng mạnh nhất, giải phóng và chiếm lĩnh toàn bộ thành phố,
tước vũ khí toàn bộ quân đội địch, giải tán chính quyền các cấp của địch, đập
tan triệt để mọi sự chống cự của chúng. Công bố đặt thành phố Sài Gòn-Gia Định
dưới quyền của Uỷ Ban Quân Quản do tướng Trần Văn Trà làm chủ tịch. Sẽ có điện
tiếp, nhận được điện trả lời ngay. Ba”25.
Rạng
sáng ngày 30-4-1975, những chiếc tăng đầu tiên của Lữ đoàn 203 chạy đến căn cứ
Nước Trong, Long Khánh. Lúc bấy giờ, Thiếu úy Lê Văn Phượng, trưởng xe 390, vẫn
chưa biết chiếc tăng T59 của mình sẽ đi vào lịch sử. Sống chết vẫn còn gang
tấc. Khi cho xe dừng lại định nấu cơm bên một bìa rừng cao su, pháo thủ số hai
của tăng 390, Đỗ Cao Trường, bị một toán thủy quân lục chiến núp trong vườn cao
su bắn bị thương. Thiếu úy Phượng ra lệnh quay nòng pháo vào vườn cao su, bắn
cho tới khi toán thủy quân lục chiến rút hết. Họ để Đỗ Cao Trường ở lại cho du
kích rồi bốn anh em lên xe tiến về Sài Gòn. Tới ngã tư Hàng Xanh, những chiếc
tăng phải chạy lòng vòng để tìm đường.
Trước
đó không lâu, trong một cánh rừng cao su, Trung tướng Lê Trọng Tấn giao nhiệm
vụ cho Quân đoàn IV: “đánh chiếm mục tiêu quan trọng nhất”. Tướng Nguyễn Hữu
An, tư lệnh Quân đoàn II, hỏi: “Nếu Quân đoàn II vào trước có được đánh chiếm
mục tiêu quan trọng nhất không?”. Tướng Lê Trọng Tấn gật đầu. Ngày 24-4, cũng
tại một vườn cao su ở Long Thành, Tướng Nguyễn Hữu An đặt vấn đề với Lữ đoàn
203: “Cậu Tài (Trung tá Nguyễn Tất Tài, lữ trưởng 203) tốt nghiệp ở Liên Xô,
cậu Tùng tốt nghiệp Học viện Thiết giáp Trung Quốc, các cậu biết rõ Liên Xô khi
kết thúc Thế chiến thứ II đã dùng một sư đoàn tăng để tấn công vào sào huyệt
cuối cùng. Tại sao mình có một lữ tăng, mình không vào Dinh Độc Lập?”. Ngay sau
đó, trong khi “mũi thọc sâu” của Quân đoàn IV là bộ binh thì Tướng Nguyễn Hữu
An đã đưa Lữ tăng lên tiên phong. Xe 390 đi trước nhưng chạy thẳng theo đường
Hồng Thập Tự, thay vì đi hướng từ Sở Thú lên như 843, nên khi vào đến Dinh Độc
lập lúc 10 giờ 45 phút, đã thấy xe 843 của trung úy Bùi Quang Thận tấp qua bên
trái, dừng lại trước cổng phụ. Bùi Quang Thận phất tay ra hiệu cho xe của Lê
Văn Phượng tiến lên.
Thiếu
úy Lê Văn Phượng ngồi thụp xuống, đậy nắp tháp pháo và lệnh cho xe ủi vào cổng
chính. Anh nghe tiếng “rầm” và tiếp đó là âm thanh bánh xích nghiền nát cánh
cổng sắt. Biết cổng không có mìn, Lê Văn Phượng mở nắp tháp pháo, đứng nhô lên
nửa người, từ xa anh thấy một nữ phóng viên “Tây” ngồi trên thảm cỏ. Nhưng khi
xe anh cán lên bãi cỏ thì không thấy chị phóng viên đâu nữa. Hai mươi năm sau,
Lê Quang Phượng sẽ gặp lại người phụ nữ ấy, còn lúc bấy giờ thì anh không có
thời gian để tìm xem chị ở đâu.
Đến
thềm Dinh, anh quay lại, thấy xe 843 vẫn đậu chỗ cũ, nhưng Trung úy Bùi Quang
Thận thì đã nhảy xuống, chạy núp theo sau xe 390, tay cầm lá cờ khổ nhỏ, loại
cờ được để sẵn rất nhiều ở trên mỗi xe để cứ chiếm được mục tiêu quan trọng nào
lại cắm lên. Pháo thủ số 1 của xe 390 cũng cầm cờ định nhảy xuống, nhưng Lê Văn
Phượng ra lệnh: “Anh Thận cầm cờ rồi, hãy nạp pháo, chuẩn bị!”. Rồi Lê Văn
Phượng giữ lấy khẩu đại liên, yểm trợ. Nhưng từ lúc ấy, họ không còn phải bắn
một phát đạn nào.
Khi
chiếc tăng 390 đỗ lại, chính trị viên đại đội Vũ Đăng Toàn xách AK nhảy xuống,
chờ đại đội trưởng Bùi Quang Thận cầm cờ tiến vào. Cả hai chạy lên thềm Dinh
trong tư thế được mô tả là sẵn sàng chiến đấu. Bùi Quang Thận nhớ lại là anh đã
hơi lo khi thấy bên trong có người mặc quân phục. Có thể vì quá căng thẳng và
có thể vì là một người lính nông dân lần đầu đứng trước một tấm kính khổng lồ,
Bùi Quang Thận lao vào cửa kính mạnh đến nỗi anh ngã bật ra phía sau trong khi
tay vẫn không rời lá cờ. Từ trong Dinh, một người bận đồ dân sự chạy ra, mời
vào.
Bùi
Quang Thận đứng trước một “Nội các” có lẽ cũng bối rối không kém. Không biết
phải làm gì hơn, Bùi Quang Thận đề nghị Vũ Đăng Toàn ở lại “canh chừng”, chờ
cấp chỉ huy đến còn mình thì làm nốt “vai trò lịch sử”, cắm cờ trên nóc Dinh
Độc Lập. Chỉ huy lực lượng Phòng vệ Phủ Tổng thống, Đại tá Chiêm, được lệnh
hướng dẫn Bùi Quang Thận đi thang máy lên nóc Dinh. Cùng đi theo hỗ trợ có sinh
viên Nguyễn Hữu Thái (cựu Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn) và Tiến sỹ Huỳnh
Văn Tòng [27].
Khi
ấy, thang bộ của Dinh chưa sử dụng được vì ngày 8-4-1975 đã bị phi công Nguyễn
Thành Trung, một người được Cách Mạng cài vào quân đội Sài Gòn, ném bom làm
hỏng. Đại tá Chiêm dẫn ba người đến trước thang máy, loại phương tiện mà đối
với Bùi Quang Thận còn lạ hơn những tấm kính khổ rộng rất nhiều. Bùi Quang
Thận nhất quyết không vào; về sau anh kể lại: “Lúc đó tôi thấy thang máy giống
như… cái hòm, vào đó nhỡ nó nhốt mình luôn, biết bao giờ mới ra được!”. Sau khi
nghe Đại tá Chiêm giải thích, Bùi Quang Thận mới chịu dùng thang máy.
Phải
mất khá lâu, ba người đi cùng mới giúp Bùi Quang Thận hạ lá cờ ba sọc vàng
xuống bởi nó khá lớn và được buộc giây chắc chắn. Bùi Quang Thận kéo lá cờ của
Mặt trận Dân tộc Giải phóng nửa xanh nửa đỏ có sao vàng ở giữa lên, sau khi
viết và ký tên vào: “11g30 ngày 30-4. Thận” [28].
