BÊN
THẮNG CUỘC - HUY ĐỨC
TẬP I :
GIẢI PHÓNG
PHẦN I :
MIỀN NAM
Chương II : Cải Tạo
Những bàn bạc bên
trong, quan điểm của chính quyền trong việc đối xử với “ngụy quân, ngụy quyền”,
những thủ thuật được áp dụng để đưa sĩ quan vào trại cải tạo; số phận của những
người tù không án, không biết ngày về và những bi kịch mà người thân của họ
phải nhiều năm gánh chịu. (Những ngày đầu/ “Ngụy Quyền”/ “Ngụy Quân”/ “Đoàn
tụ”/ “Phản động”/ Tù và cải tạo/ “Thăm nuôi”/ “Học tập”).
*
*
Sau hai mươi năm
chia cắt, lịch sử đã đặt nhiều gia đình miền Nam vào những tình huống vô cùng
nghiệt ngã. Có những gia đình trong khi vui mừng đón đứa con “nhảy núi” trở về
thì đứa con “nguỵ” đang phấp phỏng nằm chờ trên gác; có những cán bộ cao cấp từ
Hà Nội vô mới biết đứa con mà khi tập kết mình để lại đã trở thành “lính nguỵ”.
Dù 175 nghìn khẩu súng các loại đã được giao nộp ngay trong mấy ngày đầu tiên
sau 30-4, nhưng hơn nửa triệu sỹ quan, binh lính Việt Nam Cộng Hòa tan rã thì
vẫn đang nhà ai nấy ở. Tất cả đều căng ra chờ đợi.
Những
ngày đầu
Lữ
đoàn 203 được lệnh rút về Long Bình lúc 5 giờ chiều ngày 30-4, nhường công việc
chiếm đóng Dinh và bảo vệ Sài Gòn cho Quân đoàn IV. Nhưng, theo ông Bùi Văn
Tùng, gần một trăm chiếc tăng của ông đã không thể di chuyển, vì giờ
đó người dân Sài Gòn bắt đầu đổ ra đường. Sau những giờ phút căng thẳng
nhất, như sợi dây căng hết cỡ đã đứt tung ra, mọi người Việt Nam, kể cả những
người lính, cho dù ở phía nào, đều cảm thấy chiến tranh kết thúc!
Chiến
tranh kết thúc. Cái cảm giác ấy, thoạt tiên cũng im ắng như thành phố lúc vừa
thôi tiếng súng, đột nhiên vỡ tung. Dòng người òa ra, tràn ngập đường phố. Một
vài thanh niên, học sinh mạnh dạn tiến vào vườn hoa trước Dinh Độc Lập, sờ vào
những chiếc tăng T54, những chiến xa bấy giờ đã không còn phải bắn, đang nằm
lặng lẽ.
“Việt Cộng” trên những chiếc xe tăng vừa húc đổ cánh cổng cuối cùng, giờ đây, vừa có cái cảm giác viên mãn của những người chiến thắng, vừa có cái nhẹ nhõm của những người lính đã bước qua ngưỡng của sự khốc liệt, trở nên độ lượng, hiền lành. Thái độ này của các “chú bộ đội” đã kéo đoàn người đến với những chiếc T54 đông dần lên. Họ bắt đầu tìm hiểu những khái niệm về “Việt Cộng”, nhiều người “tiến lên”, hỏi thêm về “miền Bắc”. Chưa ai thực sự biết điều gì sẽ xảy ra cho thành phố, cho mình, nhưng vẫn thấy nhẹ nhõm và có không ít người còn cảm thấy mừng.
Đêm
30-4, ở khu vực trường Petrus Ký mất điện một lúc. Một vài chiếc tăng của Quân
Giải phóng được lệnh chạy ra đường để “thị uy”. Sáng 1-5, mới khoảng 7 giờ,
công chức, giáo viên Petrus Ký thấy “Cách mạng” đóng trong trường, lục tục ra “trình
diện”. “Quân quản” lúc bấy giờ ai nấy vẫn còn bận đồ bà ba đen, tỏ ra rất lúng
túng. Ông Kiệt giao cho ông Dương Minh Hồ, cán bộ Văn phòng Thành ủy, đi kiếm
bộ đồ “coi được” ra tiếp các thầy cô giáo.
Ngay
trong đêm 30-4, những cán bộ của Đài Phát thanh Giải Phóng từ trên R về đã tiếp
quản Đài Phát thanh Sài Gòn và phát sóng những mệnh lệnh đầu tiên của Ủy ban
Quân quản về trật tự, an ninh, về thu nạp vũ khí chất nổ. Đa số các
“lệnh” đã được ông Hà Phú Thuận, chánh Văn phòng Trung ương Cục, “soạn thảo”
theo chỉ đạo của Đảng Uỷ Đặc biệt từ khi còn ở trên R.
Không
chỉ có niềm vui của những người đi từ trong rừng ra. Trong những ngày đầu, một
số quan chức của Chính quyền Sài Gòn cũng nuôi hy vọng. Tiến sỹ Nguyễn Văn
Hảo là một trong số đó. Trưa ngày 30-4-1975, ông Hảo có mặt ở Dinh Độc Lập vì
cho đến khi chiếc tăng 390 cán lên thềm Dinh, Chính phủ của Tổng thống Dương
Văn Minh vẫn chưa kịp nhận bàn giao. Khi ấy, Thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn đã di tản.
Ông Hảo, Phó thủ tướng, trở thành người còn lại có cương vị cao nhất trong
Chính quyền Trần Văn Hương.
Trước
đó ít hôm, ông Hảo có kêu ông Hồ Ngọc Nhuận. Khi ông Nhuận tới nhà, ông Hảo bỏ
bữa cơm tối, đưa ông Nhuận lên lầu và nói: “Tôi có việc muốn nhờ ông truyền đạt
đến Cách mạng. Một là về mười sáu tấn vàng, người ta nói ông Nguyễn Văn Thiệu
mang đi, nhưng thật sự là tôi đã giữ lại được41. Hai là về nạn thất thoát chất
xám. Tôi đã thuyết phục được một số anh em chuyên viên, trí thức ở lại, nhưng
không xuể. Cách mạng phải làm gì đó, phải nói cái gì đó càng sớm càng tốt”.
Sáng
3-5-1975, Ủy ban Quân quản ra thông báo: “Cuộc tổng tiến công nổi dậy của quân
dân miền Nam ta nhằm đập tan ngụy quyền tay sai Mỹ đã giành được thắng lợi
hoàn toàn. Thành phố Sài Gòn, thành phố được vinh dự mang tên Chủ tịch Hồ Chí
Minh vĩ đại, đã hoàn toàn giải phóng. Để nhanh chóng ổn định trật tự
an ninh trong thành phố, xây dựng trật tự cách mạng mới, củng cố và phát
huy quyền làm chủ của nhân dân. Để nhanh chóng khôi phục và ổn định đời sống
bình thường của các giới đồng bào trong thành phố Sài Gòn – Gia Định. Căn cứ
quyết định của Chánh phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam, chúng
tôi xin thông báo danh sách Uỷ ban Quân Quản thành phố Sài Gòn – Gia Định”.
Ủy
ban Quân quản lúc ấy gồm chủ tịch – Thượng tướng Trần Văn Trà, và các phó chủ
tịch – Võ Văn Kiệt, Mai Chí Thọ, Thiếu tướng Hoàng Cầm, Thiếu tướng Trần Văn
Danh và ông Cao Đăng Chiếm.
Khi
chiến dịch bắt đầu, Mặt Trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam đã tuyên truyền về
việc sẽ lập ở miền Nam một “chính phủ ba thành phần”. Tuy nhiên, khi cờ đã được
cắm trên Dinh Độc Lập, Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn quyết định dẹp bỏ ý tưởng này.
Ngày 1-5-1975, Tố Hữu đã chuyển “lệnh” tới Trung ương Cục:
“Gửi anh Tám, anh Bảy [Nhờ Trung ương Cục
chuyển anh Tám]. Xin báo để các anh biết: Theo ý kiến anh Ba42, về Chính phủ,
không còn vấn đề ba thành phần. Cấu tạo Chính phủ không thể có bọn tay sai Mỹ,
không để cho Mỹ có chỗ dựa và phải làm cho quần chúng thấy rõ sức mạnh, thế
mạnh của cách mạng; ta vừa phát động quần chúng lại vừa buộc Mỹ phải thay đổi
chiến lược. Chính phủ thể hiện tinh thần đó phải gồm ta và những người yêu
nước, thật sự tán thành lập trường hoà bình độc lập, dân chủ, hoà hợp dân tộc,
thống nhất Tổ quốc của ta. Bộ Chính trị chủ trương đối với những người đã đầu
hàng ta như Dương Văn Minh chẳng hạn thì không bắt, nhưng cần có cách quản lý,
giám sát, ta chỉ trừng trị bọn phá hoại hiện hành… trong khi phát động phong
trào quần chúng hành động cách mạng, chú ý chọn lọc, bồi dưỡng cốt cán trong
quần chúng. Để có đủ cán bộ kịp tung ra phát động quần chúng, nên chọn một số
cán bộ của Đảng, đoàn thể và cán bộ quân đội, huấn luyện ngắn ngày về chính
sách, về phương pháp công tác, về kỷ luật. Khi tổ chức lễ mừng trong cả nước,
theo ý kiến Bộ Chính trị, nên có đoàn đại biểu miền Nam ra dự mít tin ở Hà Nội
và có đoàn Miền Bắc vào dự ở Sài Gòn. LÀNH43” .
Ngày
6-5-1975, ông Võ Văn Kiệt đi cắt tóc chuẩn bị lễ ra mắt Ủy Ban Quân quản. Người
thợ cắt tóc thấy một ông đứng tuổi đi xe U-oát tới, trong khi cắt tóc có bộ đội
đứng chờ, tuy không biết rõ ông là ai, nhưng cắt tóc cho ông xong, đã lễ phép
cúi chào, ông trả tiền thế nào cũng không chịu lấy. Xe U-oát của ông Kiệt đi
tới đâu, người dân tránh ra nhường chỗ rộng rãi cho đi. Những xe khác của “Quân
Giải Phóng” cũng được cư xử như vậy.
Nhiều
tuần sau đó, “các chú bộ đội” đi xe buýt không phải trả tiền và người dân bắt
đầu làm quen với những chiếc xe quân sự chạy vô đường cấm. Ông Võ Văn Kiệt nhớ
lại: “Lúc đó, uy thế của cách mạng trùm lên tất cả”. Ngay cả những “tên ác ôn”,
kẻ cướp giật, các băng nhóm cũng chỉ lo giữ thân hoặc xem xét, theo dõi. Nhưng
cũng có những người quá hăng hái. Hầu hết đàn ông trong cư xá Ngân hàng tại An
Phú, Thủ Đức nơi ông Huỳnh Bửu Sơn cư ngụ giờ đó đã di tản hoặc bị đưa đi cải
tạo. Một người gác-dan, lâu nay vẫn được gọi là “thằng Vàng”, bỗng dưng xưng
một cái danh rất kêu, nhảy ra nắm lấy chức Trưởng ban Quản trị Cư xá.
Những
phụ nữ còn lại trong Cư xá, vốn lâu nay được coi như là các mệnh phụ phu nhân,
không chịu. Họ họp lại và bầu ông Huỳnh Bửu Sơn lên thay. Ông Sơn nhanh nhảu
gửi lên xã báo cáo kết quả ông được bầu chọn là Trưởng Ban. Báo cáo được đóng
dấu từ con dấu mà Cư xá vẫn dùng từ trước.
Lập
tức, ông Huỳnh Bửu Sơn bị triệu tập. Ông vừa ngồi xuống ghế, đã có hai bộ đội
xách AK ra hỏi: “Anh biết tội gì không?”. “Dạ không”. “Cách mạng đã giải phóng
rồi mà anh vẫn còn sử dụng con dấu của Ngụy. Tội anh đáng bắn. Nhưng thôi, từ
nay, ông này là Trưởng Ban”. Người bộ đội nói rồi chỉ tay qua ông Vàng, hình
như đã có mặt ở đấy từ trước.
Câu
chuyện của ông Huỳnh Bửu Sơn không phải là hy hữu. Ngày 29-6-1975, một cuộc
“đấu tố” với hơn “2000 dân” đã được nhóm họp trước chợ Thanh Đa:
“Đồng bào đã sôi nổi tố cáo những tên Lô
trưởng Cư xá, điển hình là Lê Văn Minh, Trưởng Lô 9, nguyên là một viên chức
Ngụy quyền, nay tự xưng là người của Cách mạng… Phát huy tinh thần làm chủ Cư
xá, đồng bào đã yêu cầu chánh quyền loại bỏ 24 tên lô trưởng phản động do Ngụy
quyền để lại”
[44].
Cuộc
cướp chính quyền sớm nhất ở Sài Gòn được nói là đã diễn ra vào lúc 7 giờ sáng
ngày 30-4-1975 tại phường Trần Quang Khải, quận Một. Chi bộ Đảng bí mật ở đây
đã cho vây bót Tân Định, tước vũ khí của những cảnh sát vào giờ ấy chỉ mong sớm
được về với gia đình. Ngay sau khi Đại tướng Dương Văn Minh tuyên bố Bàn giao
chính quyền, ở Quận 11, cờ cũng được cắm trong Dinh Quận trưởng.
Tiến
trình “cướp chính quyền” và xây dựng chính quyền thường được bắt đầu như trường
hợp ở phường Cây Bàng: “Khi tiếng súng của quân Giải phóng bắn tới tấp vào các
căn cứ quân sự của địch, nhân dân Phường Cây Bàng đồng lòng nổi dậy phá kềm,
truy quét kẻ địch, giành quyền làm chủ về tay mình và tràn ra đường
đón chờ quân giải phóng. Khi các chiến sĩ ta tiến vào, đồng bào mừng reo,
hoan hô nhiệt liệt. Ngay sau khi dẹp xong giặc, uỷ ban nhân dân cách mạng lâm
thời tự quản được thành lập. Các tổ chức nhân dân cách mạng cũng được khẩn
trương xây dựng. Đến nay, 2-5, Phường Cây bàng đã thành lập xong Tổ An ninh,
Hội Mẹ giải phóng, Tổ Thông tin Tuyên truyền, Tổ Y tế và Uỷ ban tự quản. Đang
xúc tiến thành lập Tổ Cứu đói và Phòng chống Hoả hoạn”45.
Trước
30-4-1975, tại Sài Gòn có 735 đảng viên tại chỗ. Trung ương Cục bổ sung thêm
2.820 cán bộ đảng viên từ trong các cơ quan của R về. Nhưng đến cuối tháng
5-1975, số đảng viên đã nhanh chóng tăng lên đến 6.553 người. Những chiến sỹ
cách mạng nằm vùng, những người từ trong các căn cứ kháng chiến ra và các “cán
bộ 30-4”, nhanh chóng nắm giữ các vị trí then chốt của thành phố, kiểm soát Đài
Phát thanh, thành lập báo Sài Gòn Giải Phóng và điều hành một hệ thống đoàn thể
xuyên suốt từ Thành phố cho đến các thôn ấp.
Không
chỉ có “Cách mạng 30-4”, ông Võ Văn Kiệt thừa nhận, không ai trong số những
người tiếp quản Sài Gòn năm 1975 có kiến thức về quản lý nhà nước. Mục tiêu lớn
nhất đặt ra trong những ngày đầu là nhanh chóng ổn định trật tự xã hội, ổn định
chủ yếu bằng các giải pháp chính trị. Riêng các cơ sở kinh tế, giáo dục, y tế…
thì dự định từ trong R là sẽ để cho các ngành, chủ yếu từ miền Bắc vào, tiếp
quản những cơ sở có liên quan đến ngành mình.
“Ngụy
Quyền”
Theo
ông Nguyễn Văn Trân, Ủy viên Thường vụ Trung ương Cục: “Khi tiếp quản miền Bắc,
cụ Hồ cho lưu dụng hầu hết các viên chức trong bộ máy hành chánh cũ và bảo lưu
mức lương cũ còn cao hơn cả lương chúng tôi. Cụ Hồ còn đảm bảo tính kế thừa nhà
nước bằng cách công nhận hiệu lực tiếp tục của một số sắc luật có từ thời Pháp.
Công việc xây dựng chính quyền mới, vì thế không nặng như khi chúng tôi làm ở
Sài Gòn”.
Hệ
thống hành chánh của Sài Gòn bắt đầu được thiết lập quy củ từ thời Tổng thống
Ngô Đình Diệm. Ông Diệm vốn là một quan Thượng thư Triều Nguyễn, nhưng khi nắm
quyền đã thay đổi phương thức tuyển chọn quan lại thông qua các kỳ thi Hương,
thi Hội, thi Đình, bằng việc thành lập trường Quốc Gia Hành Chánh. Trường Quốc
Gia Hành Chánh đào tạo: tham sự, hệ hai năm cho các chức vụ như trưởng ban,
trưởng phòng của các ty; đốc sự, hệ bốn năm cho các chức vụ phó quận, trưởng
ty; và bậc cao học cho các viên chức hành chánh cấp bộ. Cho đến năm 1960, chức
tỉnh trưởng thời ông Diệm vẫn là một viên chức chính trị.
Khi
Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam ra đời, đường lối Cách mạng miền Nam được
xác định là phải bằng “con đường bạo lực”, ông Diệm đáp lại bằng cách “quân sự
hoá bộ máy”, bổ nhiệm các quân nhân đứng đầu cơ quan hành pháp cấp tỉnh, cấp
huyện. Một viên chức từ trường Quốc Gia Hành Chánh ra, đương là quận trưởng,
nếu muốn tiếp tục, phải ra Nha Trang học một khóa quân sự sáu tháng. Ngược lại,
một thiếu tá tiểu đoàn trưởng có năng lực có thể được bổ nhiệm quận trưởng sau
khi trải qua một lớp về bộ binh cao cấp và một lớp sáu tháng về khoa học hành
chánh, và sau đó về thực tập sáu tháng dưới quyền một viên phó quận trước khi
được bổ nhiệm làm quận trưởng.
Tuy
nhiên, hành chánh vẫn được coi là một vấn đề cực kỳ chuyên môn, nên dưới thời
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, đã có những trì trệ trong việc xử lý nhu
cầu hành chánh cho dân, bởi các vị quận trưởng quan tâm đến quân sự hơn.
Thủ tướng đã cùng với Bộ Nội vụ ký một hướng dẫn, theo đó, các tỉnh trưởng,
quận trưởng phải ủy quyền bắt buộc cho cấp phó. Dưới chế độ Sài Gòn, cấp tỉnh,
cấp quận chỉ có một cấp phó và người này phải là đốc sự tốt nghiệp từ Quốc Gia
Hành Chánh ra.
Ở
cấp phường xã, tuy không đòi hỏi phải tốt nghiệp từ trường này, nhưng một xã
trưởng, ấp trưởng sau khi được bầu hay một trưởng phường sau khi được bổ nhiệm
đều phải đi học sáu tháng ở Trường Đào tạo Cán bộ Xã Ấp. Tổng Thống Nguyễn Văn
Thiệu đánh giá cao vai trò của cán bộ phường xã tới mức ông thường xuyên có mặt
trong lễ khai giảng và bế giảng các lớp học này và nói với các học viên: “Tôi
là tổng thống trung ương, các anh là tổng thống địa phương”.
Tuy
nhiên, “Chính quyền Việt Nam Cộng Hoà từ Trung ương tới địa phương” trước khi
có tuyên bố của Đại tướng Dương Văn Minh đã bắt đầu “tan rã”. Khoảng gần 200
nghìn người có quan hệ với người Mỹ hoặc đang làm việc trong bộ máy chính quyền
cũ đã kịp thời “di tản” trong vài tuần lễ trước “30-4”. Số còn lại gần như cũng
đã ý thức được tình thế của mình, tự động “bỏ trống nhiệm sở”. Nhưng cho dù họ
có ở lại, thì với mục tiêu của cuộc chiến tranh kể từ sau Hiệp định Paris là
“đập tan bộ máy của chính quyền tay sai”, việc những người chiến thắng sử dụng
chuyên môn của những viên chức có trình độ cao trong bộ máy Sài Gòn là điều khó
xảy ra.