Đầu
hàng
Khi
Bùi Quang Thận được Đại tá Chiêm dẫn lên nóc Dinh, Trung úy Vũ Đăng Toàn ở lại
tầng hai. Trung úy Toàn viết: “Tôi dồn toàn bộ nội các Dương Văn Minh vào một
chỗ. Dồn xong thì ông Nguyễn Hữu Hạnh mời ông Dương Văn Minh ra chào. Khi ông
Minh vừa ra thì anh Phạm Xuân Thệ cùng hai trợ lý đến. Anh Thệ nói: ‘Tôi là đại
úy Phạm Xuân Thệ, trung đoàn phó Trung đoàn 66′”.
Borries
Gallasch, phóng viên tạp chí Tấm Gương của Cộng hòa Liên bang Đức, người châu
Âu duy nhất có mặt trong Dinh Độc Lập vào thời điểm đó, tường thuật: “Tay Thệ
cầm súng ngắn đã lên đạn, một khẩu K54 của Nga, Thệ rất phấn khích la lớn yêu
cầu ông Minh ra đài phát thanh. Nhưng tướng Minh không muốn đi. Ông ta đề nghị
rằng bài nói của ông phải được thu âm vào máy thu ở trong Dinh. Họ tranh luận
việc đó. Càng lúc càng nhiều người lính Giải phóng chạy vào. Rồi họ bắt đầu tìm
máy thu nhưng không có kết quả. Không có một cái máy ghi âm nào trong Dinh cả.
Sự hoang mang chấm dứt khi người chỉ huy của quân Giải phóng, Chính ủy Bùi Văn
Tùng, xuất hiện”29.
Ở
cửa Dinh, Trung tá Bùi Văn Tùng, chính ủy Lữ đoàn xe tăng 203 đã nghe báo cáo:
“Có Tổng thống Ngụy”. Ông Tùng quá mừng: “Vớ được cả tổng thống cơ à!”. Tổng
thống Dương Văn Minh thấy ông Tùng, một người cao lớn, bước vào, thì lịch sự
chào: “Thưa ông, chúng tôi đợi các ông vào đã lâu rồi để bàn giao chính quyền”.
Ông Bùi Văn Tùng nói: “Các ông là người bại trận. Các ông không có gì để bàn giao cả mà chỉ có đầu hàng vô điều kiện”. Ông Tùng hỏi Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh: “Đường giây liên lạc từ đây qua đài thế nào?”. Ông Hạnh nói: “Hư hết rồi”. Ông Tùng quyết định cho đưa vị tổng thống bị bắt giữ đến đài phát thanh.
Khi
xe tăng 390 dừng lại, mọi người xuống hết, Trung sỹ Nguyễn Văn Tập, lái xe 390,
cũng định đi vào trong Dinh, nhưng khi nhảy lên bậc thềm ngoảnh lại thấy vắng
quá. Anh nghĩ, “nhỡ địch quay lại chiếm mất xe mình thì sao?”, bèn quay lại
nhảy vào ghế lái ngồi thò đầu ra ngoài. Chỉ một lúc sau, Trung sỹ Tập thấy “Nội
các Ngụy” ra, đi rất hiên ngang. Cùng đi có cả Phạm Xuân Thệ nhưng khi ấy anh
Tập chỉ nhận ra thủ trưởng của mình là Chính ủy Bùi Văn Tùng. Trung sỹ Tập có
lẽ liên hệ đến bức ảnh của Phan Thoan và lời đề nổi tiếng của Tố Hữu: “O du
kích nhỏ dương cao súng / Thằng Mỹ lênh khênh bước cúi đầu”, nên kêu lên:
“Thủ trưởng ơi, thủ trưởng bắt nó phải cúi đầu xuống chứ!” Trung tá Bùi Văn
Tùng nói: “Việc ấy là của tớ”.
Chiếc
xe Jeep mang biển số 15770 mà Trung đoàn 66 thu được từ chiến trường Đại Lộc,
Quảng Nam, do chiến sỹ Đào Ngọc Vận lái, được trưng dụng để chở Tổng thống
Dương Văn Minh đi từ Dinh Độc Lập qua đài. Đào Ngọc Vận30 kể: “Tôi thấy Trung
đoàn phó Phạm Xuân Thệ dẫn theo hai người đàn ông tiến lại chiếc xe Jeep 15770
mà tôi cầm lái. Trung đoàn phó cùng một người ngồi hàng ghế phía trên, người kia
ngồi phía dưới, cùng Trung úy Phùng Bá Đam, Trung úy Nguyễn Khắc Nhu. Hai chiến
sĩ Nguyễn Huy Hoàng và Bàng Nguyên Thất ngồi hai bên thành xe. Mãi sau này tôi
mới biết người to béo, đeo kính trắng, đi giày đen ngồi ngay bên cạnh mình là
Tổng thống Dương Văn Minh, và vị quan chức mặc bộ complet, sơ mi trắng ngồi phía
sau là Thủ tướng Vũ Văn Mẫu”.
Nhà
báo Borries Gallasch viết tiếp: “Chỉ có hai chiếc xe của chúng tôi chạy giữa
thành phố lúc ấy – một thành phố đã từng sôi sục mà nay sự sợ hãi bỗng nhiên
được làm dịu đi – qua Tòa đại sứ Mỹ trống hoác, đến Đài Phát thanh nằm trên
đường Nguyễn Bỉnh Khiêm. Chúng tôi đi vào phòng thu nhỏ trên lầu một. Những kỹ
thuật viên đã lấy chân dung của Thiệu từ trên tường xuống và ném qua cửa sổ ra
sân. Chúng tôi ngồi bất động một lát. Ông Mẫu quạt mặt mình bằng một quyển
sách. Tổng thống Dương Văn Minh và Chính ủy xe tăng Bùi Văn Tùng ngồi trên hai
chiếc ghế và tôi ngồi giữa họ tại một chiếc bàn nhỏ. Ông Tùng thảo văn kiện đầu
hàng trên một mảnh giấy màu xanh”31.
Trung
tá Bùi Văn Tùng nhớ lại: “Tôi với ông Dương Văn Minh ngồi cùng một băng ghế
dài. Khi ấy, sau 8-9 đêm mất ngủ, tôi có cảm giác mệt rã người. Nhưng một ý
nghĩ chợt thoáng qua, “ổng mà nói linh tinh thì chết”. Mồ hôi tự nhiên toát ra
như tắm, người tỉnh hẳn, tôi nói: “Ông phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện”.
Tổng thống Dương Văn Minh nói: “Ông muốn gì hãy ghi ra”.
Trung
tá Bùi Văn Tùng viết ngắn gọn: “Tôi, Dương Văn Minh, tổng thống chính quyền Sài
Gòn, kêu gọi Quân lực Việt Nam Cộng hòa hạ vũ khí đầu hàng không điều kiện quân
Giải phóng Miền Nam Việt Nam. Tôi tuyên bố Chính quyền Sài Gòn từ trung ương
đến địa phương phải giải tán hoàn toàn. Từ trung ương đến địa phương trao lại
cho Chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam Việt Nam”.
Tướng
Dương Văn Minh đọc xong, Trung tá Bùi Văn Tùng nói tiếp vào máy ghi âm: “Chúng
tôi đại diện lực lượng quân Giải phóng Miền Nam Việt Nam long trọng tuyên bố
thành phố Sài Gòn đã được giải phóng hoàn toàn, chấp nhận sự đầu hàng không
điều kiện của tướng Dương Văn Minh, tổng thống chính quyền Sài Gòn”32.
Thủ
tướng Vũ Văn Mẫu cũng được dành cho ít phút để phát biểu và đây, có
lẽ, mới là “chính kiến” của nhóm ông: “Trong tinh thần hòa giải và hòa hợp
dân tộc, tôi – giáo sư Vũ Văn Mẫu, Thủ tướng – kêu gọi tất cả các tầng lớp đồng
bào vui vẻ chào mừng ngày hòa bình của dân tộc và trở lại sinh hoạt bình
thường. Các nhân viên của các cơ quan hành chánh quay trở về vị trí cũ theo sự
hướng dẫn của chính quyền cách mạng”33.
Ông
Võ Văn Kiệt đến Dinh khi nơi này đã được tiếp quản bởi một lực lượng của Quân
đoàn IV. Ông là vị trung ương uỷ viên Đảng Lao động Việt Nam đầu tiên đến Dinh
Độc Lập. Ông Kiệt nắm thêm tình hình quân sự và nhắc nhở chỉ huy các đơn vị
chiếm đóng đối xử tốt với những người trong chính phủ ông Dương Văn Minh, chờ
lệnh.
Ông
Kiệt là bí thư Đảng ủy Đặc biệt Ủy ban Quân quản, là vị trí thực sự “đứng đầu”
ở Thành phố lúc bấy giờ. Tuy nhiên, người công khai xuất hiện trong vai trò
đứng đầu tại thời điểm ấy lại là Trần Văn Trà. Ngày 1-5-1975, khi đang ở Sở
chỉ huy tiền phương, Thượng tướng Trần Văn Trà được ông Lê Đức Thọ và ông
Phạm Hùng thông báo: “Điện anh Ba Lê Duẩn nói Bộ Chính trị quyết định cậu làm
chủ tịch Uỷ Ban Quân quản Sài Gòn-Gia Định. Đi ngay cho kịp”.
Ông
Võ Văn Kiệt cho rằng đây là một thay đổi hợp lý. Sài Gòn mới tiếp quản cần một
quân nhân đồng thời phải là một quân nhân không quá xa lạ với dân chúng.
Tướng Trà từng là trưởng Phái đoàn Quân sự Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam trong Ban Liên hợp Quân sự Bốn bên thực thi Hiệp định Paris. Năm 1973, ông đã có một thời gian khá lâu ở Sài Gòn, và đã từng được báo chí Sài Gòn nhắc đến.
Ngày
2-5, Tướng Trần Văn Trà mới về đến Dinh Độc Lập. Ông kể34: “Theo chỉ thị của Bộ
Chính trị, tôi cho thả tất cả những nhân vật trọng yếu của ngụy quyền mà từ hôm
giải phóng Sài Gòn, bộ đội ta đã giam giữ họ tại một phòng ở đây. Tôi chỉ gặp
những người đứng đầu: Dương Văn Minh, tổng thống, Nguyễn Văn Huyền, phó tổng
thống và Vũ Văn Mẫu, thủ tướng ngụy quyền, giải thích cho họ chính sách của
cách mạng là quang minh, chính đại, độ lượng, khoan hồng. Tôi đã nhấn mạnh: Tất
cả những việc làm đã qua chúng tôi xếp nó vào quá khứ, chúng tôi căn cứ vào
thái độ và hành động từ ngày nay trở đi. Tôi mong họ quan niệm được sự thắng
lợi vĩ đại của dân tộc vừa rồi mà tự hào rằng mình cũng là người Việt Nam. Có
vẻ họ tỏ ra xúc động. Dương Văn Minh đã phát biểu: Tôi vui mừng được là
công dân của một nước Việt Nam độc lập”35.
Tuẫn
tiết
Với
năm cánh quân Giải phóng áp sát Sài Gòn trong sáng 30-4, không ai có thể đủ sức
cưỡng lại chiến thắng của quân đội miền Bắc. Tuy nhiên, ‘Việt cộng” chỉ thực sự
nắm được miền Tây vào chiều tối 30-4-1975.
Vào
thời điểm ấy, không chỉ có sỹ quan chỉ huy hai tiểu đoàn Lôi Hổ xộc vào Dinh
Độc Lập chất vấn tổng thống về quyết định buông súng. Từ mấy ngày trước, các sư
đoàn không quân còn lại của Việt Nam Cộng hòa đã di chuyển xuống Trà Nóc và các
sân bay lân cận. Tướng Nguyễn Cao Kỳ cũng bay xuống, nhóm họp với các tướng
lãnh, các tỉnh trưởng của Vùng IV với sự tham gia của Phó đề đốc Hải quân Hoàng
Cơ Minh, người khi ấy đang làm tư lệnh Lực lượng Thủy bộ 211.
Bộ
Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh bố trí Đoàn 232 của Tướng Lê Đức Anh ở hướng
Long An nhằm phòng ngừa khả năng lực lượng của Tướng Nguyễn Khoa Nam từ Cần Thơ
lên ứng cứu là có cơ sở. Tuy nhiên, ngay trong đêm 29-4-1975, gần như tất cả
lực lượng hải quân đều bỏ trốn.
Theo
Thiếu úy Dương Đức Dũng, phóng viên mặt trận của Sư 21 không quân: “Tướng
Nguyễn Khoa Nam ra lệnh oanh tạc những kẻ đào ngũ nhưng anh em không quân không
chấp hành”. Sáng 30-4-1975 vẫn còn lệnh bay. Máy bay bắt đầu trút hết bom
vào đồng trống. Một số phi công nói với Thiếu úy Dũng: “Tụi tao được lệnh di
tản sang U-Tapao (Thái Lan), mày có đi thì lên”. Dũng đã ở lại. Bầu trời Cần
Thơ từ lúc ấy không một phút yên tĩnh. Đầu tiên là các khu trục A1E, A1H, sau
đó là A37 rồi C123. Trực thăng túa lên trời như châu chấu.
Bảy
giờ sáng ngày 30-4-1975, Thiếu tướng Nguyễn Khoa Nam, tư lệnh Quân đoàn IV báo
cáo về Bộ Tổng Tham mưu bằng điện thoại: “Tôi bị tấn công mạnh ở ba nơi: Vĩnh
Bình, Bạc Liêu và một nơi cách sân bay Trà Nóc ba cây số. Nhưng tôi đã đẩy lùi
được cuộc tấn công của Việt Cộng. Tôi sẽ giữ các vị trí còn lại. Các lực lượng
Quân đoàn và Quân khu IV, mặc dầu có bị tấn công vài nơi, nhưng vẫn còn nguyên
vẹn”36. Phó tướng của Nguyễn Khoa Nam khi đó là Chuẩn tướng Lê Văn Hưng,
người mà năm 1972 đã từng tử thủ ở An Lộc. Từ Bộ Tổng Tham mưu, Chuẩn tướng
Nguyễn Hữu Hạnh nhắc Tướng Nam: “Anh cố gắng thi hành lệnh của Tổng thống”.
Năm giờ 30 phút chiều 30-4-1975, Tướng Lê Văn
Hưng rời Bộ Tư lệnh Quân đoàn IV, về Bộ Chỉ huy phụ. Khi đại diện bộ đội miền
Bắc vào Bộ Tư lệnh Quân đoàn IV gặp Tướng Nguyễn Khoa Nam yêu cầu “đầu
hàng”, Tướng Nam và Tướng Hưng chỉ chấp nhận “bàn giao”. Khi vị đại diện miền
Bắc này qua khỏi cầu Cái Răng, Tướng Hưng liên hệ với Tướng Mạch Văn
Trường và ra lệnh điều động hai chi đội thiết giáp ra án ngữ cầu Cái Răng và
chiếm lại đài phát thanh rồi cho mời Mạch Văn Trường và chỉ huy các đơn vị đóng
xung quanh vành đai thị xã Cần Thơ về họp. Sáu giờ 30 phút chiều, khi các vị sĩ
quan về tới cổng Bộ Chỉ huy của Tướng Hưng, một nhóm nhân sĩ Cần Thơ đến gặp
Tướng Hưng, xin ông đừng phản công để tránh bị “Việt Cộng pháo kích vào thị
xã”.