Công
Điện ngày 18-4-1975 của Ban Bí thư xác định đối tượng làm việc trong chính
quyền cũ được lưu dụng: “Ta cần có chính sách mạnh dạn sử dụng những người thật
thà phục vụ cách mạng, nhất là công nhân, lao động, cán bộ kỹ thuật, trừ những
phần tử thù địch, bọn mật vụ, bọn phá hoại hiện hành…”. Theo Chỉ thị ngày
19-4-1975, cũng của Ban Bí thư, với cấp nhân viên, sau khi “được giáo dục” tại
phường, xã: “a, Đối với những tên thật thà hối cải thì tạo điều kiện cho họ
tiến bộ, lập công chuộc tội; b, Đối với số cảnh sát, cứu hoả thì có thể sử
dụng, trừ bọn ác ôn phản động và ta phải đưa cán bộ cốt cán vào để quản lý
giáo dục…”. Từ cấp quận phó trở lên, và hầu hết các chỉ huy cảnh sát từ cấp đội
trở lên… đều thuộc diện đưa đi tập trung cải tạo dài hạn.
Một
“đồng chí” được giới thiệu là “trưởng Ban Tuyên huấn An ninh Miền” đã từng công
khai tuyên bố: “Việc học tập cải tạo đối với công chức, nhân viên nguỵ quyền sẽ
phải công phu và gian khổ về tinh thần hơn so với nguỵ quân vì công chức cao
cấp nguỵ quyền là những người trực tiếp hoặc tham gia tích cực vào bộ máy kềm
kẹp nhân dân. Họ được huấn luyện kỹ càng do đó, ảnh hưởng chế độ cũ về mặt nhận
thức và tư tưởng khá sâu”46.
Sau
ngày “giải phóng”, các chủ trương của nhà nước cũng chủ yếu được vận hành thông
qua các phong trào chính trị, cho dù có sử dụng “ngụy quyền” lưu dụng thì kiến
thức chuyên môn của họ cũng không biết để làm gì. Chưa kể, trong con mắt của
chính quyền, theo “đồng chí Trưởng Ban Tuyên huấn An ninh Miền”: “Họ được huấn
luyện kỹ càng để tham gia tích cực vào bộ máy kìm kẹp nhân dân”47.
“Ngụy
Quân”
Một tuần sau, ngày 5-5-1975, Ủy Ban Quân quản
Sài Gòn ban bố: “Mệnh lệnh số 1 về việc
ra trình diện, đăng ký và nộp vũ khí của sĩ quan, binh lính, cảnh sát, và nhân
viên ngụy quyền: Điều I: Tất cả các sĩ quan, binh lính, cảnh sát, tình báo mật
vụ, nhân viên ngụy quyền trong thành phố Sài Gòn và tỉnh Gia Định đều phải ra
trình diện và đăng ký. Thời hạn bắt đầu từ ngày 8-5-1975 cho đến ngày 31-5-1975
là ngày cuối cùng. Điều II: Cấp tướng và tá trình diện và đăng ký tại số nhà
213 Đại lộ Hồng Bàng, cấp uý trình diện và đăng ký tại uỷ ban nhân dân cách
mạng quận, cấp hạ sĩ và binh lính trình diện và đăng ký tại uỷ ban nhân dân
cách mạng phường. Cảnh sát, công an tình báo mật vụ trình diện và đăng ký tại
trụ sở Ban an ninh nội chính thuộc Ủy ban Quân Qủan thành phố Sài Gòn. Nhân
viên công chức làm việc tại nhiệm sở nào trình diện và đăng ký tại nhiệm sở
nấy. Điều III: Khi ra trình diện và đăng ký nhất thiết phải mang nộp chứng minh
thư, các loại giấy tờ cá nhân, tất cả vũ khí, trang bị, hồ sơ tài liệu, phương
tiện, ngân quỹ… Điều IV: Người nào, nhà nào, tập thể nào, cơ sở nào có giữ vũ
,khí chất nổ và các phương tiện, khí tài thông tin đều phải tới khai và nộp tất
cả. Điều V: Mệnh lệnh này phải được triệt để chấp hành đến 24 giờ ngày 31 (ba
mươi mốt) tháng 5 (năm) năm 1975, những người không ra trình diện cố tình lẩn trốn
sẽ bị nghiêm trị, những người đã ra trình diện, đăng ký nhưng còn khai gian,
giấu diếm võ khí tài liệu, phương tiện nghĩa là chưa thành thật, sau này phát
hiện ra thì xem như chưa tuân lệnh, người nào đăng nạp vũ khí, tài liệu, khí
tài vật tư quý giá và phát hiện nhiều vấn đề có giá trị khác sẽ được xem xét
khen thưởng xứng đáng. Tất cả những người đã ra trình diện đăng ký tạm thời
trước khi có lịch này đều phải làm đăng ký chánh thức lại theo mệnh lệnh này.
Sài Gòn, ngày 5-5-1975/Thay mặt Ủy ban Quân quản Thành phố Sài Gòn-Gia Định/Chủ
tịch/Thượng tướng TRẦN VĂN TRÀ.”
Việc
ra trình diện không kéo quá dài như dự kiến. Chỉ trong vòng năm ngày, đã có 23
viên tướng có mặt tại Sài Gòn tự động đến Trung tâm Dự bị Viện Đại học Sài Gòn:
Tướng Vũ Văn Giai, tư lệnh Sư đoàn 3; Tướng trẻ Trần Quốc Lịch, 40 tuổi, tư
lệnh Sư 5; Tướng Phan Duy Tất, chỉ huy trưởng Biệt động Quân khu II; Tướng Hồ
Trung Hậu, nguyên phó tư lệnh Sư Đoàn Dù… Nhưng chủ yếu là những viên tướng đã
nghỉ hưu từ trước: Trung tướng Nguyễn Hữu Có, Thiếu tướng Nguyễn Thanh Sằng,
Trung tướng Lê Văn Nghiêm… Cũng có những người đã thôi chức từ rất lâu như
Trung tướng Lê Văn Kim, về hưu từ năm 1964; Trung tướng Nguyễn Văn Vĩ, nguyên
Tổng trưởng Quốc phòng, về hưu từ năm 1972; Thiếu tướng Lâm Văn Phát, người
từng bị Sài Gòn kết án tử hình vắng mặt từ năm 1965…
Trong
thời điểm khắc nghiệt nhất của chế độ Sài Gòn, những người “ngoan cố” đã ra đi
hoặc đã tuẫn tiết như Tướng Lê Văn Hưng, phó tư lệnh; Tướng Nguyễn Khoa Nam, tư
lệnh Quân Đoàn IV và một số tỉnh trưởng Miền Tây khác. Những người còn lại ở
lại và chấp nhận những gì sẽ đến với mình48.
Ở
Sài Gòn, 443.360 người ra trình diện, trong đó có hai mươi tám viên tướng, 362
đại tá, 1.806 trung tá, 3.978 thiếu tá, 39.304 sỹ quan cấp uý, 35.564 cảnh sát,
1.932 nhân viên tình báo các loại, 1.469 viên chức cao cấp trong chính
quyền, 9.306 người trong các đảng phái được cách mạng coi là “phản động”.
Chỉ 4.162 người phải truy bắt trong đó có một viên tướng và 281 sỹ quan cấp tá.
Gần
một tháng sau sau Lệnh Trình diện, ngày 10-6-1975, Uỷ Ban Quân quản ra thông
cáo “Về việc Học tập Cải tạo Sỹ quan, Hạ sỹ quan, Binh lính và Nhân viên Quân
đội Ngụy, Tình báo, Cảnh sát và Ngụy quyền đã trình diện đăng ký”. Theo đó: Tất
cả hạ sỹ quan binh lính và nhân viên quân đội Nguỵ thuộc các quân binh chủng
tại Sài Gòn-Gia Định, tình báo cảnh sát và nhân viên Nguỵ quyền quận, phường,
khóm, xã, ấp đã trình diện đăng ký phải đi học tập cải tạo trong ba ngày kể từ
ngày 11-6-1975 đến ngày 13-6-1975. Nhân viên Nguỵ quyền từ trưởng phó phòng trở
xuống thuộc các phủ, bộ, vụ, viện, nha, sở, ty… đã đăng ký đi học tập từ ngày
18 đến ngày 20-6-1975. Thời gian học tập liên tục từ 7 giờ đến 16 giờ [giờ
Đông Dương] trưa nghỉ một giờ. Người đi học tự mang thức ăn trưa và chiều,
sau khi học, về nhà nghỉ. Lệnh học tập này phải được tuyệt đối chấp hành ai
không đi học tập cải tạo đúng thời hạn coi như phạm pháp.
Cũng
trong ngày hôm ấy, lệnh học tập cải tạo được thông báo đến các sỹ quan theo đó,
“sỹ quan quân đội Nguỵ, cảnh sát, tình báo biệt phái từ thiếu uý đến đại uý”
được hướng dẫn: “Phải mang giấy bút, quần áo, mùng màn, các vật dụng
cá nhân, lương thực, thực phẩm [bằng tiền hoặc hiện vật] đủ dùng trong
mười ngày kể từ ngày đến tập trung”. “Sỹ quan cấp tướng, tá”, được hướng dẫn
mang theo “thực phẩm, lương thực đủ dùng trong một tháng”.
Từ
ngày 11-6, tất cả hạ sỹ quan binh lính đã đến các địa điểm trong Thành phố học
tập và họ cảm thấy yên tâm khi thời gian học tập chỉ có ba ngày, đúng như thông
báo và cách tiến hành thì mang tính “học tập” nhiều hơn là “cải tạo”. Báo chí
bắt đầu được sử dụng để trấn an những sỹ quan còn có chút băn khoăn lo lắng
trong lòng.
Bài xã luận “Tiếp tục cải tạo để trở thành người công dân chân chính” đăng trên báo Sài Gòn Giải Phóng ngày 17-6-1975 viết: “Đợt học tập cải tạo của binh lính, hạ sỹ quan nguỵ quân và nhân viên nguỵ quyền mở ra đã được mấy ngày. Trong các thu hoạch của các học viên, có một điểm chung làm mọi người chú ý: hầu hết đều phát biểu thừa nhận mình trước kia dù làm bất cứ việc gì trong bộ máy nguỵ quân, nguỵ quyền, đều là những người có tội với nhân dân, với cách mạng. Họ đều hứa sẽ tự cải tạo mình thành những con người tốt. Cuộc học tập này đã làm cho phần lớn binh sỹ nguỵ biết phân biệt ai là địch, ai là ta. Sự phân biệt này rất quan trọng. So với trước khi học đây là một bước tiến bộ đầu tiên của binh lính nguỵ quân và nhân viên nguỵ quyền. Nhưng cũng chỉ là một bước tiến đầu tiên mà thôi. Phân biệt được địch, ta, hứa phấn đấu để trở thành người tốt, mới chỉ là tiến bộ về mặt nhận thức, mới chỉ là sự bày tỏ thái độ. Họ có thật sự tiến bộ hay không? Thái độ của họ có thành thật hay không? Hay giả vờ tiến bộ, giả vờ hứa hẹn cốt cho qua cửa ải này, rồi trà trộn vào cộng đồng dân tộc với những tư tưởng thù địch với dân tộc? Đối với những con người đã từng bị giặc Mỹ nhồi nhét những tư tưởng xấu xa, ý thức chống nhân dân, chống cách mạng trong suốt hai mươi năm qua thì làm sao họ có thể gột rửa hết trong ba ngày học tập? Vì vậy, cách mạng tạo cho họ điều kiện để chứng minh sự tiến bộ của mình bằng hành động. Nhân dân ta đã có kinh nghiệm: đánh giá một con người phải căn cứ trên hành động của họ. Ta giáo dục họ những tư tưởng đúng, là cốt để họ làm đúng chứ không chỉ để nói đúng mà thôi”.
Một
bài báo khác dẫn lời anh Trần Văn Lành, một trung sỹ quân nhu, nói: “Trước khi
đi học tập, tôi đã tưởng là sẽ bị ngược đãi, bị hạ nhục và có thể bị đánh đập
nữa”49. Nhưng, “điều đó đã không xảy ra” và sau học tập, anh Lành đã được cấp
“Giấy công nhận hoàn thành học tập cải tạo” – tờ giấy có giá trị công nhận
những người “lính Ngụy” bắt đầu được “trở lại làm người” trong chế độ mới. Một
người khác, được giới thiệu là “Binh nhất Lê Công Đắc”, thì cho rằng: “Qua cuộc
học tập này, chính quyền cách mạng đã dắt chúng tôi ra khỏi nơi tối tăm, đưa
chúng tôi về với nẻo chính nghĩa”50. Những phát biểu này được các sỹ quan theo
dõi sát và khi thấy sau “ba ngày học tập” binh lính được trở về nhà, thấy “cách
mạng đã làm những gì cách mạng nói”, các sỹ quan đã yên tâm hơn.
Không ai biết rằng,
từ ngày 18-4-1975, Chỉ thị 218/CT-TW của Ban Bí thư đã quy định: “Đối với sỹ quan, tất cả đều phải tập trung giam giữ quản lý, giáo dục
và lao động; sau này tùy sự tiến bộ của từng tên sẽ phân loại và sẽ có chính
sách giải quyết cụ thể. Những người có chuyên môn kỹ thuật [kể cả lính và sỹ
quan] mà ta cần thì có thể dùng vào từng việc trong một thời gian nhất định,
nhưng phải cảnh giác và phải quản lý chặt chẽ, sau này tuỳ theo yêu cầu của ta
và tuỳ theo sự tiến bộ của từng người mà có thể tuyển dụng vào làm ở các ngành
ngoài quân đội. Đối với những phần tử ác ôn, tình báo an ninh quân đội, sỹ quan
tâm lý, bình định chiêu hồi, đầu sỏ đảng phái phản động trong quân đội, thì bất
kể là lính, hạ sỹ quan hay sỹ quan đều phải tập trung cải tạo dài hạn, giam giữ
riêng ở nơi an toàn và quản lý chặt chẽ”51.
Ở
nhiều địa phương, một số “tên ác ôn đầu sỏ” đã được “xử lý” ngay và chỉ vài
ngày sau 30-4, các sỹ quan gần như đã được đưa đi cải tạo. Tuy nhiên, Sài Gòn,
nơi tập trung gần nửa triệu sỹ quan và binh lính chế độ cũ, nơi tập trung sự
chú ý của dư luận trong và ngoài nước, nên mọi quyết định đều được Trung ương
Cục và Đảng ủy Đặc biệt bàn bạc lên kế hoạch.
Ngay
trong phòng làm việc của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, Trung ương Cục đã bàn
cách đưa các sỹ quan của ông đi “cải tạo lâu dài”. Kế hoạch được gọi
là Chiến dịch X-1. Ông Võ Văn Kiệt thừa nhận: Việc công bố ba mức thời
gian học tập – hạ sỹ quan binh lính, ba ngày; cấp úy, mười ngày; tướng, tá, một
tháng – là có ý để cho các đội tượng ngầm hiểu rằng, thời gian học tập tối đa
của các sỹ quan chỉ là một tháng.
Nhà
sử học Tạ Chí Đại Trường, năm ấy là một sỹ quan biệt phái với quân hàm đại úy,
thuộc diện “học tập mười ngày” viết: “Hầu hết đều bình thản đến cổng,
xin vào. Có người cưng con gái đi theo đỡ đần con rể. Có người thuộc diện
“ba ngày” tiễn đưa bạn, ngồi quán nhậu ngà ngà cũng theo bạn vào cổng cho vui.
Có người giải ngũ nằn nì xin ‘đi học để có cái giấy về dễ làm ăn’. Nhưng, qua
con ngựa sắt là dòng sông không trở lại”52.
Nơi
tập trung của ông Tạ Chí Đại Trường là một trường học, ông viết: “Sáng 23- 6-1975,
tôi đi vòng giã từ phố phường rồi cầm khúc bánh mì đến công trường Taberd. Mười
giờ 30 sáng. Hai viên sỹ quan cầm súng lặng lẽ chỉ lối vào. Ngoài đường
vắng, cổng trường kín chỉ chừa chỗ lách, không thể biết bên trong có gì”53.
Những “sỹ quan cấp úy” ấy đã bình thản đến guichet (quầy) nộp “tiền ăn mười
ngày”, lấy biên lai… cho đến khi vào hành lang, cán bộ tới ra lệnh bỏ đồ kim
khí ra, mới thấy có “cái gì nặng nề lảng vảng”, rồi khi “trời càng về khuya,
mưa tầm tã” thì “bắt đầu mới rùng mình”.
Đại
úy Tạ Chí Đại Trường viết: “Tôi mang mùng giăng trên tầng gác hội trường nhưng
không ngủ được. Từ trên gác nhìn ra bóng tối nhiều hơn ánh sáng… Ánh đèn pha
trải dài trên sân nước. Một vài người lính đi lại mang B40 lắp đầu đạn khiến
cái bóng càng dài ra”54. Tối 25-6, Đại úy Trường cùng các chiến hữu nhận
được lệnh di chuyển, “Có người dẫn ra đường. Vắng ngắt. Xe đậu dài ngút”. Rồi,
thay vì “học tập mười ngày”, ông thầy dạy sử Tạ Chí Đại Trường đã phải trải qua
các trại từ hôm ấy cho đến tháng 6-1981.
Mười
ngày, một tháng qua nhanh. Không ai nhận được bất cứ tin tức gì liên quan đến
những người thân bị đưa đi học tập. Rồi đột nhiên, một sỹ quan được tha về,
người đó là Cựu Tổng trưởng Quốc phòng, tướng Nguyễn Văn Vỹ.
Vừa
ra khỏi trại, Tướng Vỹ phát biểu: “Chúng tôi ăn còn ngon hơn bộ đội. Tôi mong
những người có thân nhân đi học tập cải tạo hãy yên lòng và tin tưởng
Cách mạng, đừng tin ở những lời đồn vô căn cứ”55. Tướng Nguyễn Văn Vỹ là
người mà ngay hôm đầu ra trình diện đã phát biểu: “Tôi hiểu rõ quân đội trong
này lắm, tệ lắm, xấu lắm; và mấy ngày hôm nay thấy rõ bộ đội Cách mạng rất
kỷ luật, chững chạc, đàng hoàng. Anh em vào nhà tôi ở cầu Thị Nghè không hề bị
mất mát gì hết. Cách mạng vào yên ổn, thanh bình ngay, ai cũng yên tâm và sung
sướng”56.
Ở
thời điểm Tướng Vỹ phát ngôn trên báo, dân chúng không cần phải nghe tin đồn,
chồng con họ bặt vô âm tín đã hơn ba tháng cho dù “Cách mạng nói” sĩ quan cấp
úy chỉ đi học tập “mười ngày”, cấp tá chỉ đi “một tháng”. Tuy nhiên, đấy cũng
chưa phải là thời điểm mà những người ở nhà hay ở bên trong hàng rào dây
kẽm gai tuyệt vọng. Chính quyền biết điều đó và Tướng Vỹ được tha để nói
những lời có giá trị trấn an. Đồng thời, “các sỹ quan và nhân viên ngụy quyền”
bắt đầu được phép và được động viên viết thư về nhà.
Đầu
tháng Bảy, báo Giải Phóng, tờ báo trong R của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền
Nam, cho đăng lá thư của ông Trần Văn Tức “nguyên là đại úy cảnh sát ở Côn
Sơn”, gửi vợ là bà “Nguyễn Bích Thủy, ở số 52-54 Nguyễn Khắc, Sài Gòn 2”. Khi
cho đăng lá thư, tờ Giải Phóng nói rõ là “để bạn đọc hiểu thêm cuộc sống hiện
nay của các sĩ quan (trong quân đội ngụy trước đây) đang học tập cải
tạo”57. Thông điệp mà Chính quyền muốn gửi qua bức thư này được lồng vào một
cách vụng về: “À, ở thư trước anh quên dặn em là đừng tin lời đồn nhảm của bọn
phản động của bọn ngụy tuyên truyền làm cho em và ba má ở nhà hoang mang lo sợ.