Tại
Vĩnh Long, các lực lượng của miền Nam vẫn không thôi kháng cự. Theo ông Phạm
Văn Trà37: “Chiều ngày 30-4, sau khi bộ phận trinh sát kỹ thuật của Bộ Tư lệnh
tiền phương quân khu bắt được sóng đài của địch, anh Ba Trung đã sử
dụng điện đài tuyên bố với viên tỉnh trưởng Vĩnh Long rằng tính mạng của y
đã nằm trong tay quân Giải phóng. Nếu đầu hàng, cách mạng sẽ khoan hồng, tha
thứ lỗi lầm trước đây, tính mạng, tài sản của bản thân và gia đình, vợ con được
bảo toàn; bằng không, y sẽ phải đền tội và vợ con, gia đình cũng khó bề bảo
toàn tính mạng, mặc dù Cách mạng không muốn điều đó. Sau 30 phút suy tính, vào
lúc 17 giờ ngày 30-4, tỉnh trưởng Vĩnh Long chấp nhận đầu hàng và xin anh Ba
Trung giữ lời hứa bảo toàn tính mạng”38.
Chiều
30-4-1975, tại căn cứ Đồng Tâm, Chuẩn tướng Trần Văn Hai, tư lệnh Sư đoàn 7 tự
tử bằng thuốc độc39.
Sáu
giờ 45 phút chiều, hai vị tướng chỉ huy lực lượng Quân lực Việt Nam Cộng hòa ở
miền Tây vẫn trao đổi điện thoại với nhau. Tướng Nam cho đến lúc ấy
vẫn định phát lời kêu gọi dân chúng Cần Thơ, nhưng cả hai đều biết là quá
trễ. Theo Đại tướng Văn Tiến Dũng: “Do sức ép của ta ngày càng mạnh, các Trung
đoàn 31, 32, 33 ngụy cùng phần lớn các cơ quan chỉ huy sư đoàn ngụy đã tự động
vứt bỏ vũ khí, cởi bỏ áo lính trở về nhà. Chỉ còn một số sĩ quan ngụy cao cấp ở
lại để xin đầu hàng ta vào lúc 20 giờ cùng ngày”40.
Bảy
giờ 30 phút tối 30-4-1975, Tướng Lê Văn Hưng về phòng nói lời từ biệt với thuộc
cấp và vợ con. Tám giờ 45 phút, từ dưới nhà, vợ ông, bà Phạm Thị Kim Hoàng,
nghe tiếng súng, chạy lên. Khi cùng người nhà cạy cửa phòng, bà Hoàng thấy
Tướng Hưng đã chết với một phát súng tự bắn vào đầu. Mười một giờ đêm hôm đó,
Tướng Nguyễn Khoa Nam gọi điện thoại cho bà Hoàng chia buồn. Sáng hôm sau,
khoảng 7 giờ 30 phút ngày 1-5-1975, Tư lệnh Quân đoàn IV, Quân đoàn cuối cùng
của Việt Nam Cộng hòa, Tướng Nguyễn Khoa Nam tự sát.
Trước
đó, như một hành động nhận lãnh trách nhiệm của mình, ngày 29-4-1975, Tư lệnh
Quân đoàn II, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú, người đảm trách cuộc triệt thoái thất
bại khỏi ba tỉnh Cao Nguyên, đã tự tử bằng một liều thuốc độc; gia đình đã đưa
vào bệnh viện Grall, nhưng đến trưa 30-4-1975, khi Dương Văn Minh tuyên bố đầu
hàng, thì tắt thở.
Cũng
trưa 30-4, tại Lai Khê, Tướng Lê Nguyên Vỹ tự sát tại Bộ Tư lệnh Sư đoàn 5 sau
khi cho binh lính rã ngũ. Vào lúc 2 giờ chiều ngày 30-04-1975, Ðại tá Đặng Sĩ
Vinh cùng gia đình gồm vợ và bảy người con đã tự tử bằng súng lục.
Nhưng
đấy vẫn chưa phải là những phát súng cuối cùng của cuộc chiến tranh. Nhiều quân
nhân vô danh vẫn tìm đến cái chết trong những ngày sau đó.
Chú Thích Chương 1
[1] Tiểu thuyết cách
mạng của Trung Quốc.
[2] Tiểu thuyết cách
mạng của Liên Xô.
[3] Đạo diễn điện ảnh.
[4] Tổ chức cho người
Hoa nộp vàng để được vượt biên bán chính thức (1978-1979).
[5] Cải tạo những người
giàu lên bất thường (1983).
[6] Ngày 14-4-1975.
[7] Trước năm 1973, Daisy Cutler và CBU vẫn được dùng để dọn bãi cho trực
thăng.
[8] Trần Văn Trà, 1982, trang 254.[10] Sđd, trang 258.
[9] Trần Văn Trà, 1982, trang 255.
[7] Trước năm 1973, Daisy Cutler và CBU vẫn được dùng để dọn bãi cho trực
thăng.
[8] Trần Văn Trà, 1982, trang 254.[10] Sđd, trang 258.
[9] Trần Văn Trà, 1982, trang 255.
[10] Sđd, trang 258.
[11] Sđd. Trang 261.
[12] Kissinger, 2003, trang 536.
[13] Kissinger, 2003, trang 543.
[14] Văn Kiện Đảng, tập 36-1975, 2004, trang 167.
[15] Trần Văn Trà, 1982, trang 281-282.
[16] Larry Berman, 2001.
[17] Năm 1964 khi bị “chỉnh lý” bởi Tướng Nguyễn Khánh, “Quốc trưởng” Nguyễn Khánh phong cho ông hàm đại tướng, nhưng ông Minh và những người của ông không thừa nhận nên về sau có người gọi ông là đại tướng có người vẫn gọi ông là trung tướng.
[18] Sau khi ông Dương Văn Minh rời Việt Nam, Mười Ty đã có những báo cáo với tư cách là Đại tá Dương Thanh Nhựt, nói rằng anh mình đã biến chuyển rất nhiều bởi “binh vận”.
[19] Về sau, ông Nguyễn Văn Thiệu sang Mỹ, ông sống lưu vong lặng lẽ suốt phần đời còn lại cho đến ngày 29-9-2001, mất tại Boston, Mỹ.
[13] Kissinger, 2003, trang 543.
[14] Văn Kiện Đảng, tập 36-1975, 2004, trang 167.
[15] Trần Văn Trà, 1982, trang 281-282.
[16] Larry Berman, 2001.
[17] Năm 1964 khi bị “chỉnh lý” bởi Tướng Nguyễn Khánh, “Quốc trưởng” Nguyễn Khánh phong cho ông hàm đại tướng, nhưng ông Minh và những người của ông không thừa nhận nên về sau có người gọi ông là đại tướng có người vẫn gọi ông là trung tướng.
[18] Sau khi ông Dương Văn Minh rời Việt Nam, Mười Ty đã có những báo cáo với tư cách là Đại tá Dương Thanh Nhựt, nói rằng anh mình đã biến chuyển rất nhiều bởi “binh vận”.
[19] Về sau, ông Nguyễn Văn Thiệu sang Mỹ, ông sống lưu vong lặng lẽ suốt phần đời còn lại cho đến ngày 29-9-2001, mất tại Boston, Mỹ.
[20] Trong cuốn Kết Thúc Chiến Tranh 30 Năm, Tướng Trần Văn
Trà đánh giá: “Còn Minh, có lẽ do bản chất có phần thật thà, tin vào phù phép
của tả phò Martin và hữu trợ Mérillon, nên đã bị chúng gạt ra rìa từ lâu mà đến
giờ chót còn cố vươn vai gánh chịu cái đầu hàng vô điều kiện”(trang 283).
[21] Là một nhà nghiên cứu lịch sử có nhiều công trình khảo
cứu hết sức giá trị, ông Nguyễn Đình Đầu cho đến tận cuối đời vẫn giữ được tờ
Sự Vụ lệnh do cụ Hồ Chí Minh ký, cử ông vào Nam mua gạo cứu đói năm 1945. Về
sau, ông theo những người Công giáo di cư vào Nam. Hành động gợi ý và nhận lãnh
vai trò “đi sứ” vào trại Davis của ông có lẽ nhờ sự mẫn cảm thời cuộc hơn là
được giao nhiệm vụ. Về sau khi có tờ báo nói ông là tình báo viên của miền Bắc,
ông Nguyễn Đình Đầu nói ông cảm thấy như là bị xúc phạm.
[22] Tuyên bố ngày 26-4 gồm hai nội dung chính: “Mỹ phải thực
hiện nghiêm chỉnh Hiệp định Paris (ngừng bắn), tôn trọng quyền dân tộc căn bản
và quyền tự quyết của nhân dân miền Nam Việt Nam; xóa bỏ chính quyền Sài Gòn,
công cụ của chủ nghĩa thực dân mới của Mỹ, xóa bỏ bộ máy chiến tranh và bộ máy
kìm kẹp, đàn áp nhân dân miền Nam Việt Nam”.
[23] Ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa IX, X,
Thứ trưởng Bộ Giáo dục.
[24] Sau 1975 là phó giám đốc Sở Thương mại Thành phố Hồ Chí
Minh.
[25] Văn Kiện Đảng, tập 36-1975, 2004, trang 176.
[26] Xem Phụ lục 1: Sự thật lịch sử về tăng 390 và tăng 384.
[27] Tiến sỹ Huỳnh Văn Tòng, sinh viên Nguyễn Hữu Thái và nhà
báo Cung Văn đến Dinh Độc Lập sau khi nghe ông Dương Văn Minh tuyên bố ngừng
bắn trên đài phát thanh. Họ là những người hoạt động bí mật hoặc hoạt động
trong các phong trào do phía Cách Mạng lập ra trước năm 1975.
[28] Theo Đại tá Bùi Văn Tùng: “Những ngày đầu đài báo của
mình không nói rõ ai là người cắm cờ, nên đã xảy ra tranh chấp giữa Bùi Quang
Thận và đại úy Phạm Xuân Thệ. Trung tá Lữ đoàn trưởng 203 Nguyễn Tất Tài, lúc
này đã trở thành Phó Bảo Tàng Quân đội, hỏi anh Thệ: ‘Vậy anh có giữ lá cờ Ba
que không?’. Anh Thệ đưa ra một lá, anh Thận đưa ra một lá, cả hai cùng rách
diềm. Ông Tài, trong ngày 30-4 đã cẩn thận leo lên nóc Dinh, gỡ diềm ‘cờ Ba
Que’ còn vướng lại rồi lặng lẽ cất đi. Ông Tài cho trải cả hai lá cờ ra, ráp
diềm vào mới xác nhận được lá cờ anh Thận giữ là lá cờ cuối cùng được Chính
quyền Sài Gòn treo trên nóc Dinh Độc Lập”.
[29] Tạp chí Xưa & Nay, số 258, tháng 4-2006, và số 264
tháng 7-2006
[30] Sau chiến tranh là công nhân Phòng Thị chính, Thị xã
Thanh Hóa.
[31] Xưa & Nay, số 258 và 264, 2006.
[32] Giữa năm 1985, ông Phạm Xuân Thệ, lúc này đã đeo quân
hàm thiếu tướng lên tiếng trên báo Quân đội Nhân dân nhận rằng chính ông là
người bắt sống nội các Dương Văn Minh và tự tay thảo lời tuyên bố đầu hàng cho
Dương Văn Minh đọc. Ngày 19-10-2005, tại Thành phố Hồ Chí Minh, Viện Lịch sử
Quân sự đã tổ chức “Tọa đàm khoa học xung quanh sự kiện đánh chiếm Dinh Độc lập
ngày 30-4- 1975″ nhưng không mời các nhân chứng có mặt trong Dinh và Đài phát
thanh tại thời điểm trưa 30-4-1975; không mời các cán bộ, chiến sỹ của Lữ 203
và đơn vị đặc công 116. Để rồi, ngày 17-1-2006, Viện Lịch sử Quân sự đã ra kết
luận cho rằng “Tại Đài phát thanh đồng chí Phạm Xuân Thệ cùng các cán bộ, chiến
sỹ Trung đoàn 66 tổ chức soạn thảo lời Tuyên bố đầu hàng cho Dương Văn Minh.
Văn bản đang được soạn thảo thì trung tá Bùi Văn Tùng, Chính ủy Lữ đoàn tăng
203 xuất hiện, Từ đó, bộ phận cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 66 dưới sự chỉ đạo
của đồng chí Bùi Văn Tùng tiếp tục soạn thảo và hoàn chỉnh lời Tuyên bố đầu
hàng”.
Ngay sau khi công bố, Kết luận của Viện Lịch sử Quân sử
đã bị ông Bùi Văn Tùng, các các sỹ quan, chiến sỹ trên xe tăng 390 và kiến trúc
sư Nguyễn Hữu Thái, người có mặt tại Đài phát thanh trưa 30-4-1975, phản đối
(nhiều ý kiến đăng trên hai số báo Xưa & Nay, 258- tháng 4-2006, và 264
tháng 7-2006).
[33] Người ghi âm những tuyên bố lịch sử này là ông Nguyễn
Nhã. Lúc bấy bấy giờ, ông Nguyễn Nhã là giáo sư sử địa Trường Trung học Kiểu
mẫu Thủ Đức, thuộc Đại học Sư phạm Sài Gòn, chủ nhiệm kiêm chủ bút Tập san Sử
Địa, Đại học Sư phạm.
[34] Trả lời phỏng vấn của tác giả năm 1996, có tham khảo hồi
ký “Kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm” của Thượng tướng Trần Văn Trà.
[35] Xem Phụ lục 2: Tướng Big Minh sau 1975.
[36] Theo Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh.
[37] Trung đoàn trưởng Trung đoàn 1, đơn vị đánh vào Cần Thơ,
Vĩnh Long trong
ngày 30-4-1975.
[38] Phạm Văn Trà, 2009, trang 237-238.
[39] Theo Văn Tiến Dũng: “Chán nản và tuyệt vọng, Trần Văn
Hai tự sát vào lúc 3
giờ sáng ngày 1-5-1975”, tuy nhiên những người thân cận
Tướng Trần Văn Hai
nói ông tự sát vào chiều 30-4.
[40] Văn Tiến Dũng, 1976, 305.