Nếu người nào nói xuyên tạc đó là bọn lưu manh thừa dịp để làm tiền hoặc
bọn ngụy phản cách mạng, em nên đến chánh quyền cách mạng tố cáo họ. Anh cố
gắng học tập cải tạo tốt để chánh phủ cách mạng khoan hồng cho những đứa con
lạc lối được thành người công dân chân chính và sớm về đoàn tụ với gia đình
tăng gia sản xuất”58. Hơn một tháng sau, tờ Tin Sáng có bài phỏng vấn bà “LQL”,
người vừa trở lại Sài Gòn sau chuyến thăm chồng là “Thiếu tá Tiểu Đoàn phó Tiểu
Đoàn 7, Thủy Quân Lục Chiến Ngụy”. Tờ Tin Sáng không nói rõ chị L thăm chồng ở
trại nào và chồng chị là ai, chỉ giới thiệu: “Thiếu tá và cả Tiểu đoàn 7 của
ông đã bị tên tướng ngụy Bùi Thế Lân bỏ kẹt tại cửa Thuận An và đã cùng toàn bộ
binh lính trong Tiểu đoàn 7 đầu hàng quân đội giải phóng ngày 27-3 vừa qua”.
Câu chuyện ở trại cải tạo được tờ Tin Sáng dẫn dắt cho thấy không khí trong các
trại cải tạo từa tựa như một trại hè59. Bài phỏng vấn kết thúc bằng lời dặn dò
của người chồng: “Em yên trí về lo làm ăn, ở đây em khỏi lo hai thứ rượu và
gái, đã làm hai đứa thường mất hạnh phúc như trước kia. Cuộc sống ở đây rất
điều hòa và lành mạnh như em đã thấy, chắc chắn bọn anh sẽ khá hơn trước”.
Người
phỏng vấn, phóng viên Phan Bảo An, sử dụng những ngôn từ như “tên tướng ngụy…”,
khiến người đọc có cảm giác nó được viết bởi một cán bộ tuyên huấn từ “R” về
hoặc từ Bắc vào. Nhưng Phan Bảo An là bút danh của ông Phan Xuân Huy, một cựu
dân biểu Sài Gòn. Ông Phan Xuân Huy nói rằng cuộc phỏng vấn ông thực hiện được
là tình cờ chứ không phải do Chính quyền sắp xếp60; tuy nhiên, về sau ông mới
phát hiện ra “người vợ” là con của một gia đình Cách mạng.
Cho
đến tháng 9-1975, chỉ những người có nhân thân rất đặc biệt mới có thể vào
trại thăm thân nhân. Lá thư của “ông Trần Văn Tức gửi vợ là bà Nguyễn Bích
Thủy” trùng hợp với thời gian mà ở các trại cải tạo, “ngụy quân, ngụy quyền”
được yêu cầu viết thư về nhà. Nhà sử học Tạ Chí Đại Trường, thời gian này đang
cải tạo ở Trảng Lớn, Tây Ninh, kể: “Thư hàng tháng được coi như là một ân huệ
của Nhà nước ban cho người có tội phải cải tạo,‘dựa trên ý thức truyền
thống thông cảm với tình gia đình đậm đà của người dân Việt Nam’… Thư gửi được
quản giáo kiểm duyệt. Nội dung thư cứ phải nói ‘học tập tốt, lao động tốt’ và
phải động viên gia đình”61.
“Đoàn tụ”
Có
lẽ không mấy gia đình ở miền Nam không đồng thời có người thân vừa ở phía bên
này vừa ở phía bên kia. Và có lẽ không có ở đâu, ý thức hệ lại chia cách tình
thân đến thế. Ông Tư Bôn, giám đốc Việt Nam Tổng Phát hành, có cậu ruột là một
cán bộ cộng sản nổi tiếng, ông Mai Văn Bộ, nhưng vẫn không thoát vòng lao lý. Ở
đề lao Gia Định, ông Bộ có vào thăm nhưng người cháu đang bị liệt vẫn tiếp tục
bị giam cầm.
Nhà
văn Doãn Quốc Sĩ là con rể của nhà thơ Tú Mỡ – người có tác phẩm được miền Bắc
đưa vào sách giáo khoa phổ thông – nhưng vẫn phải đi tù. Doãn Quốc Sĩ bị tù
tổng cộng mười bốn năm, trong thời gian đó ông không được gặp mặt bố mẹ đang
sống ở Hà Nội, thậm chí không được gặp cả người anh ruột Doãn Nho là một nhạc
sĩ con cưng chế độ.
Trung
tá Phan Lạc Phúc62 cũng có cùng hoàn cảnh như nhà văn Doãn Quốc Sĩ. Ông Phúc có
một người em ruột là sĩ quan Việt Nam Cộng hòa, năm 1962 tham gia đảo chính bất
thành, đi theo Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam. Nhưng sau năm 1975, ông
Phan Lạc Phúc vẫn phải chịu hơn mười năm cải tạo.
Đại
úy Dù Phan Nhật Nam63 có cha là ông Phan Văn Trình, vốn là một sỹ quan tình báo
được Việt Minh đánh vào Sở Mật thám Liên bang Đông Pháp. Ngày 2-9-1950, ông
Trình đã lập công bằng cách lấy hồ sơ của Sở Mật thám mang ra Việt Bắc. Nhưng,
như số phận của nhiều nhà tình báo khác, ông Phan Văn Trình đã không được tin
dùng. Ông chỉ là một cán bộ nhỏ công tác ở Hải Phòng và sau năm 1975 về
Nam chỉ nhận được chức phó chủ tịch một phường ở Sài Gòn. Đại úy Phan Nhật Nam
biết trước là không thể nhờ vả được gì vào bố mình. Bởi chính ông, năm 1973, đã
từng gây khó khăn cho bố64.
Theo
ông Phan Nhật Nam: “Năm 1981, ở Mỹ, khi Mặt trận Hoàng Cơ Minh trao giải cho
cuốn sách của tôi, Tù binh và Hòa bình, ở trại Lam Sơn, Thanh Hóa, từ ngày
7-9-1981, tôi bắt đầu bị cùm trong phòng biệt giam. Trong hoàn cảnh đó, ngày
8-5-1985, khi ba tôi lên thăm, ông vất vả ra Hà Nội chờ xin giấy thăm nuôi tôi
ở Cục Quản lý trại giam, thay vì có thể xin ở trại như các tù nhân khác. Cuộc
thăm nuôi lại chỉ được diễn ra trong vòng mười lăm phút. Cho dù đó là lần đầu
tiên gặp nhau sau hơn ba mươi năm, tôi vẫn nói với ông: Ba vất vả quá, thôi
đừng thăm nuôi nữa, đợi khi ra tù, con về”65.
Cũng
có không ít quan chức Cách mạng thay vì bảo lãnh, đã vận động ngay chính những
người trong gia đình mình đi “học tập”. Có người muốn chứng minh với Đảng sự
“chí công vô tư”. Có người tin là cần thiết đối với người thân của họ.
Thiếu
úy Việt Nam Cộng Hòa Lưu Đình Triều có ba mẹ là cán bộ cao cấp của Cách mạng.
Năm 1954, lúc Lưu Đình Triều một tuổi, chị gái Triều ba tuổi, anh đã được
ba mẹ để lại cho bà ngoại để đi tập kết. Trong suốt hơn hai mươi năm, hai chị
em Lưu Đình Triều đã lớn lên như những đứa trẻ mồ côi trong khi ba mẹ mình sống
ở Hà Nội trong một phần căn biệt thự trên đường Điện Biên Phủ với sổ mua hàng
“Tôn Đản”. Ba anh là ông Lưu Quý Kỳ, vụ trưởng Báo chí Ban Tuyên huấn Trung
ương kiêm tổng thư ký Hội Nhà báo. Còn anh, năm 1972, khi Chính quyền Sài Gòn
tạm đóng cửa các trường đại học và hạ bớt tuổi hoãn quân dịch của sinh viên,
như nhiều sinh viên khác, Lưu Đình Triều bị động viên vào lính.
Năm
1975, ông Lưu Quý Kỳ trở về, Lưu Đình Triều nhớ lại: “Bao lần tôi đã nằm tưởng
tượng ra cảnh hội ngộ này và nghĩ rằng lúc ấy tôi sẽ hét vang cái tiếng gọi mà
tôi đã thèm khát hàng chục năm trời: Ba ơi! Má ơi!”. Nhưng, ngay trong ngày gặp
lại, Lưu Đình Triều đã cảm nhận được một “hố sâu thực sự”.
Nội cất giọng lanh lảnh hát trong máy ghi âm: Sài Gòn đó, quê ta ơi / Trong biển lửa vẫn ngời ngời / Ta đi như sóng căm hờn dâng trào / Xô lên trên xác quân thù hung bạo / Giành một mùa xuân tươi sáng khắp miền Nam…
Lưu
Đình Triều viết: “Khi nghe tới đó, tim tôi như thắt lại. Một ‘quân thù’ đang
đứng cạnh ba đây. Ba có biết không? Có căm hờn nó không? Từ giờ phút đó, niềm
vui hội ngộ trong tôi giảm hẳn. Chỉ có nỗi lo âu, thắc thỏm là mới dâng trào”.
Vài
tháng sau, Lưu Đình Triều vẫn phải đi cải tạo. Trong thời gian ở trại, Lưu Đình
Triều kể: “Ban ngày chúng tôi phải học lý luận, ban đêm học hát những
bài như Bão Nổi Lên Rồi, Rầm Rập bước Chân Ta Đi Trên Đường Phố Sài Gòn…
Sau khi được “lên lớp” về Truyền thống Chống Ngoại xâm, Đường lối Sáng suốt của
Đảng Ta, Cuộc Chiến tranh Chính nghĩa, Chính sách Khoan hồng của Chính phủ
Cách mạng…, các trại viên phải tập trung thảo luận, theo hướng: phải phân tích
được âm mưu của Mỹ – Ngụy; phải nhận ra Ngụy quyền không chính nghĩa, chỉ có Cách mạng
mới chính nghĩa. Học xong lại phải “soi rọi bản thân”, kể ra những tội lỗi của
mình, mỗi người phải nghĩ cho ra một điều phi nghĩa của Quân đội Việt Nam Cộng
hòa”.
Lưu
Đình Triều nói: “Tôi dẫn chuyện lính Sư 7 hành quân bắt gà, bắt heo của dân. Có
người là lính tài vụ, cả đời chỉ đi phát lương, với mong muốn được Chính phủ
khoan hồng, đã nhận phát lương cũng coi như tạo điều kiện cho lính đi càn quấy.
Có người than, tao nghĩ không ra tội, chúng mày ạ”.
Từ
tháng thứ ba, Triều kể: “Mỗi tháng, trại viên được thăm nuôi một lần. Trong số
những người thăm nuôi có người quê Biên Hòa, tôi nhắn chị tôi đi thăm. Hóa ra,
khi ấy chị tôi đang đi Hà Nội. Khi chị tôi về, lên trại đúng lúc trại cấm thăm
nuôi vì một sự cố do trại viên gây ra. Tôi nhìn thấy chị tôi, khoát tay bảo về
nhưng chị tôi cứ đứng bên kia đường không chịu. Một người quản giáo tốt bụng
tới vỗ vai, nói: ‘Đi theo tôi’. Đi ra, vệ binh chặn lại; nhưng người quản giáo
can thiệp. Hai chị em nhìn nhau khóc, khiến người quản giáo cũng khóc”.
Chỉ
huy trại khi ấy cũng biết Lưu Đình Triều là con cán bộ cao cấp nên chủ động gửi
thư cho ông Lưu Quý Kỳ, nói: “Chúng tôi biết anh, nếu được, anh lên trại chúng
ta nói chuyện về cháu”. Ông Lưu Quý Kỳ có lên nhưng thay vì gặp con và bảo
lãnh, ông chỉ viết thư khuyên “con cố gắng học tập tốt”. Lưu Đình Triều nhớ
lại: “Tôi vừa đọc thư ba tôi vừa xé và vừa cay đắng khóc”.
Có
những quan chức Cách mạng không bảo lãnh cho con cháu của mình bởi họ tin rằng
những đứa con, đứa cháu lầm đường của họ cần có thời gian cải tạo. Có những
quan chức cẩn trọng biết rằng tờ bảo lãnh đôi khi sẽ là một trong những
cái cớ để khi cần, các đồng chí của mình đem ra “xử lý”. Ông Trần Quốc
Hương nguyên là một nhà chỉ huy tình báo, từng là cấp trên của “ông cố vấn” Vũ
Ngọc Nhạ và “trưởng văn phòng báo Time” Phạm Xuân Ẩn. Năm 1950, ông Hương
“đánh” từ Hà Nội vào Nam một cán bộ tình báo có tên là Từ Câu. Vì hoạt động
trong lòng chế độ Sài Gòn nên con cái
của ông Từ Câu cũng phải đi lính như những gia đình khác. Sau1975, họ cũng phải
đi “học tập”. Khi ông Từ Câu mất, các con ông – thiếu úy Từ Dũng và thiếu úy Từ
Tuấn – đang bị cải tạo ở Minh Hải, gia đình có đơn xin cho con về để tang cha.
Ông Mười Hương phê đơn, chuyển Giám đốc Công an, xin cho họ “được về để tang
rồi vào trại lại”. Trước Đại hội V, ông Trần Quốc Hương66 bị tố cáo “bốn vấn
đề”, trong đó, “một đồng chí trong tiểu ban bảo vệ Đảng” tố ông đã
can thiệp cho “hai thiếu úy Ngụy ra khỏi trại giam”.
Phản động
Một
diễn biến khác, xuất hiện ngay từ những ngày Trung ương Cục nhóm họp để triển
khai “Chiến dịch X-1, X-2”, được quan tâm đặc biệt vì liên quan đến an ninh
chính trị. Ngày 3-9-1975, Trung ương Cục được báo cáo:
“Bọn chánh quyền cơ sở đi tập trung rất ít. Bọn Tuyên úy cũng đi rất ít. Cảnh sát đặc biệt, dự kiến đi 1.500, nhưng chúng tập trung đến 2.460 tên. Nhưng, dự kiến trên 1.000 tuyên úy chỉ đi 2 tên; dự kiến trên 150 tên chiến tranh tâm lý, đi 46 tên; dự kiến 500 cảnh sát đã chiến chỉ đi 190 tên; Quân cảnh đi 140 tên; Tình báo dự kiến 1000 chỉ đi 142 tên; Biệt kích 1000 chỉ đi 64 tên; Chiêu hồi dự kiến 300 chỉ đi 130 tên; Bình Định dự kiến 1500 chỉ đi 55 tên; Dự kiến đợt I, (đối tượng này) là 10.200 nhưng chỉ đi 4.800 tên; còn lại tên 5000; ta tổ chức bắt trên 400 tên; bọn cơ sở, tình báo, quân báo tại chỗ dự kiến 3 vạn mới làm được 8.290 tên. Theo báo cáo thì việc tổ chức học tập là tốt. Hội nghị chủ trương: Đối với bọn tuyên úy công giáo, phật giáo và tin lành giáo, Ban Mặt trận Thành mới tới nói chuyện động viên khuyến khích đi học; các tôn giáo trở về phải có ý kiến với từng người để họ đi học. Sau cuộc nói chuyện sẽ tổ chức bắt nếu họ không chịu đi trình diện. Đối với biệt kích, gia hạn đăng ký một thời gian; đề cao bọn ra trình diện; kêu gọi gia đình động viên con em họ đi học sau đó tổ chức truy bắt” [67].
Chính
sách cải tạo cũng đã đi vào lịch sử Tòa thánh Vatican từ ngày 15-8-1975, khi
Đức Giám mục Nguyễn Văn Thuận được mời tới Dinh Độc Lập, tại đây ông bị bắt giữ
và trong ngày hôm ấy được di lý ra trại giam Cây Vông, Phú Khánh.
Việc
Tòa Thánh bổ nhiệm Giám mục Nguyễn Văn Thuận, người gọi ông Ngô Đình Diệm là
cậu ruột, làm giám mục phó Tổng Giáo phận Sài Gòn vào ngày 25-4-1975 (chỉ chưa
đầy một tuần trước khi “giải phóng”) đã làm cho Cách mạng lo lắng. Bản thân nội
bộ công giáo cũng có những hoạt động được cho là “mờ ám”; một số linh mục được
coi là “cấp tiến” đã ám chỉ các tín hữu của Đức Cha Thuận là “phản động”. Ngày
13-5-1975, một nhóm sinh viên công giáo đã đột nhập vào Tòa Tổng Giám mục đòi
Đức Cha Thuận phải từ chức. Ngày hôm sau, 14-5, chính họ lại cũng đột nhập vào
Tòa Khâm xua đuổi Đức Khâm sứ Henri Lemaitre.
Chính
quyền không đứng ngoài những hoạt động “cấp tiến” này, nhưng Chính quyền cũng
đã hoang mang khi những hành động quá khích như vậy tác động trở lại. Ông Võ
Văn Kiệt thừa nhận là trong buổi chiều bắt Đức Cha Thuận, Chính quyền đã triệu
tập tất cả các linh mục, tu sĩ nam nữ tới tòa nhà Quốc hội Sài Gòn để nghe “nói
chuyện”, nhằm tránh những phản ứng khiến cho tình hình phức tạp thêm. Người dân
Sài Gòn quan sát những diễn biến ấy trong nỗi lo sợ rất rõ ràng, nhưng thái độ
của mỗi người thì một khác. Nhà báo Đoàn Kế Tường kể: “Sáng 29- 4-1975, tôi và
một người bạn gặp nhau trên cầu Sài Gòn, anh hỏi: ‘Đi không?’. Tôi nói không
lưỡng lự: ‘Không. Tôi còn mẹ già ở Quảng Trị’. Anh chia tay tôi xuống Tân Cảng,
một chiếc tàu hải quân đang đợi chúng tôi ở đó. Nhưng tôi không thể ngờ được là
mọi thứ sau 30-4 nó lại đảo lộn lên như thế”.
Đoàn
Kế Tường sinh năm 1947 tại làng Đông Dương, xã Hải Dương, huyện Hải Lăng, Quảng
Trị. Vì cha từng đi lính Tây nên năm 1960 khi mới mười ba tuổi, ông được đưa
vào học trường Thiếu sinh quân ở Vũng Tàu, được huấn luyện trở thành lính Biệt
kích. Từ năm 1965 được đưa lên tác chiến ở vùng Lộc Ninh, Bù Đốp, Phước Long.
Là lính trận thật sự, hai lần bị thương, nhưng chàng trai trẻ mười tám
tuổi vẫn có chút máu Quảng Trị, làm thơ từ trong rừng sâu gửi về các tờ
báo ở Sài Gòn rồi được kết nạp vào Hội Văn – Nghệ – Sỹ Quân đội.
Năm
1969, nhân Đại hội Văn – Nghệ – Sỹ Quân đội toàn quốc, Đoàn Kế Tường nhờ Chu Tử
[68] xin cho về lại Sài Gòn làm báo. Chu Tử, một nhà báo quen biết nhiều nhân
vật có thế lực, đã nhờ Trung tướng Lê Nguyên Khang can thiệp, đưa Tường cuối
năm ấy về Sài Gòn làm trong tờ báo Đời của Quân đội. Đầu năm 1970 khi Chu Tử ra
thêm tờ nhật báo Sóng Thần, Đoàn Kế Tường vừa viết cho Đời vừa viết thêm cho
Sóng Thần. Tại đây, anh chơi thân với họa sỹ Ớt (Huỳnh Bá Thành), đang làm cho
báo Điện Tín. Tường kể: “Buổi trưa chúng tôi vẫn cùng nhau binh xập xám”.