BÊN
THẮNG CUỘC - HUY ĐỨC
TẬP I :
GIẢI PHÓNG
Phụ
Lục
Phụ lục 1 – Sự thật lịch sử về tăng
390 và tăng 384
Trong suốt hơn hai mươi năm kể từ ngày 30-4-1975, truyền thông
trong nước đã mặc nhiên thừa nhận chiếc xe 843 của Bùi Quang Thận đã húc đổ
cổng Dinhtrong khi sự thật chính là xe 390. Theo Trung tá Bùi Văn Tùng: “Sau
khi biết Thậnlà người cắm cờ, báo chí vây lấy cậu ấy. Chắc thằng Thận không
nói, nhưng các nhà báo suy ra Thận cắm cờ thì 843 của Thận phải là xe vào
trước. Khi về tới Long Bình, anh em đã báo cáo lên, xe 390 húc đổ cổng Dinh,
nhưng khi nghe báo nói xe 843 anh em cũng cho qua. Về sau, do vụ “ai cắm cờ” đã
khá bầm dập nên nhiều người nghĩ, cải chính làm chi cho phức tạp. Sau đó, Việt
Nam lại xung đột với Trung Quốc mà chiếc 390 là T59, viện trợ của Trung Quốc,
trong khi chiếc 843, T54, viện trợcủa Liên Xô nên càng không ai nghĩ tới việc
làm rõ sự kiện này”.
Lữ đoàn 203 có bốn chiếc tăng bị bắn cháy trước khi vào đến Dinh
Độc Lập. Vào lúc 9 giờ sáng, những chiếc tăng của Lữ 203 đã bị chặn lại trong
một trận đọ sức ác liệt giữa các chiến xa của hai bên. Tiểu đoàn trưởng Tiểu
Đoàn 1, Ngô Quang Nhỡ, mở nắp tháp pháo nhô người ra chỉ huy đã bị bắn xuyên
qua trán, chết khi chiến tranh kết thúc chỉ còn trong gang tấc. Chiếc tăng 866
khi chạy tới Thị Nghè cũng bị trúng đạn, một người chết ngay tại chỗ, một người
bị thương nặng rớt xuốngđường. Những người lính vào giờ phút ấy nhận ra sống
sót là tấm huân chương quan trọng nhất. Trong suốt hai mươi năm, bốn người lính
trên chiếc tăng 390 tiếp tục chiến đấu ở Campuchia, ở phía Bắc rồi lầm lũi mưu
sinh chứ không hề tìm kiếm vinh quang. Khi coi phim tài liệu, thấy Bùi Quang
Thận cầm một lá cờ rất to, loại cờ không chứa trong những chiếc xe tăng tiến
vào Dinh trong ngày 30-4, Thiếu úy Lê Văn Phượng lại tặc lưỡi nghĩ rằng, “lịch
sử đôi khi được làm bằng báo chí”.
Sáng 1-5-1975, khi rút về căn cứ Long Bình, Lê Văn Phượng đã viết
tường trình đúng như những gì xảy ra. Anh không biết cấp trên báo cáo ra sao để
“lịch sử thành văn” chỉ nhắc đến chiếc xe của Bùi Quang Thận. Những thước phim,
những bức ảnh “húc đổ cổng Dinh Độc Lập” được phục dựng đã thế chỗ sự thật và
số phận của những người được nói đến thật cách biệt với những người im lặng.
Bùi Quang Thận sau ngày 30-4 được điều về Bộ chỉ huy, còn Thiếu úy Lê Văn
Phượng và ê-kíp xe 390 được điều lên biên giới Tây Ninh, chuẩn bị cho cuộc
chiến ở Campuchia, rồi tháng 3-1979 lại được điều ra tham gia cuộc chiến tranh
phía Bắc. Ba người trên chiếc xe tăng 390 xuất ngũ năm 1981, một người, Lê Văn
Phượng, xuất ngũ năm 1986. Kể từ đó, bốn anh em không có điều kiện gặp nhau.
Thượng úy Lê Văn Phượng ra quân, về quê; năm 1992 anh học hớt tóc,
rồi dựng lều hành nghề ở bờ hào bên thành nhà Mạc, bị công an đuổi chạy lên,
chạy xuống. Sau, người lính đã cho xe tăng nghiến lên cổng Dinh Độc lập ấy đã
phải chạy về mở lán cắt tóc gần cổng Trường Sĩ quan Lục Quân ở Sơn Tây. Tuy
không tranh dành quyền lợi ở chốn quan trường, nhưng trong thẳm sâu, người lính
ấy cũng tự hào về những gì mà mình đã làm cho đất nước. Anh đem câu chuyện “húc
đổ cổng Dinh Độc Lập” ra kể với các con. Nhưng, ở trường, lịch sử được dạy
không giống như những gì đã xảy ra. Đứa con gái học tiểu học về khóc: “Bố nói
bố chỉ huy xe 390vào Dinh Độc lập trước tiên, con khoe với bạn học và cô, nhưng
bài học dạy, bác Bùi Quang Thận lái xe vào trước và cắm cờ trên Dinh. Chúng bạn
trêu con nói phét. Con xin nghỉ học”. Lê Văn Phượng chỉ biết phân trần với
chính quyền địa phương nhưng nào ai biết là anh đúng hay sách đúng.
Mãi tới năm 1995, khi nữ ký giả Pháp có tên là Francoise De Mulder
đến Việt Nam, những người lính tăng trên chiếc xe làm nên lịch sử ấy mới có dịp
gặp nhau. Francoise De Mulder là người phụ nữ mà sau khi tăng 390 cán qua cổng
Dinh đã chụp được tấm hình Lê Văn Phượng nhô đầu ra khỏi tháp xe và nhìn thấy
bà trongmột khoảng thời gian rất ngắn. Francoise De Mulder sinh năm 1944, sang
Việt Nam làm phóng viên ảnh từ năm 1963, lúc mười chín tuổi. Năm 1976, bà có
mặt ở Lebanon, nơi có hàng trăm người tị nạn Palestine bị hành quyết bởi lực
lượng vũ trang cánh hữu Phalang. Tại trại tị nạn ở quận Quarantaine – Beirut,
bà chụp được cảnh một phụ nữ đang van xin các binh lính tha chết cho chồng trên
một đường phố đang bốc cháy, ngay giữa thủ đô Beirut. Tấm hình này đoạt giải
nhất của Giải WPPA lần thứ 20, là ảnh báo chí xuất sắc nhất thế giới năm 1976.
Bà cũng là nữ ký giảảnh đầu tiên đoạt giải này. Năm 2003 De Mulder bị bệnh bạch
cầu và liệt người. Năm 2005, bà mất tại Paris, thọ 61 tuổi.
Năm 1995, tại Paris, bà Francoise De Mulder tổ chức triển lãm
những tấm ảnhbà chụp được trong ngày 30-4-1975. Những bức ảnh đã gây chú ý cho
một sỹ quan khi ấy đang làm tùy viên quân sự tại Pháp, anh đã giúp đỡ để đầu
tháng 3-1995, bà Francoise De Mulder về đến Việt Nam. Người đầu tiên mà bà gặp
là anh Nguyễn Văn Tập, lái tăng 390, khi ấy đang lái xe ba gác ở Thái Bình. Rồi
bà gặp anh Vũ Đăng Toàn, chính trị viên đại đội, khi ấy đang nuôi heo ở Hưng
Yên. Bà không tìmra anh Ngô Sỹ Nguyên, pháo thủ I, vì khi ấy anh Nguyên không
sống ở địa phương. Cuối cùng, bà đến Sơn Tây gặp Lê Văn Phượng đúng khi anh
đang hành nghề cắt tóc. Sau cuộc gặp đó, ngày 22-6-1995, Thiếu úy Lê Văn Phượng
được mời dự lễ kỷ niệm ngày thành lập Lữ đoàn 203, bấy giờ đã phiên thành Trung
đoàn xe tăng 203.
Ở đó, Lê Văn Phượng gặp lại Nguyễn Văn Tập và Vũ Đăng Toàn rồi cả
ba được vào tham quan Dinh, bấy giờ đã có tên là Dinh Thống Nhất. Khi đó, họ
mới biết chiếctăng 843 “hiện vật” vẫn được trưng bày tại Bảo tàng Tăng Thiết
Giáp, Hà Nội, còn chiếc “843” sau này trưng bày trong Dinh chỉ là một chiếc
tăng cùng loại được sơn và ghi số hiệu vào. Trong khi chiếc xe của Bùi Quang
Thận được sơn phết, bảo dưỡng, lau chùi, nâng niu từ sau 30-4-1975 đến nay,
tăng 390 vẫn rong ruổi trên chiến trường Campuchia, mãi đến sau 1995 mới được
đem về Bảo tàng Tăng Thiết Giáp.
Chuyến đi của Bà Francoise De Mulder được phát trên VTV và sau đó
được thể hiện lại trong một cuốn phim xúc động. Bốn chiến sĩ xe tăng 390 cũng
trở nên nổi tiếng nhưng là dưới một biệt danh mới do người xem đặt ra: Ông gác
đầm cá Vũ Đăng Toàn; Ông đánh giậm Nguyễn Văn Tập; Ông lái xe lam Ngô Sĩ
Nguyên; Ông cắt tóc bị công an đuổi ở Bờ Hào Lê Văn Phượng. Các học viên Lục
Quân sau khi biết Lê Văn Phượng qua bộ phim “Bốn chiến sĩ xe tăng 390” thường
để dành tóc “đem đầu” đến tiệm cắt tóc của ông; bảo vệ trường sỹ quan cũng
thương tìnhkhông đuổi. Sau một thời gian chạy xe lam, Ngô Sĩ Nguyên được một
anh bạn thanh lý cho một chiếc xe Gát 69 làm phương tiện vận chuyển hàng hóa
cho cácchủ hàng trên tuyến Hà Nội-Thường Tín. Nhằm giúp Nguyễn Văn Tập giải
quyết khó khăn, Bưu điện huyện Gia Lộc, Hải Dương, đã nhận anh vào làm bưu tá
xã. Năm 2003, khi xem một chương trình giao lưu với bốn chiến sĩ xe tăng 390,
một trí thức và là một nhà doanh nghiệp đã liên lạc với bốn chiến sĩ xe tăng
390, viết thư cho từng anh, tự giới thiệu mình là chủ tịch hội đồng quản trị
một công ty, mời các anh lên thăm. Từ tháng 11-2003, Vũ Đăng Toàn được công ty
này mời về phó giám đốc một xí nghiệp sản xuất sơn giao thông và ông Nguyễn Văn
Tập cũng được mời về đây vừa làm thủ kho, vừa điều khiển xe nâng hàng. Những
“người hùng” kể về sự tiếp nhận của nhà doanh nghiệp này như một sự hàm ơn.
Phụ lục 2 – Tướng Big Minh sau 1975
Tướng Dương Văn Minh đã từng quyết định ở lại để “làm dân một quốc
gia độc lập”, nhưng cho dù được ông Võ Văn Kiệt đối xử trân trọng, cuối thập
niên 70 ông vẫn quyết định rời Việt Nam. Không chỉ do cuộc sống có những khó
khăn mà có lẽ những gì xảy ra lúc ấy ở miền Nam cũng khiến lòng ông giằng xé.
Tuy nhiên, ông tỏra hết sức cẩn trọng trong mọi ứng xử. Trước khi sang định cư
ở Pháp, ông Minh hỏi bà Năm Mè (Bùi Thị Mè), “thứ trưởng” Bộ Y tế của “Cộng hòa
Miền Nam” và là bạn từ thiếu thời của ông: “Tổng Lãnh sự Pháp mời cơm tôi, theo
chị tôi có nên nhận lời không?”. Bà Mè đem chuyện hỏi ông Võ Văn Kiệt, ông Kiệt
nói: “chị kêu ảnh cứ gặp và chị nhớ đừng nói gì để anh ấy nghĩ là tôi dặn dò.
Con người như thế mình nói gì thêm với họ là không cần thiết”. Trong bữa cơm
với Lãnh sự Pháp, ông Tổng Lãnh sự hoan nghênh vợ chồng ông Minh đã chọn Pháp
làm nơi cư trú, ông nói: “Ngài Đại sứ gửi lời thăm và muốn tôi nói với ông là
Chính phủ Pháp sẽ lo hết chuyến đi củaông”. Ông Dương Văn Minh đã đáp lại: “Tôi
xin cám ơn, Chính phủ của tôi đã lohết”. Trước khi ông Minh đi Pháp, ông Kiệt
kêu Thư ký Phạm Văn Hùng bố trí ở nhà bà Năm Mè một “bữa cháo gà”, theo lời ông
Hùng thì hai người đã nói chuyện với nhau suốt nhiều giờ tâm đắc.
Năm 1984 khi dự Quốc khánh Cộng hòa Dân chủ Đức, sau đó đi thăm
chính thức Algeria, trên đường về, ông Võ Văn Kiệt có ghé qua Pháp thăm ông
Dương văn Minh, hai người đã trò chuyện khá lâu và theo ông Kiệt là rất cởi mở.
Trong những ngày ở Pháp, Tướng Dương Văn Minh vẫn liên lạc với bà Năm Mè. Trong
một bức thư viết tay đề ngày 28-8-1988, ông tâm sự: “Ở Montheny được cái yên
tĩnh như ở làng bên mình nên tôi và “nhà tôi” rất khỏe. Cũng nhờ không khí ở
đồng nên sức khỏe tốt. Đau ốm thì có bác sĩ và thuốc men đầy đủ, mỗi hai tháng
đi khám sức khỏe một lần, về cả thử máu (thử đủ chuyện). Tất cả đều được miễn
phí nên được yên tâm phần nào. Nhưng dẫu sao cũng nhớ nhà lắm chị Năm ơi! Nhớ
bạn bè, nhớ bà con thân thuộc. Nhớ người nầy, nhớ người kia, nhất là nhớ mẹ tôi
năm nay đã già mà tôi ở xa quá. Ở nhà còn hai đứa em trai và một đứa em gái
nhưng tôi thấy tụi nó không biết lo cho mẹ già đúng mức…” Trong thập niên 90,
khi tình hình trongnước đã khá dần lên, bản thân ông Võ Văn Kiệt cũng muốn ông
Dương Văn Minh trở về Việt Nam như một minh chứng cho “Đổi mới”. Năm 1994, khi
ông Hồ NgọcNhuận đi Pháp, có đến thăm ông Minh và tất nhiên là có chuyển lời
mời của ông Võ Văn Kiệt.
Một bức thư của bà Năm Mè gửi cho ông Dương Văn Minh vào giữa thập
niên 90 cho thấy việc xúc tiến đón ông trở lại Sài Gòn đã được làm khá tích
cực. Bức thư viết: “Anh Hai kính mến! Năm mới chúng tôi xin chúc Anh: sức khỏe,
hạnh phúc. Tôi có nhận 2 fax của cháu Đức. Chưa trả lời được cho cháu vì tôi bị
cấp cứu về tim. Được fax anh, tôi vội trả lời để anh yên tâm. Tôi đã chuyển lời
chúc tết của anh đến các anh em. Về chuyện nhà của anh Hai đừng bận tâm, anh em
đã lo. Lài đã xây xong nhà, qua tết gia đình Lài sẽ dọn đi. Anh Hai cứ lo việc
về, anh em dặn tôi viết thư cho anh để anh yên tâm… Không có gì trở ngại, anh
Hai đừng lo. Anh cứ xúctiến việc về. Mọi người đều kiểm tra nhà Lài. Bà Bảy
cũng đã hứa. Sáng nay anh em cho biết sau tết là gia đình Lài sẽ dọn về nhà
mới. Trong việc Anh sẽ không có gìkhó khăn, mọi người đều mong Anh. Kính chúc
anh sức khỏe và được đón anh một ngày rất gần đây. Các cháu rất mong cậu Hai.