Nhưng,
sau cái ranh giới 30-4-1975, Ớt và Tường không bao giờ có thể “binh xập xám”
với nhau. Huỳnh Bá Thành là một cán bộ An ninh T4, biết những người như
Đoàn Kế Tường ở lại và “tư tưởng đang có những diễn biến phức tạp”. Trong Hội
nghị ngày 3-9-1975, Trung ương Cục lưu ý “các đối tượng làm việc cho các cơ
quan Mỹ, văn nghệ sĩ, báo chí, ký giả” và phân công: “An ninh phối hợp với
Hoa vận, tình báo nghiên cứu đề xuất phương án đối với Quốc Dân Đảng, Tàu
đặc vụ và nhân viên làm việc với nhân viên Mỹ. Tuyên Huấn Thành và Thông tin
Văn Hóa nghiên cứu kỹ đối với văn nghệ sỹ, ký giả”69.
Đoàn
Kế Tường kể tiếp: “Tôi trốn trình diện dù có quá khứ là thiếu úy biệt kích rồi
cùng người bạn thân là Dương Đức Dũng tham gia vào tổ chức Dân quân phục
quốc70. .. Chúng tôi in truyền đơn, in lời kêu gọi và phát tán chúng. Ngày
29-4-1975, Tướng Nguyễn Cao Kỳ đã lấy trực thăng bay ra hàng không mẫu hạm
Midway mà chúng tôi vẫn nghĩ là ông lên rừng lập chiến khu. Chúng tôi cùng nhau
hát: Tôi đi theo anh, Nguyễn Cao Kỳ, anh hùng của dân / Tôi đi theo anh, Nguyễn
Cao Kỳ, anh hùng rừng xanh71. Khi đó, tôi còn quá trẻ lại đầy máu nghệ sỹ,
cứ nghĩ những việc làm của mình cũng như một cuộc chơi mà sinh viên Sài Gòn vẫn
làm hồi trước 1975”.
Nhưng
Sài Gòn đã không còn như “hồi trước 1975”. Đoàn Kế Tường kể tiếp: “Trong những
ngày ấy, Huỳnh Bá Thành có gặp tôi hỏi, nếu muốn làm báo Tin Sáng thì Thành sẽ
giúp, nhưng tôi chỉ đáp cụt lủn: Không! Tôi sẽ vào rừng!”. Đêm 22-10- 1975,
Huỳnh Bá Thành đến nhà Đoàn Kế Tường còng tay người bạn từng binh xập xám
hôm nào. Trong đêm ấy, Dương Đức Dũng, Thái Sơn và giáo sư Lê Việt Cương cùng
bị bắt.
Gần
bốn tháng sau, ngày 10-2-1976, Nguyễn Việt Hưng, Trần Kim Định bị bắt. Đêm 12
rạng sáng 13-2-1976, lực lượng an ninh Thành phố bắt đầu tấn công nhà thờ Vinh
Sơn, thu giữ các thiết bị phát thanh và in tiền giả. Hai linh mục cố thủ trong
nhà thờ đã dùng súng và lựu đạn chống trả quyết liệt, bắn chết Nguyễn Văn Ràng,
một cán bộ an ninh. Mãi tới gần sáng, lực lượng bao vây mới khống chế được nhà
thờ, hai linh mục Nguyễn Hữu Nghị và Nguyễn Quang Minh cùng 3 người khác bị
bắt.
Vụ nhà thờ Vinh Sơn chưa kịp lắng xuống thì
ngày 1-4-1976, xảy ra một vụ nổ ở Hồ Con Rùa72 làm cho một người chết, bốn
người bị thương và phá hủy hoàn toàn con rùa làm bằng đồng đặt giữa hồ.
Hai
ngày sau, báo Sài Gòn Giải Phóng đăng bản tin có tựa đề, “Tóm gọn tại chỗ bọn
phản động và phá hoại”, với mấy dòng ngắn gọn: “Ngày 1-4, bọn phản động và phá
hoại, trong âm mưu phá rối trật tự trị an và cuộc sống yên lành của nhân dân
ta, đã gây tiếng nổ tại công trường quốc tế (Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh).
Một tên trong bọn chúng bị chết tại chỗ và bọn còn lại đã bị an ninh ta tóm cổ
đưa về điều tra”73. Cùng ngày, tờ Giải phóng, cũng đăng bản tin với độ dài và
nội dung: “Trừng trị tại chỗ bọn phản động và phá hoại: Tối 1-4-1976, bọn phản
động và phá hoại, trong âm mưu phá rối trật tự trị an và cuộc sống yên lành của
nhân dân ta, đã gây tiếng nổ tại công trường quốc tế (Quận 1, Thành phố Hồ
Chí Minh). Công trường này ở ngã tư đường Duy Tân, Võ Văn Tần và Trần Cao Vân;
ở giữa có một vườn hoa nhỏ, đồng bào ta thường ra ngoài hóng mát. Một tên trong
bọn phản động bị chết tại chỗ và bọn còn lại đã bị an ninh ta tóm cổ đưa về
điều tra”74.
Vụ nổ xảy ra lúc 8 giờ tối, được Huỳnh Bá
Thành kể lại là “vang dội từ phía sau lưng đuổi tới, nhà cửa hai bên đường rung
chuyển và đó đây tiếng kính vỡ rơi lổn cổn, khô khốc”75. Khi “trinh sát” đến
hiện trường, theo Huỳnh Bá Thành: “Mùi thuốc nổ vẫn còn khét lẹt. Một cảnh
tượng hãi hùng trước mắt Trường Sơn: một thây người đầy máu, bay mất cái
đầu và đôi bàn tay, đang được anh em cảnh sát khiêng lại để gần chỗ đặt chất
nổ. Bốn thanh niên bị thương máu me đầy mình được xe cảnh sát tức tốc đưa đi
cấp cứu. Bên cạnh cảnh tượng chết chóc và thương tích rùng rợn ấy, con rùa bằng
đồng to tướng bị chất nổ làm banh ra từng mảnh nhỏ, văng ra vung vãi. Theo giám
định hiện trường của các đồng chí cán bộ cảnh sát thuộc bộ phận khoa học hình
sự đã xác định sơ bộ: chất nố được đặt ngay ở thân con rùa đồng, loại TNT
có sức công phá ước chừng mười đến mười lăm kilogam”76.
Việc
Chính quyền vội vàng kết luận trên báo chí người chết là “một tên trong bọn
phản động” là chưa có căn cứ. Huỳnh Bá Thành, người mà báo Tuổi Trẻ nói rằng đã
“tham gia điều tra từ đầu cho tới khi kết thúc vụ án”77, cũng thừa nhận rằng:
“Không tìm thấy giấy tờ tùy thân nào trong người hắn… khó mà kết luận tuổi tác
chính xác khi người chết không còn mặt mũi và hai bàn tay. Nạn nhân mặc chiếc
quân jean Mỹ bạc màu, chiếc áo kaki đã sờn, chân đi dép nhựa mòn sát gót. Cũng
thật khó mà kết luận thành phần xã hội của kẻ đặt chất nổ”78.
Theo
Huỳnh Bá Thành thì có ít nhất ba trường hợp đã đến công an đầu thú, một số kẻ
khác đã bị bắt khi đang ba hoa ở quán café rằng mình là chủ mưu, nhưng “hóa ra
bọn họ đều là những kẻ háo danh hoặc có vấn đề về tâm thần”. Nhiều vụ “bắt bí
mật” đã được ngành an ninh thực hiện, một trong số đó là Lỗ Hung79. Lỗ Hung
khai nhận và theo Huỳnh Bá Thành, trong người anh ta có một mảnh giấy ghi: “Làm
thêm ba thẻ tổ viên tổ hợp ván sàn”. Theo Thành thì vợ chồng nhà văn Trần
Dạ Từ và Nhã Ca80 cũng có một tổ hợp ván sàn và Lầu Phá Xấu, theo đặc tình của
Thành là Đặng Hoàng Hà81, người mà nữ đặc tình này biết là thường xuyên qua lại
với vợ chồng nhà văn Nhã Ca.
Trên
thực tế, cho dù mãi tới ngày 6-4-1976 vụ án mới “được làm sáng tỏ”, nhưng ngày
2-4-1976, tức là chỉ mười hai giờ sau vụ nổ, những người như Nhã Ca, Trần Dạ Từ
đã bị bắt. Nhà văn Duyên Anh kể: “Buổi tối, mùng 2-4-1976, tôi định xuống Cây
Quéo kiếm Trần Dạ Từ hỏi xem Từ có đem về nhà cuốn Em Yêu nào không. Em Yêu là
cuốn sách mới nhất của tôi, nhờ Trần Dạ Từ in mướn. Sách chưa kịp vô bìa, thì
Sài Gòn mất. Rẽ vào đường Ngô Tùng Châu, nhìn con ngõ nhà anh chị Hoàng Văn Đức
thấy tối tăm, bùi ngùi quá, tự nhiên, tôi đạp xe về. Đêm ấy, vợ chồng Trần Dạ
Từ – Nhã Ca bị bắt cùng với Đặng Hoàng Hà82, Đặng Hải Sơn. Nếu tôi có mặt ở nhà
Từ, tôi cũng bị bắt luôn. Cũng đêm ấy, Trịnh Viết Thành, Nguyễn Mạnh Côn lên
đường trực chỉ Sở Công an”83.
Một
chiến dịch bắt bớ văn nghệ sỹ được kéo dài cho đến ngày 28-4-1976. Duyên Anh kể
tiếp: “Đêm ấy, đêm kinh hoàng, đêm mở đầu chiến dịch khủng bố văn nghệ sĩ. Hôm
sau, cả Sài Gòn xôn xao vụ bắt bớ nhà văn, nhà thơ, nhà báo. Tối mồng 3-4, tôi
đến nhà Mai Thảo ở 101 Phan Đình Phùng xem Mai Thảo bị bắt chưa. Tôi ngồi ngoài
xe hơi của Đặng Xuân Côn, bảo Côn xuống hỏi thăm Nguyễn Đăng Viên, anh ruột Mai
Thảo. Viên rất thông minh, anh trả lời Mai Thảo đi vắng và nhờ Côn, nếu gặp Mai
Thảo, nhắn về gấp. Viên ra dấu cho Côn chuồn lẹ. Côn hiểu ý vì đã đoán ra hai
khách lạ nón cối, dép râu, nhìn Côn không chớp mắt. Tôi rú ga, vọt mau. Côn
ngoái lại, hai khách công an đã phóng ra vỉa hè. ‘Nó đến bắt Mai Thảo’, Côn
nói. Tôi đi tìm dấu vết Mai Thảo, không lùng nổi tung tích Mai Thảo. Công an
không bắt được Mai Thảo, đã giả vờ quên tôi. Để tôi kiếm giùm Mai Thảo”84.
Đến
chiều ngày 8-4-1976 thì chính Duyên Anh cũng chịu chung số phận. Ông kể:
“Trước đó nửa tiếng đồng hồ, tôi đang băm thịt, nấu cháo nuôi vợ ốm, ông tổ
trưởng dân phố của tôi dẫn ông phường trưởng và công an phường đến thăm gia
đình tôi, hỏi chuyện sinh hoạt phường khóm và nếp sống mới. Tôi bỏ nồi cháo
dưới bếp để tiếp chính quyền. Chừng mười phút, một ông công an cáo lỗi ra về.
Mười phút sau, mật vụ ập vào nhà tôi, súng ngắn súng dài đầy đủ. Cộng sản luôn
luôn chơi chắc ăn. Họ giả vờ thăm viếng tôi. Khi biết đích xác tôi có mặt ỏ
nhà, họ mới đến bắt… Cảnh tượng gia đình tôi, bấy giờ, thật bi thảm. Vợ tôi
đang đau nặng, vụt tỉnh, tung mền chạy ra phòng khách. Tôi nhìn cái còng nhãn
hiệu Mỹ do cộng sản siết dính trên tay mình, nhìn vợ tôi mặt mày tái mét, nhìn
ba đứa con tôi ngơ ngác, nước mắt chảy ròng ròng. Tôi đợi công an đến bắt tôi
sau khi tôi hay tin họ đã bắt Nguyễn Mạnh Côn, Trịnh Viết Thành, Doãn Quốc
Sĩ…”[85].
Lý do “bọn phản động cho nổ Hồ Con Rùa” được
Huỳnh Bá Thành thuật lại trong cuốn sách mà báo Tuổi Trẻ khẳng định là “một câu
chuyện hoàn toàn có thật” là nhằm phá con rùa “ếm đuôi rồng” để cho đuôi rồng
quậy phá chế độ mới86.
Duyên
Anh, một nhân vật của cuốn sách Vụ Án Hồ Con Rùa, nhận xét: “Bỏ qua thứ văn
chương hạng bét và thứ kiến thức tình báo giày dép của Huỳnh Bá Thành, cộng sản
khẳng định chúng tôi là tay sai của CIA gài lại. Căn nhà số 104 đường Công Lý
(sau này đổi thành Nam Kỳ Khởi Nghĩa) của vợ chồng Đằng Giao là trụ sở lui tới
họp bàn của chúng tôi. Bút hiệu của chúng tôi được nhai nhái hơi hơi giống.
Đằng Giao là Đỗ Gia. Chu Thị Thủy là Chu Nữ. Vợ chồng Nhã Ca, Trần Dạ Từ là Lê
Dạ, Tú Dung. Nguyễn Mạnh Côn là Nguyễn Côn. Tôi là Vũ Long… Cộng sản đề cao
Hoàng Hà Đặng (tên thật Đặng Hoàng Hà) như một ‘lãnh tụ’ ghê gớm, ngang cơ với
Hồ Chí Minh thuở hoạt động bí mật. Thật ra, Đặng Hoàng Hà chỉ là anh phóng viên
tài tử, con người hiền lành, chưa từng biết tình báo là cái gì. Đưa chúng tôi
lên mây, trao mìn về cho chúng tôi, cho chúng tôi thảo luận chiến lược(!) với
các đại cố vấn Mỹ trước 1975 rồi khi ‘tóm’ được chúng tôi thì mô tả chúng tôi
là những thằng ‘ăn mày’, những thằng ‘đói thuốc phiện thất thểu’ vào tù đền
tội, và ‘xưng em’ với nữ công an ngọt xớt”87.
Trên
thực tế, trong những ngày ấy cũng có rất nhiều những người chống đối chính
quyền bằng hành động, có những người – nhất là giới văn nghệ sỹ – chống đối
bằng những lời nói cho sướng mồm, có những kẻ lợi dụng lòng tin, bày đặt chống
đối để lừa đảo tiền tình của những người dân không ưa chế độ. Nhưng cũng có
những cái bẫy được đặt ở đâu đó.
Ngày
6-04-1976, Chính quyền quyết định tấn công vào nơi được coi là “sào huyệt của
bọn phản cách mạng”, đặt trong một khu rừng ở Tùng Nghĩa, Lâm Đồng, bắn chết
sáu người, bắt sống “Chủ tịch Trần Duy Ninh và tám tên khác”. Ngày 8- 04-1976,
bốn mươi ba mục tiêu ở Sài Gòn bị đồng loạt tấn công: “bắt thêm năm mươi tên,
thu giữ một điện đài, hai máy in bạc giả, một máy phát điện, toàn bộ máy móc để
xây dựng đài phát thanh, tám mươi súng các loại, 100kg thuốc nổ TNT và một số
tài liệu phản động”88.
Hành
động này còn mang ý nghĩa trấn áp, vì ngày 29-4-1976, trên cả nước sẽ diễn ra
một sự kiện hết sức quan trọng của Chính quyền Cách mạng: Tổng tuyển cử bầu
Quốc hội Thống nhất đầu tiên của Việt Nam. Chính quyền muốn đảm bảo rằng sẽ
không xảy ra sự cố. Nhiều người đã bị bắt mà cho đến tận khi nhắm mắt lìa đời
vẫn không biết lý do là gì89.
Ngày
7-4-1976, họa sỹ Chóe bị bắt.
Họa
sỹ Chóe tên thật là Nguyễn Hải Chí, trong thời gian “đi trung sỹ” tại Phòng
III, Bộ Tổng Tham mưu, Chóe nổi tiếng với những tác phẩm biếm họa phản chiến
đăng trên báo chí Sài Gòn chế diễu từ Cố vấn An ninh Quốc gia Kissinger, Tổng
thống Nixon cho tới Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu; tranh của Chóe cũng châm biếm
cả bà Nguyễn Thị Bình và ông Lê Đức Thọ… Ở cơ quan Tổng Tham mưu: “Hạ sĩ Nguyễn
Hải Chí bé tí trước đại tướng Cao Văn Viên. Nhưng họa sĩ Chóe thì vĩ đại gấp
nghìn lần Cao Văn Viên”90. Trong chiến tranh, biếm họa của Chóe được các tờ báo
nổi tiếng ở Mỹ đăng.
Chính
quyền Sài Gòn cũng không ưa gì Chóe. Cuối năm 1974, ông bị bắt do vi phạm lệnh
“cấm những người đang phục vụ trong quân đội làm báo”. “Khi đại tướng Tổng tham
mưu quân lực Việt Nam Cộng hòa đào ngũ trốn khỏi Việt Nam quên đọc Huấn thị,
Nhật lệnh, nhờ đại tá thi sĩ Cao Tiêu viết hộ thì hạ sĩ Hải Chí còn nằm ở phòng
giam của Cục An Ninh quân đội”91. Ngày 30-4, chính Cách mạng đã mở cửa nhà tù
cho Chóe.
Họa
sỹ Chóe nhớ lại: “Một hôm đi ngang qua quán cà phê 104 Công Lý của Chu Thị Thủy
– Đằng Giao, tôi nghe Nhã Ca kêu, nên có vào ngồi một lúc. Đó là lần
duy nhất tôi ngồi với họ kể từ sau ngày 30-4”92. Nhưng sự liên đới của
Chóe không chỉ bị Huỳnh Bá Thành lưu ý trong lần cà phê ấy.
Trong
Vụ Án Hồ Con Rùa, Thành đã viết về mối quan hệ của Tú Dung – Nhã Ca với Barry
Hilton: “Viên sĩ quan CIA người Mỹ tên là Barry Hilton cầm tay chỉ việc cho Tú
Dung, thì nữ văn sĩ này biến thành một ‘nữ biệt kích’ chống cách mạng
một cách hoàn toàn không còn lương tri của một người trí thức”. Cách nói
đó không chỉ cáo buộc Nhã Ca. Huỳnh Bá Thành, cũng từng là một họa sỹ biếm,
biết Barry Hilton đánh giá cao tài năng của Chóe. Barry Hilton đã tuyển tranh
của Chóe in thành tập The World of Choe. Sách đã in nhưng vì Barry Hilton là
công chức thuộc Bộ Ngoại giao Mỹ nên phải chấp nhận không phát hành tập sách đả
kích Bộ trưởng Ngoại giao lúc đó.
Chóe
bị bắt khi đang làm việc ở tòa soạn báo Lao Động Mới. Ông bị dẫn về nhà ở số
52/8 Quang Trung, Gò Vấp, lúc đã 6 giờ chiều; công an khám xét tới 9 giờ đêm
thì giải ông về trại “tạm giam”. Huỳnh Bá Thành là người bắt Chóe.
Ba
ngày trước tổng tuyển cử, 26-4-1976, An ninh ra lệnh bắt tiếp Luật
sư Nguyễn Ngọc Bích. Ông Bích không bao giờ biết vì sao mình bị bắt93. Ông
từng làm cho cơ quan trợ giúp Mỹ USAID trong chương trình “cấp căn cước cho
người từ mười sáu tuổi trở lên” và sau khi tốt nghiệp cử nhân luật, ông nhận
được học bổng đi học thêm một năm tại Đại học Harvard, Mỹ. Tháng 4-1975, ông là
“chuyên viên đặc nhiệm” cho Tổng cục Dầu hỏa và Khoáng sản.
Những
cuộc bắt bớ tương tự kéo dài tới năm 1978. Một trong số đó là nhà trí thức cách
mạng Hồ Hữu Tường. Từ giữa thập niên 1920 khi du học ở Paris, ông Hồ Hữu Tường
từng tham gia phong trào Đệ tứ Quốc tế cùng với các ông Phan Văn Trường, Tạ Thu
Thâu. Mặc dù năm 1939, ông Tường từ bỏ chủ nghĩa Marx và phong trào Đệ tứ nhưng
năm 1940 ông vẫn bị người Pháp bắt và đày ra Côn Đảo cho tới năm 1944. Ra tù,
với tư cách là một nhà trí thức, ông Tường có nhiều bài viết nổi tiếng về cả
chính trị, kinh tế và văn hóa phổ biến ở Hà Nội. Năm 1946, ông làm cố vấn cho
phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong Hội nghị Đà Lạt. Ông là một trong
những người biên soạn sách giáo khoa tiếng Việt cho bậc trung học của nước Việt
Nam, lúc ấy, vừa tuyên ngôn độc lập.
Ông
Hồ Hữu Tường bị người Pháp bắt lại năm 1948 và năm 1957, sau khi về sống ở Sài
Gòn, bị chính quyền Ngô Đình Diệm tuyên án tử hình vì làm cố vấn cho Mặt
trận Thống nhất của Hòa Hảo, Cao Đài và Bình Xuyên. Nhờ có sự can thiệp của
những nhân vật nổi tiếng trên thế giới như Albert Camus, Nehru, ông được giảm
xuống khổ sai. Ông được trả tự do sau khi chính quyền Ngô Đình Diệm bị lật đổ.
Ra tù, ông được mời làm phó viện trưởng Viện Đại học Vạn Hạnh và năm 1967, ông
tham gia chính trường với tư cách là một dân biểu đối lập. Ông Hồ Hữu Tường
không phải đi cải tạo cho đến khi ông có một vài “sáng kiến chính trị” vào
năm 1978, năm ông Tường sáu mươi tám tuổi94. Ba lần ông thoát khỏi nhà tù,
của người Pháp và của chế độ Ngô Đình Diệm, nhưng tới lần thứ tư thì không.
Ngày 26-6- 1980, ông Hồ Hữu Tường được đưa từ trại Z30D ở Hàm Tân về Sài
Gòn, nhưng trên đường đi thì ông mất.
Năm
1981, trong khuôn khổ một hoạt động của US-VN Reconciliation Project, bà Luật
sư Ngô Bá Thành được mời tới Đại học Harvard. Tại đây, bà cho rằng, những người
được đi cải tạo là may mắn vì nếu họ bị đưa ra một phiên tòa như Nuremberg thì
có thể họ đã bị xử bắn. Luật sư Ngô Bá Thành không biết rằng con gái của ông Hồ
Hữu Tường, người tù cải tạo vừa mới chết một năm trước đó, Giáo sư Hồ Tài Huệ
Tâm lúc ấy đang dạy lịch sử ở Harvard cũng được người tổ chức chương
trình, ông John McAuliffe, mời dự95. Lập luận của bà Ngô Bá Thành không
mới đối với Hà Nội nhưng rất ngạc nhiên khi nó được nói ra bởi một luật sư.
Việc
đưa vào tù hàng trăm nghìn con người đã buông súng hoặc không hề cầm súng,
không bằng một bản án của tòa, sau ngày 30-4-1975, và đặc biệt, câu chuyện đưa
1.652 con người trên tàu Việt Nam Thương Tín vào tù được kể lại sau đây, thật
khó để nói là may mắn.
Trưa 29-4-1975, Dân biểu Nguyễn Hữu Chung có được một “sự vụ lệnh” do Tổng thống Dương Văn Minh ký cho phép tàu Việt Nam Thương Tín thực hiện chuyến di tản cuối cùng. Sáng 30-4-1975, khi con tàu này ra tới cửa sông, đã bị B40 bắn theo, giết chết nhà văn Chu Tử, chủ nhiệm Nhật báo Sống. Con tàu Việt Nam Thương Tín và hàng nghìn người nằm đợi ở đảo Guam gần năm tháng. Sự chờ đợi trước một tương lai vô định trong khi vợ con, cha mẹ vẫn đang kẹt lại quê nhà đã khiến cho nhiều người muốn quay lại Việt Nam, nơi mà họ tin là đã bắt đầu thống nhất và chắc chắn có hòa bình.
Một
trong số ấy là Đại úy tình báo Võ Tính96. Ông Võ Tính được người Mỹ tạo điều
kiện đưa toàn bộ gia đình di tản. Tuy nhiên, cha ông nói: “Tao chờ đến
ngày đất nước thống nhất, tại sao tao phải đi khi ngày đó gần kề”. Còn cha
vợ ông thì khi đó đang mong hai người con trai tập kết từ năm 1954 trở lại.
Ông
Võ Tính đã định ở lại Việt Nam, nhưng vào những ngày cuối tháng 4-1975, người
Mỹ khuyến cáo là sẽ vô cùng nguy hiểm. Ông Tính được đưa ra Phú Quốc và khi
Tướng Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, ông được đưa ra Hạm đội 7 để rồi sau đó
tới Guam. Cũng như nhiều người lính khác, Đại úy Võ Tính không chắc có bị “Việt
Cộng” trả thù trong khi, từ trong thẳm sâu, ông nhận thấy chỉ có Việt
Nam mới là tổ quốc. Không tìm được lý do hợp lý để bỏ nước, bỏ cha mẹ già,
người vợ trẻ và 3 đứa con thơ, Đại úy Võ Tính đã tham gia vận động để người Mỹ
cho phép những người Việt quay lại Việt Nam bằng con tàu Việt Nam Thương Tín.
Ngày
29-9-1975, sau khi Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp Quốc nhận được sự đồng ý của Chính
phủ Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam, tàu Việt Nam Thương Tín rời Guam trong
một buổi lễ tiễn đưa trang trọng: có những phụ nữ mặc áo dài, chào cờ và được
truyền hình Mỹ tường thuật. Trung tá Hải quân Trần Đình Trụ được ủy nhiệm chỉ
huy chuyến trở về của con tàu này.
Sau
hai tuần hải hành, tàu Việt Nam Thương Tín về đến hải phận Vũng Tàu. Mãi tới
hôm sau, hai tàu Hải Quân treo cờ đỏ sao vàng mới chạy ra và dừng lại cách tàu
Việt Nam Thương Tín gần 200m. Những người lính Hải quân dùng ống nhòm quan sát
rất kỹ và sau mấy giờ, họ hướng dẫn tàu Việt Nam Thương Tín chạy ngược ra phía
miền Trung. Những người trở về bắt đầu linh cảm điều gì đó bất thường nhưng họ
vẫn còn hy vọng và vẫn còn chờ đợi.
Tới
Nha Trang, tàu bị dẫn vào Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân. Tất cả mọi người đều
bị dồn lên những chiếc xe bít bùng và khi được chở tới Trung Tâm Thẩm Vấn của
Quân đoàn II thì mọi người được lệnh “phải trút bỏ hết quần áo, bị khám xét rất
nhiều lần từ đầu đến chân, được phát cho hai bộ đồ lính rộng thùng thình, một
chiếc chiếu rộng 8 tấc rồi dẫn đi nhốt vào phòng giam”. Trừ một đứa bé khi ấy 7
tuổi, tất cả đều phải đi tù, người ít nhất 9 tháng, người lâu nhất – Trung tá
Trần Đình Trụ – phải ở tù tới 13 năm.
Tù và cải tạo
Cho
dù ở tù hay cải tạo thì đều là thân phận của những người mất tự do. Nhưng được
chuyển từ Đề lao Gia Định hay Chí Hòa ra trại “cải tạo” vẫn là những gì mà
những “người tù” thèm khát.
Duyên
Anh viết: “Nếu tôi đã phục vụ (trong quân đội) như Thanh Tâm Tuyền, Phan Nhật
Nam, Tô Thùy Yên…97, tôi sẽ đóng một khoản tiền ăn mười ngày cho đơn vị tôi
trình diện học tập ở trường Gia Long, ở trường Lasan Taberd hay ở cô nhi viện
Don Bosco, chẳng hạn. Rồi tôi chờ đợi xe Molotova, xe GMC, xe đò nữa, chở tôi
đến trại nào đó ở Long Giao, ở Suối Máu, ở Long Thành. Tôi đi tù với hàng ngàn,
hàng vạn bạn bè, tôi không việc gì mà sợ hãi. Ít ra, hai ba năm đầu, bộ đội họ
quản lý tôi cũng dễ dãi hơn công an. Tôi đi lại thong thả khắp trại và đêm đêm
cửa phòng tôi không bị khóa chặt. Nhưng tôi đã thiếu vinh hạnh làm sĩ quan quân
lực Việt Nam Cộng Hòa, tôi là nhà văn phản động và công an đã đến còng tay tôi,
đưa tôi đi một mình”98.
Khi
đã vào những nhà tù như số 4 Phan Đăng Lưu, số 3c Tôn Đức Thắng hay Chí Hòa thì
mới thấy được đi cải tạo cũng là một ân huệ. Luật sư Nguyễn Ngọc Bích kể: “Sau
một năm ở xà lim, tôi được đưa ra phòng giam tập thể, giam chung với sáu mươi
chín người khác trong một phòng. Mỗi người được một phần sàn xi măng rộng 60cm
dài hai mét và được phát một chiếc chiếu. Trong phòng, có các tướng
lĩnh, các bộ trưởng và các viên chức cao cấp của Sài Gòn. Tôi nhận ra
trong đó có những người cùng bị bắt đợt tháng 4-1976 với tôi”.
Bên
cạnh những người tù không có án như Đoàn Kế Tường, Linh mục Thiện, Luật sư
Vũ Đăng Dung, Dân biểu Võ Long Triều, Nguyễn Ngọc Tân, Như Phong, Lâm Văn Thế,
Nguyễn Ngọc Tân, Lê Xuyên… ở các đề lao cũ của Sài Gòn còn có các nhà “tư sản
mại bản” mà trong đó có một số người có được “vinh dự” ra tòa như Phạm Quang
Khai, Trần Thành, Đào Mậu, Tăng Tài, Nguyễn Công Kha, Bùi Kim Bảng, Nguyễn Văn
Trương (Khai Trí), Trương Văn Khôi… và cả những “tên phản động” bị bắt trong vụ
Nhà thờ Vinh Sơn như Nguyễn Việt Hưng, Ali Hùng, linh mục Nguyễn Văn Nghị,
linh mục Nguyễn Văn Chức, thiếu tá Tiếp…
Cuối
thập niên 1970, ngay cả người Sài Gòn cũng không mấy khi có gạo trắng, cá tươi,
cơm tù không thể nào tránh được cá thịu, gạo hẩm. Nước cũng là nỗi khát khao
của các tù nhân. Ở Chí Hòa, tù nhân Đoàn Kế Tường đã từng tổ chức biểu tình
“đòi đi tắm”. “Họ bị cai ngục dẫn đến một phòng trống. Bọn trật tự cầy cáo trói
tay họ lại và đấm đá hội đồng. Người nào cũng tím bầm mắt, máu khô còn ứa trên
mép. Rồi họ bị tống vào biệt giam khu FG. Không chịu nổi biệt giam Chí Hòa,
họ đành làm Tự kiểm nhận lỗi. Riêng Đoàn Kế Tường kiên trì. Tất cả lắc
đầu, thở dài”99.
Nhiều
thứ bệnh đi theo người tù như tiêu chảy, kiết lị… nhưng thuốc men gần như không
có; những năm đó, ngay cả công an, bộ đội và dân chúng cũng đều phải dùng
“xuyên tâm liên chữa bá bệnh”100. Nhưng, không có gì làm khổ người tù như ghẻ,
lở. Theo Duyên Anh: “Ghẻ đề lao ranh mãnh lắm. Nó cứ nhè ‘của quý’ mà lập chiến
khu. Tù nhân này cởi truồng, chổng mông để tù nhân nọ bôi thuốc. Bôi xong, vội
vàng lấy quạt lia. Vì thuốc xót vô cùng”101. Trong hoàn cảnh ấy, những người tù
ở Đề lao Gia Định, Chí Hòa coi việc được đưa tới các trại cải tạo là giảm nhẹ.
Trước
Tết 1977, hai phần ba văn nghệ sĩ và ký giả, trong đó có Nhã Ca, được tập trung
tại khu A, Chí Hòa, học tập một tháng rồi được thả về. Những người như Doãn
Quốc Sĩ, Lê Xuyên, Nguyễn Mạnh Côn, Đằng Giao, Trần Dạ Từ, Chóe, Duyên Anh…
phần lớn vẫn “ở tù”; cá biệt, những người cứng đầu như Đoàn Kế Tường thì bị giữ
lại suốt 10 năm ở Chí Hòa. Trong khi đó, một số khác được chuyển từ chế độ tù
sang “cải tạo”.
Nhưng
đấy là câu chuyện xảy ra trước năm 1978. Khi Chiến tranh Biên giới Tây Nam xảy
ra và ở phía Bắc, Trung Quốc bắt đầu đe dọa, các trại cải tạo được chuyển giao
từ quân đội sang cho công an. Theo Đại úy Phan Nhật Nam: “Chúng tôi bắt đầu
chịu cảnh tội tù khắc nghiệt”.
Ngày 8-5-1975, sau khi trình diện, ngoại trừ
Tướng Nguyễn Văn Vỹ bị bệnh nặng, các sỹ quan cấp tướng102 và cấp tá bị giữ lại
để học tập đợt một tại Ðại học xá Minh Mạng, Chợ Lớn trước khi đưa về Trung tâm
Huấn luyện Quang Trung. Sau đó, các tướng được đưa ra Bắc bằng máy bay trong
khi các sỹ quan cấp thấp hơn được đưa ra Bắc bằng tàu thủy và xe lửa. Nơi đến
của những người bị coi là “nguy hiểm” này là các trại giam Yên Bái, Lào Cai, Hà
Giang, Hà Tây, Nam Hà, Thanh Hóa, Nghệ An.
Như
những người tù thâm niên khác, Trung tá Phan Lạc Phúc đã trải qua những nhà tù
gian khổ nhất: Trại Long Khánh – Suối Máu, Liên trại 2 Sơn La, Trại Yên Hạ (Sơn
La), Trại Tân Lập (Vĩnh Phú), Trại Thanh Phong (Thanh Hóa), Trại Tân
Kỳ (Nghệ Tĩnh), Trại Ba Sao (Hà Nam Ninh), Trại Xuân Lộc (Đồng Nai). Yếu
tố chính để Phan Lạc Phúc chịu cải tạo lâu là vì ông đã từng học thông tin báo
chí tại Hoa Kỳ, từng làm chủ bút Nhật báo Tiền Tuyến, báo của Quân lực Việt Nam
Cộng hòa.
Sau
một năm bị giam ở trại Long Giao và Suối Máu, ngày 10-6-1976, ông Phúc được đưa
ra Bắc trong đợt đầu tiên. Ông viết: “Chúng tôi đang ngồi ở sân tập kết trại
Suối Máu thì người bạn thân cùng ngành của chúng tôi là Tạ Ty chạy hốt hoảng:
‘Đi chuyến này hở. Ra Bắc đấy. Thế là năm niên đấy. Có nhắn gì về nhà không?’
Tôi và Hùng nhìn nhau cười nói với bạn: ‘Nói hộ với gia đình là tụi tôi đi
ra Bắc ngày hôm nay. Ở lại khỏe nha’. Người bạn họa sĩ tài danh của miền Nam
ngậm ngùi tạm biệt ‘Hẹn gặp lại nhau sớm ở Sài Gòn…’ ”103.
Đức
Giám mục Nguyễn Văn Thuận nhớ lại buổi tối ông bị đưa ra khỏi Sài Gòn: “Ngày
1-12-1976, lúc 9 giờ tối, bất thình lình tôi bị gọi cùng với vài tù nhân khác.
Chúng tôi bị xích người này với người kia từng hai người một và được đẩy lên
một xe cam nhông. Cuộc hành trình ngắn đưa chúng tôi tới Tân Cảng. Chúng
tôi thấy một con tàu trước mặt, hoàn toàn chìm trong bóng tối để dân chúng khỏi
để ý. Chúng tôi bị đưa lên tàu đi ra miền Bắc… Tôi bị đem xuống hầm tàu, nơi
chứa than. Chỉ có một ngọn đèn dầu nhỏ leo lét cháy. Chúng tôi tất cả là 1.500
người, trong một tình cảnh không thể tả được… Ngày hôm sau, khi một chút ánh
sáng mặt trời lọt vào hầm tàu, tôi nhận ra chung quanh tôi những gương mặt buồn
sầu và tuyệt vọng của các tù nhân khác. Bầu không khí sầu thảm như đám tang.
Một tù nhân đã tìm cách treo cổ tự tử với một sợi dây thép. Những người khác
gọi tôi. Tôi đến nói chuyện với anh”104. Trung tá Phan Lạc Phúc cũng được đưa
ra Bắc bằng tàu và chuyến đi của ông cũng gian khổ không kém gì chuyến tàu của
Đức cha Nguyễn Văn Thuận, nhưng những gì mà họ gặp trong quãng đường chuyển tù
chỉ mới là những thử thách ban đầu105.
“Thăm Nuôi”
Thời
gian cải tạo càng tăng thêm thì tiền bạc của người nhà tù nhân cũng như ngân
sách của “Cách mạng” càng dần cạn kiệt. Từ Tết năm 1976, các suất ăn bắt đầu bị
cắt bớt; đến cuối năm 1977, lương thực của tù nhân được thay bằng
lúa mạch, thường gọi là bo bo. Theo Đại úy Tạ Chí Đại Trường, tới mùa Thu
năm 1978, mỗi người chỉ còn 300g gạo một ngày. “Rau muống, rau lang không kịp
ra đọt non, rau dại cũng bị vặt khi vừa mới nhú. Củ chuối bị đào hết lên”.
Không
phải học viên cải tạo nào cũng biết rằng lúc ấy ở “ngoài xã hội”, cái bao tử
của thường dân cũng không no đủ hơn. Chính quản giáo, ban ngày “hắc” thế nhưng
đêm xuống cũng tìm gặp những người tù vừa được thăm nuôi để “xin tý mỡ”. Những
ngày có đồ thăm nuôi là những ngày trong trại tưng bừng. Những lá thư viết
từ trại những năm tháng về sau chủ yếu là liệt kê các “nhu yếu” thăm nuôi. Ông
Tạ Chí Đại Trường kể: “Cũng có người vẫn giữ được tiền, mỗi lần thăm nuôi lại
có khuân có vác, nhưng cũng có người chỉ có thể mang theo mấy ổ bánh mì, lủi
thủi với chồng: Không biết lần sau có còn vay được tiền đi thăm anh”. Dần dà,
những người tù bắt đầu biết thăm nuôi đang trở thành một gánh nặng cho
những người mẹ, người vợ ở quê cũng đang đói khổ. Để đi đến các trại cải
tạo thăm chồng, thăm cha, những người con lính, vợ lính đã phải nếm biết bao
tủi nhục.
Từ
năm 1978, họa sỹ Chóe bị đưa lên trại Gia Trung, Gia Lai. Hai năm ở trại “tạm
giam” của cơ quan An ninh Điều tra, số 4 Phan Đăng Lưu, Chóe chỉ được nhận đồ
chứ không được gặp người nhà. Hai năm ấy, do phải nằm trên sàn xi
măng, chân ông, vốn phong thấp, đã gần như bị liệt. Đến Gia Trung, được thăm
nuôi thì đường sá lại quá xa xôi, cách trở.