Nhà cửa sữa xong rồi. Kính mến”. Kèm theo bức thư của bà Năm Mè, Luật sư Trần
Ngọc Liễng viết: “Kính anh Minh thân mến! Tôi hoàn toàn đồng ý với chị Năm Mè
về việc yên ổn cho Anh khi trở về đây. Riêng tôi thấy có sự lưu ý giúp đỡ của
các bạn của chị Năm thì trăm việc không có sơ sẩy điểm nào. Điều cần thiết là
vấn đề sức khỏe của anh và sự bình yên về tâm trí thì đâu cũng là hạnh phúc cho
cá nhân và cho mọi người xungquanh. Kinh chào thân mến. Liễng”.
Trong bức thư gửi bà Năm Mè đề ngày 10-4-1996, ông Dương Văn Minh
đã rất nôn nóng. Ông viết: “Tôi có nhận được thơ của chị. Mỗi lần đọc thơ và
tin tức ở quê hương là tôi muốn, phải chi có cánh bay về ngay thì vui biết mấy.
Nếu bữa nay tôi viết chữ không được ngay ngắn, khó đọc xin chị thứ lỗi cho. Vì
tôi vừa mổ xong mắt trái đến nay mỗi tuần phải đi bác sĩ khám. Có lẽ đến tháng
septembre (tháng 9) họ mới mổ con mắt thứ nhì. Phải đợi lâu vì bên này họ quá
kỹ và đông người mình phải đợi đến phiên mình. Tôi rất nóng lòng, lúc nào cũng
mong đâu đó cho mổ để vềsớm mà cứ bị kẹt chuyện này chuyện nọ hoài bực quá. Có
điện nhờ chị thưa với anh Sáu để anh Sáu được rõ lòng tôi. Viết đến đây, cay
mắt quá nghĩ chút sẽ viết tiếp nghe chị… Tội nghiệp Đức, lúc nào nó cũng cố
gắng tìm đủ cách để giúp tôi về nước đến với quê hương. Lúc nào nó cũng đặt hết
hy vọng nơi anh Sáu và chị. Nó tính làsẽ thành công. Theo những câu chuyện của
nó, tôi thấy nó và Đạo (con trai bà Năm Mè- HĐ) rất hợp ý nhau. Thấy vậy tôi
rất mừng. Tôi về được quê hương gặp lại mấy cháu chắc là vui lắm. Hy vọng sớm
gặp nhau. Thương nhớ”.
Về sau, Bà Năm Mè có sang Pháp để gặp ông Dương Văn Minh, không rõ
câu chuyện ra sao mà từ đó ông Minh bắt đầu suy nghĩ lại. Sau khi ông Minh mất
tại Mỹ (6-8-2001), Dân biểu Nguyễn Hữu Chung, người đã đọc Điếu văn trong Lễ
tang Tổng thống Dương Văn Minh, có gửi email cho ông Hồ Ngọc Nhuận. Email, đề
ngày 29-1-2004, viết: “Có mấy chuyện tôi muốn nói để anh rõ. Chuyện ông
TướngDương Văn Minh: Sau khi bà Minh mất, ông Minh rất buồn, nhất là vì hai con
dâu đối đãi với ông Minh không được đàng hoàng lắm. Trước tình trạng đó, ông
Minh muốn về Việt Nam sinh sống, ông có hỏi ý tôi và tôi đã OK, chỉ cho ý kiến
là về ViệtNam không nên ở “Hồng Thập Tự” (Dinh Hoa Lan) mà nên lên Thủ Đức ở vì
Thủ Đức là nhà của ông trong khi nhà đường Hồng Thập Tự là nhà của Nhà nước.
Ông cũng không nên có một hoạt động gì cả (Tôi cảnh giác ông Minh điều này vì
thấy ở Việt Nam có nhiều phe quá, chưa chi đã có phe chửi bới ông, họ nói Nhà
nước cho ông về vì xưa kia ông đã được Cách mạng móc nối…Công việc của ông Minh
càng phức tạp hơn khi Đức (con trai của ông) đi về Việt Nam vận động cái gì đó
và có gặp ông Võ Văn Kiệt. Ông Kiệt có gửi cho ông Minh một cái thư mời ông
Minh về, lời lẽ rấtdễ thương (mà ông Minh có gửi cho tôi bản sao). Trong thời
gian đó lại có bà Mè, chị vợ của anh Lý Chánh Trung hay tới lui thăm viếng, tạo
một bầu không khí cách mạng náo nhiệt chung quanh ông Minh khiến nhiều người
thân với ông (trong đó có mấy người bạn ông và chị Mai con gái lớn của ông)
không bằng lòng. Tới một lúc nào đó, ông Minh thấy mình không chịu nổi cái ồn
ào ở Paris nên ông đi Mỹ ở với chị Mai. Sau vài lần đi về như thế, ông thấy có
thể ở yên bên Mỹ nên ông quyết định ở luôn”.
Cũng năm 2004, khi xem lá thư nói trên của Dân biểu Nguyễn Hữu
Chung, ông Võ Văn Kiệt cho biết là cá nhân ông Đỗ Mười cũng cho người tiếp xúc,
với ý định mời ông Dương Văn Minh về tham gia Mặt trận Tổ quốc. Theo ông Hồ
Ngọc Nhuận, vị sứ giả mà ông Đỗ Mười phái đi gặp ông Dương Văn Minh là cựu Chủ
tịch Thượng viện, bà Lê Phước Đại. Ông Nguyễn Hữu Chung tâm sự tiếp với ông Hồ
Ngọc Nhuận trong email đề ngày 29-1-2004: “Tôi có thể nói rằng nếu tôi khuyên
ông Minh về Việt Nam thì ông đã về vì rất nhiều lần ông hỏi ý, và còn có ý rủ
tôi cùng về. Nhưng tôi cảm thấy có một sự bất ổn nào đó nên đã không khuyên ông
về. Tội nghiệp ông đã phải sống những năm chót trong sự cô đơn, về Việt Nam
sống thì chắc vui hơn. Tôi hơi mệt nên xin phép anh tạm ngưng bút. Hẹn thư sau.
Về bài Điếu văn hôm đám ma ông Minh, tôi có nhờ anh Trần Văn Sơn chuyển cho
anh. Hy vọng anh đã nhận được. Chung”. Đây chính là bức thư cuối cùng của ông
Nguyễn Hữu Chung gửi cho ông Hồ Ngọc Nhuận. Ông Chung sau đó đã mất ở Canada vì
bệnh ung thư.
Theo ông Nguyễn Hữu Chung, ông Hồ Ngọc Nhuận và những người thân
khác, Tướng Dương Văn Minh đã lặng lẽ ra đi mà không hề để lại một dòng hồi ký.
Ông Minh có lẽ đã khôn ngoan quyết định cứ để cho người đời bàn cãi về việc ai
đã ra lệnh giết hai anh em nhà Ngô Đình Diệm; về việc vì sao lại chọn cách đi
vào lịch sử như một kẻ đầu hàng.
Nguồn:
bodoilambao Được bạn: mọt sách đưa
lên vào ngày: 4 tháng 1 năm 2013
No comments:
Post a Comment