Vợ
Chóe, bà Nguyễn Thị Kim Loan, năm ấy phải một mình nuôi bốn đứa con, đồ đạc
trong nhà gần như đã bán hết. Cũng như hàng triệu gia đình Sài Gòn, nhà bà cũng
được Chính quyền cấp cho “sổ gạo”, nói là gạo nhưng những năm ấy thường chỉ có
bo bo hoặc khoai; tiêu chuẩn một ký gạo được Nhà nước bán thay thế bằng 2 ký
khoai.
Không
chỉ những người vợ có chồng bị đưa đi cải tạo, trong “chế độ mới” đàn ông trở
thành vai trò thứ yếu vì không có việc làm, cuộc sống chỉ còn có thể trông cậy
vào tài xoay xở, mua bán lặt vặt của những người phụ nữ.
Bà
Loan lả một phụ nữ công giáo di cư từ Phát Diệm, đã từng làm thư ký trong Bộ
Tổng Tham Mưu Việt Nam Cộng hòa, từng sống hết sức phong lưu nhờ nhuận bút
những bức tranh biếm của chồng đăng trên các báo Sài Gòn, báo Mỹ. Từ khi chồng
“đi Gia Trung”, bà Loan phải mua từng bộ đồ cũ, từng bịch xà bông, chen chúc
trên xe đò, giấu giếm đem về An Giang quê chồng, bán, kiếm từng đồng chênh lệch
giá.
Kiếm
tiền để đi thăm nuôi đã khó, mỗi một chuyến đi từ Sài Gòn lên Gia Lai là cả một
“đoạn trường”. Trước hết, phải “chạy” xin cái giấy của Phường, rồi từ 3 giờ
chiều đã phải ra bến xe xếp hàng. Chính sách “cải tạo nhân đạo” đã biến những
hãng xe đò tư nhân như Phi Long, Phi Hổ một thời khoanh tay mời khách mua vé,
mời khách lên xe, trở thành những “chuyến xe bão táp”. Có mặt từ chiều ở bến
xe, đợi đến 3 giờ sáng “xe khách quốc doanh” bắt đầu bán vé, chen chúc, la ó,
nhưng có khi đến lượt mình thì vé hết vì xe ít, nhà nước ưu tiên bán trước cho
cán bộ có “giấy công tác”.
Không
đi được là bi kịch vì tiền bạc giành dụm mua cá, mua thịt kho để lâu không
được. Nhà nước sợ tù tích trữ thực phẩm trốn trại nên không cho thăm nuôi đồ
khô, ngay cả mắm ruốc, muối mè. Lên xe được rồi cũng vô cùng thắc thỏm, những
năm ấy nền kinh tế không còn “lệ thuộc nước ngoài”, phụ tùng không có, xe cộ
hỏng hóc giữa đường là chuyện thường. May mắn, chạy suốt ngày ra tới Phước Tài
thì đêm, không được lên đèo An Khê, ngồi ngủ trên xe cho tới 6 giờ sáng.
Theo
bà Nguyễn Thị Kim Loan: Từ chỗ xe dừng vào tới trại hơn ba cây số. Quản giáo
không cho thuê người gánh. Họ nói, “Giờ này mà các chị vẫn không bỏ được cái
thói tiểu tư sản à”. Dân Sài Gòn gánh không quen, đau vai, đành cứ phải xách.
Xách giỏ thứ nhất lặc lè đi lên chừng trăm thước, quay lại xách giỏ thứ hai. Đi
ba cây số mà mất tới hơn hai giờ. Những hôm xe chết máy, lên tới trại đã là nửa
đêm thứ hai, trời tối như bưng, lũ đàn bà, con nít cứ nhắm mắt mà đi không nhận
ra lối rẽ, bước thẳng vô mấy nấm mồ mới, hét lên. Quản giáo chạy ra mới biết đã
lạc vào trại khác, phải ngủ lại đấy, chờ sáng hôm sau tìm đến chỗ giam chồng.
Lặn lội xa xôi như vậy nhưng rồi cũng chỉ được nhìn thấy mặt chồng mười lăm
phút. Trên một cái bàn cây dài, quản giáo ngồi hai đầu, một bên là “phạm”, một
bên là thân nhân, họ chỉ kịp trao đổi với nhau những lời vội vã.
Năm
1978, nhà sử học Tạ Chí Đại Trường cũng đang học tập ở trại Gia Trung, kể: “Có
người xách bịch đồ thăm nuôi về phòng mà băn khoăn không biết ở ngoài làm
sao vợ nuôi nổi mấy đứa con lại còn chạy được tiền đi thăm mình. Nhưng
cũng có người thản nhiên, phần vì đã quen đòi hỏi, phần vì không hình dung
hết những gì đang xảy ra, liên tục gửi thư về giục gửi cho thứ này, thứ nọ.
Thảm cảnh gia đình xảy ra từ đó”.
Đại
úy Đỗ Duy Luật, tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 248, Sư 18. Ngày 19-4-1975, đơn vị
ông được điều từ Bình Tuy về Long Khánh, tham gia trận Long Khánh gây tổn thất
nhiều cho quân Giải phóng. Hai ngày sau khi ra trình diện, ông Luật bị đưa lên
Long Giao. Từ tháng thứ hai, ông được viết thư về nhà nhưng chỉ cho khai số
hiệu trại là “L2T2” chứ không cho nói rõ địa danh. Vợ ông, cũng như vợ của
nhiều người lính khác, phải đi hết trại này sang trại khác, nấp sau những bụi
cây cạnh bờ rào dò hỏi với hy vọng mong manh tìm chồng. Những chuyến đi như vậy
làm khánh kiệt dần chút gia tài mọn của những người vợ lính.
Từ
năm 1978, ông Luật được di lý từ Sơn La về trại Ba Sao, Phủ Lý. Mãi tới cuối
năm 1979, vợ ông mới tìm được ra thăm. Đó là lần gặp nhau cuối cùng của hai vợ
chồng. Khi trở về bà phát bệnh ung thư rồi chết vào đầu năm 1980. Cũng trong
năm ấy, ông được chuyển từ Ba Sao về Hàm Tân, vào trại Z30D. Tháng 6-1981, ông
được tha với lý do là vợ chết. Khi ông Luật trở về, căn nhà nhỏ của ông ở số 2
Duy Tân không còn nữa, vợ ông đã phải bán, trang trải chi phí cho những chuyến
đi thăm chồng và nuôi ba con nhỏ.
Bán nhà chưa phải là bi kịch lớn nhất. Theo
Đại úy Tạ Chí Đại Trường: “Có những người vợ đã phải đi bán thân. Có những
người vợ đã phải sử dụng thế mạnh của đàn bà để kinh doanh, buôn bán. Khi người
trụ cột kinh tế là đàn bà, con gái và trẻ em, lại phải tìm cách qua mặt công
an, luồn lọt công quyền, ứng biến khi sơ thất ngay cả trên đường xa… thì
không thể nào trách những người phụ nữ ấy. Chuyện một bà tứ tuần có mang với
anh tài xế xe hàng, một bà vợ sỹ quan bán chợ trời cặp với anh lính cũ của
chồng mình… cũng không có gì bất ngờ khi nó được đưa vào trại”106.
Cũng
có những người tù cải tạo thương vợ thật lòng viết thư về nói: “Thôi, đời anh
như vậy là hết rồi, em nên đi tìm hạnh phúc mới, coi có người bộ đội nào…”.
Điều
đó lại chạm vào tự ái của một số người quản giáo duyệt thư, nhiều anh đã kiêu
hùng, mắng: “Nhà nước giam giữ các anh không phải nhằm mục đích chia rẽ
gia đình, và chúng tôi chiến đấu không phải là để cướp đoạt vợ con của các
anh! ”107. Có lẽ, nếu có ai mất vợ thì cũng chỉ vì thời thế. Vợ của nhà thơ Tạ
Ký đã đi lấy chồng “Việt Cộng” khi ông còn bị giam ở trại T6, Long Khánh,
cùng với nhà sử học Tạ Chí Đại Trường và họa sỹ Trịnh Cung.
Trại
T6 có một nhà xí hai ngăn nằm ngay rìa đường vào rẫy của dân, sát bờ rào dây
kẽm gai. Thời gian đầu, thân nhân chưa được chính thức thăm nuôi, các trại viên
T6 có sáng kiến dùng nhà xí để nhận tin gia đình và trò chuyện với người
thân mà không bị quản giáo phát hiện. Các trại viên thường thay phiên nhau
ra ngồi “trực” ở đó để chờ nhận tin nhắn, nhiều tù nhân đã gặp được người thân,
những người cất công đi tìm chồng, tìm con, tìm cha, dù chỉ để nhìn thoáng thấy
mặt nhau trong giây lát hay nói thật nhanh một câu báo tin nhà. Họ thường phải
lên đấy trước, mượn quần áo làm đồng, cuốc xẻng của những nông dân sống gần
trại để ngụy trang và nhờ chính những nông dân này che giấu, men theo hàng rào
kẽm gai như những người dân đi làm ruộng tình cờ ngang qua hố xí. Cũng chính
nơi đó, những người tù nôn nao ngồi chờ…
Một
ngày cận Tết năm 1976, đúng vào phiên “trực hố xí” của họa sỹ Trịnh Cung, ông
nhận được tin nhắn: Tạ Ký gặp mẹ lúc 2 giờ trưa nay!”. Trịnh Cung vội báo tin
cho Tạ Ký. Khi đó, theo ông Trịnh Cung: “Đó là một tin vui bất ngờ của Tạ Ký vì
đã nửa năm chưa được thăm nuôi. Nhưng thông tin mà anh nhận được từ mẹ chỉ
là: Vợ con nó lấy thằng Việt cộng rồi. Ở nhà có mẹ lo sắp nhỏ, con yên tâm. Khi
được phép, mẹ sẽ đi thăm”108. Không riêng Tạ Ký, không ít sỹ quan “Ngụy”
từ trại cải tạo, khi đột ngột trở về đã phải đột ngột bước ra khỏi nhà mình, vì
“đứa con ngày chia tay còn thơ không còn nhận ra mình, trong khi trong nhà
lại treo cái nón cối”109.
“Học Tập”
Đầu
tháng 4-1865, khi viết thư đầu hàng gửi Đại tướng Tư lệnh Quân miền Bắc Ulysses
S. Grant, Đại tướng Robert E. Lee đã xin cho những người lính của ông được mang
lừa ngựa, mà họ đã đem từ nhà tham chiến, trở về quê cũ làm ăn. Còn Đại tướng
Dương Văn Minh, cuối tháng 4-1975, đã tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Trong
những động thái chính trị trước đó, không có dấu hiệu nào cho thấy Tướng Minh
và “bộ tham mưu” của ông đã lo lắng cho số phận của hàng triệu binh sỹ miền
Nam.
Cũng
thật khó để trách tướng Minh. Trước khi tuyên bố đầu hàng, ông đã không có cơ
hội nào để thương lượng với những người chiến thắng. Nhưng sự khác nhau căn bản
giữa hai cuộc chiến tranh nằm ở chỗ: ở Mỹ, năm 1865, những chiến binh miền Nam
được các tướng thắng trận mô tả như “một đoàn quân tả tơi, nhưng hiên ngang”,
còn ở Việt Nam, năm 1975, những người lính miền Nam Việt Nam bị những người
Chiến thắng gọi là “tay sai”, là “dã thú”.
Chưa
bao giờ Chính quyền cho công bố chính xác số lượng người bị đưa đi cải tạo110.
Theo
số liệu dẫn trong Nghị quyết 01 của Bộ Chính trị, tính tới tháng 9-1982 chỉ
riêng ở Sài Gòn, Chính quyền đã tha về hơn ba vạn sỹ quan đã từng là tù cải
tạo. Tháng 1-1988, hàng ngàn tù cải tạo đã được tha. Từ đó, gần như toàn bộ số
tù cải tạo ở tất cả các trại giam, kể cả từ trại Nam Hà, khoảng 210 người, đều
được đưa về trại Z30D. Họ gồm các sỹ quan cấp tướng, cấp tá, hoặc những người
từng phục vụ trong các lực lượng như an ninh quân đội, cảnh sát đặc biệt, tình
báo. Nhiều người trong số họ đã phải ở tù tới đầu năm 1992111.
Tướng
Trần Văn Trà và ông Cao Đăng Chiếm, hai đại diện của quân đội và công an trong
Ủy Ban Quân quản, đảm trách việc chuẩn bị “Chiến dịch X-1”. Tuy nhiên, theo ông
Võ Văn Kiệt, Đảng ủy Quân quản và Trung ương Cục cũng đã bàn luận rất nhiều,
không chỉ là tính những thủ thuật để hàng trăm nghìn sỹ quan quân đội miền Nam
tự mang khăn gói vào tù, mà còn đề ra mục tiêu chính trị cho việc tập
trung cải tạo. Chủ trương đưa những sỹ quan cao cấp, những người có “nợ
máu” đi cải tạo lâu dài cũng không hẳn là để “trả thù” mà, theo ông Kiệt, còn
“để họ thấy sai, thấy sự lầm lạc và hiểu cuộc chiến tranh của Cách mạng là
chính nghĩa”112.
Có
thể đọc được suy nghĩ ấy của những người như ông Kiệt trong các bài xã luận
đăng trên báo Sài Gòn Giải Phóng ngay trong những ngày “Chiến dịch X-1” đang
diễn ra113.
Ngày
11-6-1975, hạ sỹ quan, binh lính bắt đầu ngày “học tập” đầu tiên. Ngày
12-6-1975, báo Sài Gòn Giải Phóng có bài “Thấm nhuần tinh thần nhân đạo Việt
nam”, xã luận: “Cách mạng thắng lợi, giải phóng đồng bào ta, đồng thời cũng
giải phóng luôn cả người lính nguỵ. Cuộc đời làm lính đánh thuê cho đế quốc Mỹ
đã chấm dứt. Họ khỏi phải chết. Họ thoát khỏi kiếp sống cực nhục trong đội quân
chống lại tổ quốc. Đó là hành vi nhân đạo đầu tiên rất căn bản của cách mạng
đối với họ. Giờ đây, dù họ có bị bắt giam hay không, họ vẫn là những tù, hàng
binh trong tay các lực lượng vũ trang giải phóng… Tuy nhiên, nếu chúng không
chống cự thì ta cũng không giết chúng. Chúng cũng là con người Việt Nam. Đế
quốc Mỹ và tay sai đã biến chúng từ con người thành ra dã thú. Cách mạng phải
cải tạo chúng từ thú trở lại thành người. Phải giam chúng lại để chúng không
làm hại nhân dân được nữa. Đồng thời phải cải tạo chúng để chúng cải tà quy
chính”114.
Ngày
15-6-1975, báo Sài Gòn Giải Phóng xã luận tiếp: “Hòa hợp là một chính sách lớn
của cách mạng. Muốn hoà hợp dân tộc thì điều cơ bản và đầu tiên là phải làm sao
cho mọi thành viên trong cộng đồng dân tộc có một lập trường thống nhất làm cơ
sở. Giặc Mỹ và bọn tay sai bán nước dã dùng một chính sách chia rẽ tệ hại nhất.
Chúng gây thù hằn giữa các thành viên của dân tộc, giữa các tôn giáo, giữa các
địa phương. Chúng cố tình chia cắt nước ta… Nguy hiểm hơn cả là chúng
đã dùng mọi thủ đoạn để nhồi nhét vào đầu óc của một số người chủ nghĩa
chống cộng điên cuồng để làm bình phong che dấu mục đích xâm lược. Bởi vì chúng
biết rằng những người cộng sản là những người yêu nước nhứt, là những người
chống đế quốc quyết liệt nhứt… Làm sao có thể hoà hợp giữa những người yêu nước
với những người chống lại tổ quốc, dù dưới bất cứ hình thức nào và nhãn hiệu
nào?
Súng
đã nộp mà tư tưởng chống cách mạng vẫn còn thì hoà hợp làm sao được?… Vì vậy,
hoà hợp dân tộc là trước hết, họ phải gột sạch những nọc độc tư tưởng giặc Mỹ
đã gieo rắc, từng bước tiếp thu ánh sáng chính nghĩa của dân tộc. Đợt học tập
tổ chức cho binh sỹ nguỵ quân, nguỵ quyền hiện nay đã mở ra cho họ một cơ
hội tốt để làm việc đó. Qua học tập, họ phải thấy cho rõ âm mưu và tội ác của
giặc Mỹ và tay sai, phải nhận ra chính sách khoan hồng đầy nhân nghĩa của cách
mạng, phải thấy hết lỗi lầm của mình đối với dân tộc và con đường tất yếu họ phải
đi từ đây để làm lại cuộc đời, trở thành người công dân Việt Nam chân chính. Đó
là con đường duy nhất đưa họ đi đến hoà hợp với đông đảo các tầng lớp nhân
dân”115.
Cho
tới đầu thập niên 1990, quan điểm của Đảng về việc tập trung cải tạo vẫn còn
khắc nghiệt. Thông báo ngày 20-2-1991 của Ban Tư tưởng Văn hóa Trung
ương “Về nhữ ng luâṇ điệu
xuyên tạc của
Bùi Tín trên
đài BBC” viết:
“Việc cải tạo
những phần tử
đã gây nhiều tội
ác hoặc còn
mang nặng tư tưởng chống cộng, thù địch quyết liệt với cách mạng hoàn toàn
không phải là vi phạm nhân quyền, càng không phải là việc làm trái với chính
sách hòa hợp, hòa giải dân tộc mà chính là việc làm cần thiết để bảo vệ cuộc
sống hòa bình, yên vui của nhân dân, bảo vệ nhân quyền cho mọi người để tăng
cường hòa hợp dân tộc”.
Đúng
như ông Võ Văn Kiệt thừa nhận, đòi hỏi những sỹ quan thua trận “tiếp thu ánh
sáng chính nghĩa” từ những người đưa mình vào tù là một yêu cầu quá cao. Cán bộ
quản giáo miền Bắc, những người trực tiếp giáo dục lại các “ngụy quân và ngụy
quyền” là những người lớn lên trong một xã hội hoàn toàn khép kín. Những giai
thoại nói mấy chú bộ đội ngày mới vô, thấy Sài Gòn giàu có, đã giữ tư thế cho
miền Bắc xã hội chủ nghĩa bằng cách khoe: “Ngoài đó, ti vi tủ lạnh chạy đầy
đường”, không chỉ là những chuyện kể khôi hài. Chuyện bộ đội tiếp quản biệt
thự, cao ốc, nhìn thấy cái bồn cầu sứ trắng tinh tưởng là bồn rửa rau, cho rau
vào, giật nước, thấy rau trôi mất bèn kêu: “Bọn tư bản nó gài bẫy” cũng không
hẳn là tiếu lâm chính trị.
Hầu
hết bộ đội miền Bắc đều ra đi từ những làng quê nghèo đói. Đến khi vào tới Sài
Gòn thì đến Đài Tiếng nói Việt Nam cũng ít có dịp được nghe, sách báo thì ngay
cả Thép Đã Tôi Thế Đấy, Rừng Thẳm Tuyết Dày… cũng không đủ đọc. Họ được dạy
rằng người dân miền Nam đang phải rên xiết, lầm than; nhiều thanh niên miền Bắc
trong ngày 30-4-1975 còn ước ao được nhanh chóng vào Nam để giáo dục những
thanh niên lầm đường lạc lối.
Không
ít quản giáo khi tiếp xúc với những sỹ quan được đào tạo chính quy của miền Nam
đã nhận ra sức hiểu biết của mình đang ở đâu. Cũng có những người vì mặc cảm đã
dùng quyền uy lấn át. Nhưng cũng có những người tiếp tục trung thành với
những gì được dạy. Sự say sưa làm “thầy” của họ đã tạo ra không ít tình huống
trớ trêu.
Theo
ông Nguyễn Văn Trân116, người được bổ sung vào Trung ương Cục đầu tháng 4-1975,
chủ trương từ trước của Bộ Chính trị là: Số nguy hiểm thì đưa ra miền Bắc
cải tạo, số không nguy hiểm thì để lại trong Nam. Bản thân những
người trong cuộc cũng nhận thấy những người được cải tạo ở miền Nam thì
cuộc sống có phần nhẹ nhàng hơn, ngắn hạn hơn. Những người “tù nặng, tù lâu”
thì ra Bắc. Những năm đầu việc cải tạo do bộ đội quản lý, kể từ sau cuộc chiến
tranh biên giới 17-2-1979, tù cải tạo được chuyển dần sang các trại ở Nam Hà,
Thanh Hóa.
Không
chỉ bị hành hạ về tinh thần, thật khó lý giải vì sao những người chiến thắng
lại giam giữ những đối thủ đã đầu hàng mình lâu như vậy. Cho tới đầu thập niên
1990, những người lính biệt kích bị bắt hồi đầu thập niên 1960, những tù binh
“Ngụy” bị bắt hồi Mậu Thân (1968), hồi Chiến dịch Hạ Lào 1971 vẫn còn phải đang
“cải tạo”.
Nhà
thơ Tô Thùy Yên, sau mười năm ở tù về đã viết:
Ta
về cúi mái đầu sương điểm
Nghe
nặng từ tâm lượng đất trời
Cám
ơn hoa đã vì ta nở
Thế
giới vui từ mỗi lẻ loi
Ta
về như lá rơi về cội
Bếp
lửa nhân quần ấm tối nay
Chút
rượu hồng đây xin ruới xuống
Giải
oan cho cuộc bể dâu này…
Cải
tạo không chỉ là câu chuyện của từng số phận mà còn là một phần trong “cuộc bể
dâu” cuối thế kỷ 20 của Việt Nam.
Chú Thích Chương II
41 Theo ông Huỳnh Bửu
Sơn, ngay trong ngày 1-5-1975, Cách mạng đã biết trong kho có số vàng này,
nhưng phải khi ôngđi học tập về thì mới chính thức bàn giao. Ông Huỳnh Bửu Sơn
là một trong hai người nắm giữ chìa khóa kho vàng và trực tiếp giao vàng cho
hai người, một người bộ đội tên là Duyệt, một người về sau làm giám đốc ngân
hàng Cần Thơ. Kho dự trữ chứa 15,7 tấn vàng, gồm: vàng thoi FRD của Mỹ, vàng
thoi Montagu của Nam Phi và vàng thoi Kim Thành, có nguồn gốc là vàng lậu do
hải quan bắt tịch thu về đưa cho hãng Kim Thành đúc lại. Ngoài ra còn có các
đồng tiền vàng của Mỹ, Double Eagle, mệnh giá 20 USD nhưng được làm từ một
lượng vàng trị giá 420 USD; đồng Pesos của Mexico; đồng vàng Napoleon… Ngoài số
vàng hiện vật, 15,7 tấn, Ngân hàng Quốc gia còn bàn giao 5,5 tấn vàng khác đang
được giữ tại Thụy Sỹ (được lấy ra sau khi người Mỹ bỏ cấm vận).
42 Tên gọi thân mật
của Lê Duẩn.
43 Tố Hữu.
44 Sài Gòn Giải Phóng,
2-7-1975.
45 Sài Gòn Giải Phóng,
6-5-1975.
46 Sài Gòn Giải Phóng
số ra ngày 8-11-1975.
47 Sài Gòn Giải Phóng,
8-11-1975.
48 Gần như hầu hết
nhân viên tình báo và sỹ quan cảnh sát đều bị kẹt lại. Theo ông Phan Ngọc
Vượng, cán bộ làm việc trong Ban R, Nha Nghiên cứu, Phủ Đặc ủy Trung ương Tình
báo: Ngày 21-4-1975, Phủ nhận được điện từ phía Mỹ cho biết, theo kế hoạch di
tản của Kissinger, ngày 24, 25-4-1975, tất cả cán bộ tình báo và các sỹ quan
cảnh sát sẽ được đưa đi. Bức điện được chuyển cho Chuẩn tướng Nguyễn Khắc Bình,
tổng giám đốc Cảnh sát Quốc gia kiêm đặc ủy trưởng Đặc ủy Trung ương Tình báo.
Ngày 22-4-1975, khi họp để bàn về vấn đề di tản, Tướng Bình tuyên bố: “Tình báo
và cảnh sát phải ở lại đến phút cuối cùng chứ không thể di tản trong tình hình
này”. Mọi người đều cho rằng đó là một quyết định cần thiết. Nhưng, ngày 23-4,
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu rời Việt Nam. Ngày 24-4-1975, Nguyễn Khắc Bình lặng
lẽ di tản không một lời bàn giao cho thuộc cấp. Tổng thống tạm quyền Trần Văn
Hương bổ nghiệm ông Nguyễn Phát Lộc (đi cải tạo cho tới khi chết ở trại giam
Nam Hà), phụ tá kế hoạch của ông Bình, làm đặc ủy trưởng. Ngày 26-4, ông Lộc cử
ông giám đốc Trung tâm thẩm vấn quốc gia qua tòa Đại sứ Mỹ liên hệ việc thực
hiện kế hoạch di tản. Ông giám đốc thay vì chuẩn bị kế hoạch cho các đồng sự đã
tìm đường di tản với gia đình. Ngày 28-4, ông Lộc cử tiếp giám đốc nha tình báo
quốc ngoại đi, ông giám đốc nha cũng âm thầm di tản nốt. Chiều ngày 28-4-1975,
tòa Đại sứ Mỹ yêu cầu tất cả nhân viên Phủ Đặc ủy tập trung ở số 3 Bạch Đằng
chờ. Đến chiều hôm sau, lại có yêu cầu chuyển sang số 2 Nguyễn Hậu. Tại đây,
mọi người được yêu cầu phải nộp lại tất cả súng ống. Nhưng, tới 1 giờ sáng ngày
30-4-1975 thì tất cả liên lạc giữa Tòa Đại sứ và Phủ Đặc ủy đều bị cắt. Gần
sáng, chuyến máy bay cuối cùng chở Đại sứ Mỹ rời khỏi Sài Gòn. Hầu như tất cả
cán bộ của Phủ Đặc ủy tình báo, lực lượng được ưu tiên di tản khỏi Sài Gòn, đều
bị kẹt lại.
49 Sài Gòn Giải Phóng,
14-6-1975.
50 Sài Gòn Giải Phóng,
14-6-1975.
51 Hiểu biết của chính
quyền mới trước cách gọi các chức danh trong chế độ cũ đã gây ra không ít tình
trạng trớ trêu. Sự suy diễn của những người chiến thắng trước những ngôn từ rổn
rảng mà Chính quyền Sài Gòn thích dùng đã làm điêu đứng biết bao số phận. Chữ
“chiêu hồi” bên cạnh chức năng “dân vận, thông tin” của cơ quan Thông tin Chiêu
hồi đã khiến cho các quan chức thuộc loại “văn nghệ” này phải cải tạo lâu hơn
những “ngụy quyền” đồng cấp. Số phận của nhiều “sỹ quan biệt phái” cũng khá là
bi đát. Có người trong số họ do có tiền bạc hoặc ô dù, “chạy” được cái “biệt
phái” từ một đơn vị tác chiến sang văn phòng. Có khoảng 15.000 người là giáo
chức, viên chức y tế, sau Mậu Thân, sau “Mùa Hè Đỏ lửa 72”, bị động viên vào
Trường Sỹ quan Thủ Đức, huấn luyện một thời gian, nhận “lon” như một thứ quân
dự bị rồi về dạy học hay chữa bệnh. Khi bị tập trung cải tạo, tên gọi “sỹ quan
biệt phái” đã làm cho họ bị nghi ngờ: Nếu không phải “CIA” thì chắc cũng thuộc
thành phần ghê gớm lắm. Đặc biệt, các sỹ quan ở cơ quan “Chiến tranh Chính trị”
vốn chỉ đi cùng các em văn công xuống đơn vị đàn hát, đã bị tưởng là các “chính
trị viên”, nên nhiều người đã phải chịu hơn mười năm tù tội. Những người tốt
nghiệp trường Quốc Gia Hành chánh cũng suýt bị “mục xương” vì, theo Tổng Thư ký
Hội Trí thức Yêu nước Huỳnh Kim Báu, mới đầu Cách mạng tưởng trường này cũng có
vai trò như “Trường Đảng”.
52 Tạ Chí Đại Trường,
1993, trang 53-54.
53 Sđd, trang 54.
54 Sđd, trang 55.
55 Sài Gòn Giải Phóng,
19-8-1975.
56 Sài Gòn Giải Phóng,
15-5-1975.
57 Bức thư nói là của
ông Trần Văn Tức viết: “Em mến... Anh lúc này mạnh khỏe lắm, ăn uống nhiều hơn
ở nhà, mỗi ngày ba bữa ăn, học tập cải tạo vui vẻ lắm, nhất là học tập về lao
động để quen với nếp sống đồng quê như làm rẫy cuốc giống, trồng tỉa chung với
chúng bạn nên cảm thấy vui vẻ. Chiều ra xem mấy luống rau cải xanh um tươi tốt
cũng như lúc ở nhà anh làm ruộng làm rẫy chiều chiều dẫn em và các con đi xem
vậy. Sau ngày mãn khóa về chúng ta sẽ tìm lại nếp sống ruộng rẫy ở quê nhà...
Ngày 29-7-75, Trần Văn Tức”.
58 Giải Phóng,
7-8-1975.
59 “Hỏi: Trên đường đi
thăm anh, chị nghĩ thế nào về anh ấy? Đáp: Hồi trước anh ấy là “cây nhậu”, nên
về nhà thường bỏ cơm, cho nên da vàng và thân hình ốm mảnh khảnh. Tôi nghĩ khi
phải học tập lao động, sợ anh chịu không nổi. Hình ảnh lởn vởn trong đầu tôi là
một anh L ốm o, gầy mòn thân hình tiều tụy, đuổi ruồi không bay. Hỏi: Khi đã
gặp anh L chị thấy anh ấy như thế nào? Đáp: Anh L bây giờ da sạm nắng, thân
hình rắn chắc hơn trước. Tôi thấy anh ấy mập gấp đôi trước kia cho nên nghi anh
ấy bị bịnh phù thủng, tôi có thử bấm vào cánh tay, bắp đùi coi thử có thiệt
không nhưng thấy các bắp thịt rất cứng do đó tôi mừng vô cùng. Hỏi: Khi đến
trại chị gặp anh L đang làm gì? Đáp: Khi đến trại tôi gặp anh C tiểu đoàn
trưởng đang ở trần chơi vô lây (bóng chuyền). Tôi đã òa lên khóc vì vừa mừng
vừa tủi, đến 11 giờ anh L đi làm về gặp tôi. Anh L đã bỏ ăn trưa để được nói
chuyện, hỏi thăm tin tức bà con ở Sài Gòn. Hỏi: Chị thấy anh em ăn uống như thế
nào? Đáp: Tôi không dự buổi ăn tập thể, nhưng anh có đem cho tôi bắp nấu, cơm
thịt chả bông cho tôi. Tôi hỏi có hụt phần ăn của anh không? Anh L cho biết, ở
đây ăn uống rất đầy đủ, ở đây gần suối nên anh em câu được cả cá lóc nữa. Trưa
tôi ở đó thì anh em câu được một con và quyết định nấu cháo vào buổi chiều.
Hỏi: Chị thấy anh em cán bộ tập huấn như thế nào? Đáp: Các anh ấy rất tốt. tôi
có mang theo mấy số Tin Sáng, các anh ấy và anh em học tập cùng chia nhau đọc.
Mấy anh cán bộ cứ hỏi thăm tôi về Sài Gòn hoài. Trên nguyên tắc, mỗi người thăm
chồng được hai giờ, nhưng thông cảm tôi từ Sài Gòn ra, hơn nữa vợ chồng lâu
ngày mới gặp nên các anh cán bộ đã tế nhị sắp xếp cho vợ chồng tôi được gặp
riêng và nhiều giờ hơn.
60 Trả lời phỏng vấn
tác giả.
61 Trả lời phỏng vấn
tác giả.
62 Ký giả Lô Răng.
63 Nhà văn, nổi tiếng
với tác phẩm Mùa Hè Đỏ Lửa, viết về Chiến dịch Quảng Trị 1972.
64 Sau Hiệp định Paris
năm 1973, Đại úy Phan Nhật Nam là trưởng Ban Hoạt vụ của Ban Trao trả Tù binh
thuộc phía Việt Nam Cộng hòa trong Ủy ban liên hiệp bốn bên thi hành Hiệp định
Paris. Ông Nam kể: “Hàng tuần, vào ngày thứ Sáu, tôi lại bay ra Hà Nội để nhận
tù binh. Thứ Sáu, ngày 4-3-1973, khi tôi ra Hà Nội, Thiếu tá Bùi Tín, lúc ấy là
sỹ quan báo chí của Tướng Lê Quang Hòa, gặp và vận động tôi ở lại miền Bắc. Tôi
nhận lời. Ông Phạm Văn Đồng viết tư văn gửi xuống Hải Phòng mời ba tôi lên. Bùi
Tín cho tổ chức một cuộc họp báo tại sân bay Gia Lâm. Khi mọi người đã an tọa,
ước có khoảng hơn hai mươi nhà báo trong đó có các nhà báo Đông Âu và có cả một
nhà báo Pháp. Tôi mở cặp, lấy cuốn Mùa Hè Đỏ Lửa và một tập nhạc, rồi nói: Tôi
sinh ra ở Huế, nơi năm Mậu Thân, các ông cộng sản đã thảm sát hơn 3.000 người.
Còn đây là cuốn Mùa Hè Đỏ Lửa, viết về Quảng Trị, nơi, vào ngày 29-4-1972, tôi
đã chụp những hình ảnh chết chóc trên Đại lộ Kinh hoàng. Đây là mười hai nhạc
sỹ du ca, không có ai trong họ ca ngợi chiến tranh. Chúng tôi không gây chiến
tranh… Tới đó, ông Bùi Tín bảo tôi: Thôi Nam, về”. Về Sài Gòn, theo Đại úy Phan
Nhật Nam: “Tôi viết cuốn Tù binh và Hòa bình, xuất bản năm 1974 bởi nhà xuất
bản Hiện Đại, tại trang 174, tôi cho rằng: Rồi đây, chúng ta sẽ là tù binh
trong một nền hòa bình ngụy danh. Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền
Nam Việt Nam sẽ lần lượt đóng hết vai trò đoản kỳ của nó. Và trận cuối cùng vẫn
là giữa chúng ta với những sư đoàn chính quy chủ lực Bắc Việt qua tấm đệm ba
mầu, lá cờ Mặt trận - thứ phế phẩm sẽ nhanh chóng bị vất bỏ khi trận chiến tàn
cuộc”.
65 Ông Phan Nhật Nam
phủ nhận các nguồn tin nói rằng ông cự tuyệt gặp người cha cộng sản.
66 Ủy viên Trung ương
khóa IV, VI.
67 Biên bản giao ban
Trung ương Cục ngày 3-9-1975.
68 Một nhà báo quê Hải
Phòng, chủ nhiệm báo Sống tại Sài Gòn trong thập niên 1960, sinh năm 1917. Ngày
30-4-1975 ông bị chết bởi một trái đạn B40 ở cửa biển Cần Giờ khi đang rời Việt
Nam trên con tàu Việt Nam Thương Tín.
69Biên
bản giao ban Trung ương Cục ngày 3-9-1975.
70 Lực lượng Dân quân
Phục quốc do Thượng sỹ Nguyễn Việt Hưng thành lập vào tháng 8-1975. Một số linh
mục di cư đã tham gia như linh mục Nguyễn Hữu Nghị, nhà thờ An Lạc, linh mục
Nguyễn Quang Minh, nhà thờ Vinh Sơn. Lực lượng này còn thu nhận một số sỹ quan
trốn học tập cải tạo khác như trung tá Phạm Văn Hậu, trung tá Trần Kim Định và
một người mà Cách mạng gọi là CIA, ông Nguyễn Khác Chính. Ông Nguyễn Việt Hưng
tự phong cho mình quân hàm “thiếu tướng”, giữ chức “Tư lệnh quân đoàn biệt
chính và biệt khu thủ đô”.
71 Theo Dương Đức
Dũng, bài hát do Hùng Cường sáng tác.
72 Hồ Con Rùa là một
trong những vị trí được xây dựng sớm nhất ở Sài Gòn. Vào năm 1878, người Pháp
xây ở đây một tháp nước. Đến năm 1921 thì tháp nước bị phá bỏ do không còn đủ
sức đáp ứng nhu cầu cung cấp nước nữa và con đường, chạy từ sau lưng nhà thờ
Đức Bà, được mở rộng và nối dài đến đường Mayer (về sau đổi Hiền Vương, nay là
Võ Thị Sáu) , từ đó vị trí này trở thành giao lộ với tên gọi là Công trường
Maréchal Joffre. Người Pháp đã từng cho xây ở đây tượng đài ba binh sĩ Pháp
bằng đồng với một hồ nước nhỏ, biểu tượng của việc người Pháp làm chủ Đông
Dương. Các tượng đài này tồn tại đến năm 1956 thì bị phá bỏ, chỉ còn lại hồ
nước. Giao lộ cũng được đổi tên thành Công trường Chiến sĩ. Từ 1970 đến 1974,
Hồ Con Rùa thực sự được trùng tu và chỉnh trang, được dựng thêm và điều chỉnh
năm cột bê tông cao có dạng năm bàn tay xòe ra đón đỡ giống như các cánh hoa
đón đỡ một nhụy hoa, mang tên Công trường Quốc Tế.
73 Sài Gòn Giải Phóng,
3-4-1976.
74 Giải Phóng,
3-4-1976.
75 Huỳnh Bá Thành,
1983, trang 106.
76 Sđd, trang 106.
77 Sđd, trang 3.
78 Huỳnh Bá Thành,
1983, trang 106-107.
79 Lỗ Hung khai: “Lầu
Phá Xấu và tôi đã đột nhập vào thành phố bằng các ngả đường do chúng tôi điều
nghiên trước, và có chở theo 10 kí chất nổ TNT lấy từ Bàu Hàm, Đồng Nai. Lúc
đến thành phố, Lầu Phá Xấu đưa cho tôi một số tiền khá lớn để thực hiện việc
đặt chất nổ, đồng thời hắn bảo tôi đến nhà thờ Đức Bà để gặp một thanh niên mặc
áo bộ đội ngồi ngay dưới chân tượng Đức Mẹ. Lầu Phá Xấu giới thiệu Rănggô - tên
kẻ bụi đời cho tôi… Tôi chỉ cách cho hắn đem cái hộp để dưới bụng con rùa đồng
và chỉ cách rút tờ giấy mười đồng ra khỏi cái hộp. Tôi cũng giao ước một cách
chắc chắn rằng khi hắn đem tờ giấy 10 đồng ấy lại đưa cho tôi thì tôi sẽ thưởng
cho hắn 2.000 đồng. Rănggo nghe đến tiền thì mắt sáng lên, hắn vui vẻ nhận lời
không một chút đắn đo… Lúc nhắc điều ấy tôi biết rất chắc hắn sẽ chết không
toàn thây vì tờ giấy 10 đồng chỉ là một vật cách điện mong manh, rút nó đi,
chiếc hộp đựng đầy TNT sẽ phát nổ tức khắc!”. Theo Huỳnh Bá Thành: “Cấu tạo kíp
nổ để giết luôn kẻ đặt chất nổ là phương pháp bịt đầu mối dã man mà bọn chuyên
trách vũ trang phá hoại của CIA và bọn biệt kích Mỹ thường sử dụng” (Huỳnh Bá
Thành, Sđd, trang 108).
80 Người mà trong cuốn
sách Huỳnh Bá Thành gọi là Lê Dạ và Tú Dung.
81 Người trong cuốn
sách của Huỳnh Bá Thành được đổi thành Hoàng Hà Đặng.
82 Đặng Hoàng Hà bị
bắt, sau khi ra tù thì vượt biên. Tuy nhiên, trong “Vụ Án Hồ Con Rùa”, nhân vật
Hoàng Hà Đặng không phải bị bắt mà chạy thoát vào rừng. Đây là một vụ án có
nhiều nghi vấn, nếu Đặng Hoàng Hà là thủ phạm của vụ nổ thì Chính quyền hoàn
toàn có thể ngăn chặn vì “Ba Sơn”, một người do công an cài vào, biết trước
từng đường đi nước bước của “tổ chức” này.
83 Duyên Anh, 1987,
trang 48.
84 Sđd, trang 49.
85 Duyên Anh, 1987,
trang 18-19.
86 Trà Mi, đặc tình
trong “Vụ án Hồ Con Rùa”, nói: “Anh biết tại sao bọn phá hoại đặt chất nổ tại
hồ Con Rùa không? Theo Đặng, lúc Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu lên nắm chính
quyền, Thiệu đã cho một cố vấn chính trị qua Đài Loan mời một thầy địa lý về
giúp Thiệu coi hướng để xây Dinh Độc Lập. Tổng thống Tưởng Giới Thạch đã giới
thiệu một thầy địa lý nổi tiếng có một không hai trên thế giới. Thầy địa lý đó
đã qua Sài Gòn ở trên sáu tháng. Trong thời gian ấy, Giáo sư Chung Chen Kim -
tên thầy địa lý - đi xem xét vùng đất ngay Dinh Độc Lập và xung quanh Dinh Độc
Lập, đã phát hiện một ‘long mạch’ rất tốt dưới mặt đất. ‘Long mạch’ đó có cái
đầu ‘long’ nằm ngay phần đất Dinh Độc Lập và có cái đuôi “long” ở công trường
chiến sĩ… thầy địa lý Đài Loan bày Thiệu xây một cái dinh đồ sộ ở đầu rồng. Để
cho Phủ Đầu rồng tức Dinh Độc Lập được yên ổn, tổng thống Thiệu cai trị được
muôn năm, đồng thời phải xây một cái hồ ở đuôi rồng và ếm một con rùa để cho
đuôi rồng khỏi quật lật, vùng vẫy. Nếu đuôi rồng vùng vẫy thì đầu rồng lắc lư
dễ sụp đổ ngai vàng. Thiệu tin, công trường Chiến sĩ được phá đi để xây Công
trường Quốc tế tức hồ Con Rùa. Nhóm Hoàng Hà Đặng mê tín như Thiệu.
Chúng
tin rằng nếu đặt chất nổ làm bay con rùa đồng, không còn ếm được đuôi rồng nữa,
ắt đuôi này sẽ quẫy và chế độ cộng sản phải sụp đổ! Chính lòng mê tín của Đặng
và đồng bọn, em tin rằng kế hoạch phá hoại hồ Con Rùa có sự tham gia của Hoàng
Hà Đặng và Hoàng Sơn Cước” (Huỳnh Bá Thành, 1983, trang 120-121).
87 Duyên Anh, 1987,
trang (?).
88 Những sự kiện lịch
sử Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh, 1975-1995, cuốn I.
89 Trong chiến dịch từ
2-4-1976 đến 28-4-1976, giới nhà văn, nhà thơ bị bắt gồm: Dương Nghiễm Mậu,
Doãn Quốc Sĩ, Trần Dạ Từ, Nhã Ca, Lê Xuyên, Nguyễn Mạnh Côn, Thế Viên, Thái
Thủy, Mặc Thu, Vũ Hoàng Chương, Duyên Anh, (ngoài ra còn có: Nguyễn Sĩ Tế bị
bắt trước chiến dịch vì bị “tình nghi trong tổ chức phản động”; Hồ Hữu Tường bị
bắt năm 1977; Hoàng Hải Thủy bị bắt năm 1977, can tội gởi bài vở ra nước ngoài;
Nguyễn Đình Toàn bị bắt năm 1977, can tội âm mưu vượt biên; Nguyễn Thụy Long bị
bắt năm 1977, can tội phản động; Nhà thơ duy nhất được đưa ra tòa kết án 18 năm
khổ sai lao động là Tú Kếu “trong tổ chức chống phá cách mạng”); Nhà báo bị bắt
gồm: Đằng Giao, Chu Thị Thủy và đứa con mới sinh được vài ngày, Hồng Dương,
Thanh Thương Hoàng, Văn Kha, Hồ Nam, Đào Xuân Hiệp, Như Phong, Nguyễn Văn Minh,
Trịnh Viết Thành, Anh Quân, Xuyên Sơn, Cao Sơn, Đặng Hải Sơn, Đặng Hoàng Hà, Lê
Vũ Bắc Tiến, Sao Biển, Nguyễn Văn Mau, Hồ Văn Đồng, Lê Hiền, Sơn Điền Nguyễn
Viết Khánh, Tô Ngọc, Uyên Thao, Lý Đại Nguyên, Vương Hữu Đức, Mai Thế Yên, Tô
Kiều Phương, Mai Đức Khôi, Lê Trọng Khôi, (Ngoài ra còn Nguyễn Tú bị bắt từ đêm
30-4- 1975 và đã chết ở khám Chí Hòa vì bại liệt; Trần Việt Sơn cũng bị bắt
trước chiến dịch 2-4-1976, được tha sau 3 năm tù đày và đã chết trong khoảng
tháng 9-1983). Đạo diễn điện ảnh bị bắt gồm: Hoàng Vĩnh Lộc, Hoàng Anh Tuấn,
Thân Trọng Kỳ, Đặng Minh Khánh; Soạn giả cải lương bị bắt gồm: Mộc Linh; Giám
đốc các nhà phát hành bị bắt gồm: Nam Cường, Đồng Nai, Độc Lập, Khai Trí (Nhà
sách Khai Trí); Họa sĩ bị bắt gồm: Nguyễn Hải Chí (Chóe); Dịch giả bị bắt gồm:
Nguyễn Hữu Hiệu, Nguyễn Hữu Trọng.
90 Duyên Anh, 1987,
trang 51-52.
91 Duyên Anh, Sđd,
trang 51-52.
92 Trả lời phỏng vấn
tác giả năm 1999.
93 Tháng 2-1976, ông
Nguyễn Ngọc Bích được mời lên cơ quan công an. Cán bộ hỏi cung đặt vấn đề: “Tại
sao 15-4 mới được nhận vào mà Tổng cục đã cho làm chuyên viên đặc nhiệm ngay?”.
Luật sư Nguyễn Ngọc Bích bị giam trong xà lim loại dành cho tử tù suốt một năm
và khi bị hỏi cung: “Anh biết gì về kế hoạch hậu chiến; trong đó, anh được giao
nhiệm vụ gì?”, ông đoán ra, “Cách mạng nghĩ ông là người do Mỹ cài lại”. Hai
năm sau, khi đã được đưa ra phòng giam chung, khi “được” thẩm vấn, luật sư
Nguyễn Ngọc Bích phân bua: “Lưng tôi bị gù thế này làm sao được tuyển làm tình
báo!”. Khi ấy, những người hỏi cung dường như vô tình nói ra lý do khiến ông bị
bắt: “Anh là người do Mỹ đào tạo, anh sẽ chống chúng tôi đến cùng”.
94 Theo nhà báo Đinh
Quang Anh Thái, “Ba ngày ở phòng 2 khu A trước khi chuyển sang trại giam T30
Chí Hòa... về việc bác và tổ chức của bác Năm (tên thân mật của Hồ Hữu Tường)
bị bắt, bác cho biết, ngay khi cộng sản chiếm miền Nam, bác đã in một tập tài
liệu của Việt Nam Độc Lập -Thống Nhất-Trung Lập Đồng Minh Hội, rồi gởi trực
tiếp bằng đường bưu điện cho tất cả giới lãnh đạo Đảng Cộng sản, từ Bộ Chính
trị cho đến các trung ương ủy viên và tỉnh ủy các tỉnh. Trong tài liệu, bác nói
rõ về nhu cầu bắt buộc Việt Nam phải trung lập trong bối cảnh tình hình của khu
vực Á Châu. Bác khẳng quyết rằng, trung lập là giải pháp duy nhất cho Việt Nam,
và bác là người đầu tiên của Việt Nam kiên trì đeo đuổi lập trường này. Nên,
một mai khi tình thế bị o ép, cộng sản Hà Nội phải nhượng bộ để chấp nhận trung
lập thì họ sẽ bắt buộc phải cậy nhờ đến bác...”.
95 Theo Giáo sư Hồ Huệ
Tâm.
96 Đã đổi tên theo đề
nghị của nhân chứng.
97 Những văn nghệ sỹ
phục vụ trong Quân đội Việt Nam Cộng hòa đi trình diện học tập từ tháng 6-1975:
Thanh Tâm Tuyền, Mai Trung Tĩnh, Dương Hùng Cường, Hà Thượng Nhân, Phan Lạc
Phúc, Tô Thùy Yên, Văn Quang, Thảo Trường, Duy Lam, Phan Nhật Nam, Huy Vân,
Đặng Trần Huân, Hoàng Ngọc Liên, Diên Nghị, Phan Lạc Giang Đông, Vũ Đức Nghiêm,
Vũ Văn Sâm (Thục Vũ), Đỗ Tiến Đức, Minh Kỳ, Thế Uyên, Vũ Thành An, Dương Kiền,
Đinh Tiến Luyện, Nhật Bằng; Những người chết trong trại cải tạo: Minh Kỳ, Thục
Vũ, Nguyễn Mạnh Côn, Nguyễn Tú, Huy Vân; Những người chết sau khi được tha: Vũ
Hoàng Chương, Hồ Hữu Tường, Hoàng Vĩnh Lộc, Minh Đăng Khánh, Trần Việt Sơn;
Những người được tha rồi bị bắt lại: Hoàng Hải Thủy, Dương Hùng Cường, Doãn
Quốc Sĩ, Nguyễn Đình Toàn; Những người mới bị bắt từ
tháng
4-1984: Nguyễn Hoạt, Phạm Thiên Thư (danh sách của nhà văn Duyên Anh).
98 Duyên Anh, 1987,
trang 47.
99 Duyên Anh, 1987,
trang 417.
100 Một loại dược phẩm
chế từ một thứ cây có tên gọi là xuyên tâm liên.
101 Duyên Anh, Sđd,
trang 245-247.
102 Gồm hai mươi bảy
tướng ra trình diện và Tướng Lý Tòng Bá bị bắt tại Củ Chi.
103 Phan Lạc Phúc, 2000,
trang (?).
104 Bài giảng nhân tuần
tĩnh tâm cho Giáo triều Roma, theo chỉ định của Đức Giáo Hoàng John Paul II,
ngày 18-3-2000.
105 Ông Phan Lạc Phúc
viết: “Anh em từ trong Nam ra cứ yên trí là “học tập một tháng”, nên quần áo
mang đi theo làm gì nhiều cho nặng. Ra đây, đụng cái buốt giá của mùa đông
thượng du miền Bắc, thêm mưa phùn ẩm ướt nên cái lạnh càng thêm thấm thía. Ban
đêm cái nền xi măng trong nhà tù nó lạnh như nước đá, mặc đủ các thứ áo quần
hiện có mà vẫn lạnh, mặc cả áo mưa đi ngủ, có anh chui vào một cái bao tải vừa
kiếm được mà vẫn cứ run. Hóa ra cái lạnh ở ngoài vào thì ít mà cái lạnh ở trong
ra thì nhiều. Cái lạnh vì đói cơm nhiều hơn cái lạnh vì thiếu áo… Đã lâu lắm
rồi, người địa phương ở Sơn La nói vậy, mới có năm quá lạnh như năm nay (1976).
Đúng là ‘Giậu đổ bìm leo’, vào cái lúc mà tù cải tạo ra Bắc, lại đụng ngay một
trận rét kinh hồn…Mà xưa nay cái lạnh và cái đói có quan hệ ‘hữu cơ’ với nhau.
Càng đói thì càng rét-mà càng rét thì càng đói. Anh em đã có người ‘nằm xuống’
vì đói lạnh. Vũ Văn Sâm (viết văn, làm nhạc) chết đêm 16 rạng sáng 17-11- 1976
bên bịnh xá, sau cơn gió mùa đông bắc đầu tiên. Đến đầu tháng giêng 1977 (không
rõ là ngày 3 hay ngày 13 tháng
giêng,
tôi nhớ không được kỹ lắm) Ngô Qúy Thuyết, Tòa án Quân sự vùng 4 cũng đi luôn,
đi rất êm đềm, rất lặng lẽ. Sáng ra không thấy anh ta dậy nữa, lay chân gọi dậy
thì người đã lạnh cứng từ lúc nào rồi. Trong tờ khai của đội trưởng đội của anh
Ngô Qúy Thuyết, có nói rằng: ‘Anh Ngô Qúy Thuyết được đội cử nuôi heo, anh đói
quá nên thường ăn vụng cám heo.
Chắc
là bị ngộ độc nên đã chết’… Trước khi đi cải tạo, tháng 6-1975, tôi cân nặng 64
ký. Một năm cải tạo trong Nam, qua trại Long Giao và Suối Máu, tôi còn 56 ký.
Ra Bắc đến trại 1, liên trại 2 Sơn La này được hơn một năm, tôi còn 44 ký.
Trước đây ở Sài Gòn, sáng nào tôi cũng phải tập thể dục để cho cái bụng bớt mỡ,
nhỏ đi. Bây giờ ra Bắc lao động cải tạo, nhờ ơn Cách mạng bụng tôi không những
nhỏ đi mà còn xẹp lép. Trước đây ăn uống sợ mỡ, sợ đường thì bây giờ sao mà
thèm đường thèm mỡ đến thế. Thèm suốt ngày, suốt đêm, thèm cả vào trong giấc
ngủ” (Bạn Bè Gần Xa, trang 60-67, Văn Nghệ California, US, 2000).
106 Tạ Chí Đại Trường,
1993, trang (?).
107 Sđd, trang (?).
108 Trịnh Cung, trả lời
phỏng vấn tác giả.
109 Tạ Chí Đại Trường,
1993, trang (?).
110 Theo tài liệu lưu
giữ tại Bảo tàng Việt Nam ở San Jose (California, Mỹ), tổng số quân của Quân
lực Việt Nam Cộng hòa năm 1975 là 980.000 người, trong đó, hạ sỹ quan binh sỹ
chiếm 890.000 người. Số sỹ quan bị giam giữ trong các trại cải tạo: cấp tướng,
32 người (ở thời điểm 30-4, có 112 tướng tại ngũ; 80 tướng đã rời Việt Nam vào
cuối tháng Tư); cấp đại tá,
366
người (trên tổng số 600 người tại ngũ); cấp trung tá, 1.700 người (trên tổng số
2.500 người); cấp thiếu tá, 5.500 người (trên tổng số 6.500 người); cấp úy,
72.000 người trên tổng số 80.000 người. Ngoài ra, theo số liệu đăng ký trên
toàn miền Nam còn có khoảng 15.000 hạ sỹ quan an ninh, tình báo và nhân viên
thuộc Bộ Nội vụ và Phủ Tổng thống; 1.200 viên chức
và
cán bộ “Phượng Hoàng”; 4.553 cán bộ Xây dựng Nông thôn; 19.613 cảnh sát viên;
2.700 cán bộ tâm lý chiến; 315 nghị sỹ, dân biểu; 4.451 đảng viên các đảng đối
lập với Chính phủ Sài Gòn; 101 lãnh tụ chính trị và thành phần đối lập; 380 văn
sỹ, ký giả (Trần Trung Quân, Việt Nam 20 Năm 1975-1995, Đông Tiến xuất bản).
111 Ngoài bốn vị tướng
và đại tá được hưởng ân huệ cải tạo dưới ba năm như: Thiếu tướng Quân y Vũ Ngọc
Hoàn; Chuẩn tướng Quân y Phạm Bá Thanh; Ðại tá Nguyễn văn Lộc, Tư lệnh Sư đoàn
106 Biệt Ðộng Quân vừa thành lập cuối tháng 4- 1975; Ðại tá Dương Thanh Sơn, em
ruột Tổng thống Dương Văn Minh. Ðại tá Ðàm Trung Mộc, cựu viện trưởng Học viện
Cảnh sát Quốc gia, mất tại trại Hà Tây vào ngày 14-11-1982. Có bốn vị bị cải
tạo trên mười năm: Cựu Trung tướng Nguyễn Hữu Có; Cựu Ðề đốc Trần Văn Chơn; Cựu
Thiếu tướng Nguyễn Chấn Á; Cựu Thiếu tướng Phan Ðình Thứ. Có ba mươi sáu vị bị
cải tạo tập trung từ 12 đến 17 năm: Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, bị bắt khi
Phan Rang thất thủ; Chuẩn tướng Phạm Ngọc Sang, bị bắt cùng Tướng Nghi; Chuẩn
tướng Trần Văn Cẩm; Chuẩn tướng Lê Trung Tường; Chuẩn tướng Huỳnh Văn Lạc;
Thiếu tướng Lê Minh Ðảo; Chuẩn tướng Mạch Văn Trường; Thiếu tướng Lý Tòng Bá;
Ðại tá Nguyễn Ðình Vinh; Thiếu tướng Ðỗ Kế Giai; Chuẩn tướng Phạm Duy Chất; Ðại
tá Nguyễn Thành Trí; Ðại tá Lê Hữu Ðức; Chuẩn tướng Lê Văn Thân; Chuẩn tướng Lê
Trung Trực; Ðại tá Nguyễn Xuân Hường; Ðại tá Nguyễn Đức Dung; Chuẩn tướng Trần
Quang Khôi; Ðại tá Trần Ngọc Trúc; Thiếu tưóng Trần Bá Di; Chuần tướng Vũ Văn
Giai; Chuẩn tướng Lê Văn Tư; Thiếu tướng Văn Thành Cao; Thiếu tướng Ðoàn Văn
Quảng; Trung tá Bùi Thế Dung; Ðại tá Hải quân Nguyễn Văn May; Ðại tá Hải quân
Nguyễn Bá Trang; Ðại tá Hải quân Nguyễn Văn Tấn; Thiếu tướng Cảnh sát Bùi Văn
Nhu (chết tại trại Nam Hà); Cựu Thiếu tướng, Nghị Sĩ Huỳnh Văn Cao; Chuẩn tướng
Hồ Trung Hậu; Ðại tá Nguyễn Khắc Tuân (chết tại trại Nam Hà); Ðại tá Lại Ðức
Chuẩn; Ðại tá Phạm Bá Hoa; Ðại tá Ngô Văn Minh; Ðại tá Vũ Ðức Nghiêm.
112 Trả lời phỏng vấn
tác giả.
113 Trong năm 1975, báo
Sài Gòn Giải Phỏng không chỉ đặt dưới sự chỉ đạo của Thành ủy Thành phố Hồ Chí
Minh mà còn đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Trung ương Cục. Tác giả những bài
xã luận viết trong giai đoạn này là ông Võ Nhân Lý, tổng biên tập báo Sài Gòn
Giải Phóng. Ông Lý lúc ấy còn là phó Ban Tuyên huấn Trung ương Cục, cơ quan do
ông Nguyễn
Văn
Linh làm trưởng ban. Những bài xã luận, theo ông Tô Hòa, phó Tổng Biên tập Sài
Gòn Giải Phóng từ 5-1975, thường được ông Võ Nhân Lý viết sau khi dự giao ban
trong Dinh Độc Lập và quán triệt tư tưởng chỉ đạo của Trung ương Cục.
114 Sài Gòn Giải Phóng,
12-6-1975.
115 Sài Gòn Giải Phóng,
15-6-1975.
Nguồn:
bodoilambao
Được bạn: mọt sách đưa lên
vào ngày: 4 tháng 1 năm 2013
Được bạn: mọt sách đưa lên
vào ngày: 4 tháng 1 năm 2013
No comments:
Post a Comment