BÊN
THẮNG CUỘC - HUY ĐỨC
TẬP I :
GIẢI PHÓNG
PHẦN
I : MIỀN NAM
Chương III :
Đánh tư sản
Những công cụ chuyên
chính vô sản áp dụng ngay sau ngày 30-4-1975: Đánh tư sản vào tháng 9-1975 và
liền sau đó là đổi tiền lần thứ nhất 22-9-1975; Cải tạo tư sản tháng 3-1978… Sự
khác nhau của cải tạo tư sản và đánh tư sản (“Chiến dịch X-2”/ Đổi tiền/
“Gian thương”/ “Cải tạo công thương nghiệp tư doanh”/ Hai gia đình tư sản/ Kinh
tế mới)
*
*
Sau khi hàng trăm ngàn binh lính đã được
“học tập”, đã nhận thấy “tội lỗi” của mình, còn các sỹ quan thì đã bị giữ trong
các trại cải tạo, Sài Gòn lại náo động bởi chiến dịch đánh tư sản mại bản. Theo
nhận thức của những người cộng sản, đánh đổ giai cấp tư sản là bước đi tất yếu,
là nhiệm vụ của “cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân”. Chưa đầy ba năm sau
khi chủ nghĩa xã hội được áp dụng ở miền Nam, các nhà doanh nghiệp, với tên gọi
mới là “tư sản”, đã phải trải qua hai lần bị “đánh”.
“Chiến
dịch X-2”
Vào lúc 7 giờ 30 phút sáng ngày 10-9-1975,
Ủy ban Quân quản Thành phố Sài Gòn họp báo, đưa ra “Bản Tuyên bố của Chính phủ
Cách mạng Lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam”, ra lệnh “bắt giữ một số tư sản
mại bản có chứng cứ đầu cơ tích trữ, phá rối thị trường: Mã Hỷ, vua lúa gạo;
Lưu Tú Dân, lũng đoạn vải vóc; Bùi Văn Lự, nhập cảng, đầu cơ phụ tùng xe máy;
Hoàng Kim Quy, thầu cung cấp kẽm gai cho quân đội Mỹ; Trần Thiện Tứ, độc quyền
xuất cảng cà phê…”117. Hơn bảy giờ trước đó, phần lớn các đối tượng nằm trong
danh sách sáu mươi tên đánh đợt đầu đã bị bắt.
Theo
ông Nguyễn Văn Trân, Ủy viên Thường vụ Trung ương Cục, danh sách “tư sản mại
bản” bị đánh trong đợt này chủ yếu tham khảo từ một tài liệu về “Chính sách hậu
chiến” được viết năm 1974 của Chính quyền Sài Gòn, trong đó có phần ánh giá vai
trò lũng đoạn thị trường của các “vua” người Hoa ở Chợ Lớn. Giờ G của Chiến
dịch X-2 lúc đầu được định là 5 giờ sáng ngày 10-9-1975, sau do trục trặc trong
“hợp đồng tác chiến”, tin tức bị lọt ra, nên phải triển khai từ lúc 12 giờ
khuya ngày 9-9-1975. Hơn 10.000 công nhân, học sinh, sinh viên đã được điều
động áp át các mục tiêu. Hàng vạn “quần chúng” khác được đưa xuống đường để gây
áp lực về dư luận118.
Về lý luận, “tư sản mại bản” được chính
quyền cách mạng coi là “địch” nên phương thức mà Chiến dịch X-2 tiến hành được
xác định rõ là “đánh”. Tài liệu đã dẫn viết tiếp: “Phản ứng của địch nói
chung là yếu. Tư sản mại bản đối phó chủ yếu bằng cách phân tán tài sản cho bà
con thân thuộc. Số đã bị bắt thì tuy hoang mang, sợ sệt nhưng lại tiếc của
nên ngoan cố, không chịu khai ra của chìm, tiền bạc, hột xoàn”119.
Tối 10-9-1975, “tin chiến thắng” liên tục
được báo về “Đại bản doanh” của Trung ương Cục đóng tại Dinh Độc Lập. Con số bị
bắt cho đến khi ấy vẫn tăng lên. Các đoàn đưa ra những con số chi tiết: hàng chục
triệu tiền mặt, hàng chục ký vàng, cả “kho” kim cương, hàng vạn mét vải và cả
một cơ sở chăn nuôi gồm “7.000 con gà, thu hoạch 4.000 trứng mỗi ngày”120 ở Thủ
Đức. Một nhà tư sản đang nằm viện bị yêu cầu kiểm tra xem ốm thật hay cáo bệnh,
trong khi đó con trai ông ta bị bắt để buộc phải khai ra nơi cất giấu tiền,
vàng. Do tin tức bị lọt ra, một số nhà tư sản đã kịp cao chạy xa bay, có người
bị bắt khi đang chuẩn bị trốn.
Trong buổi giao ban của Thường vụ Trung
ương Cục vào lúc 7 giờ tối ngày 10-9- 1975, tại Dinh Độc Lập, với sự có mặt của
ông Phạm Hùng, bí thư Trung ương Cục, ông Nguyễn Văn Trân, ủy viên thường vụ,
cùng các lãnh đạo Quân quản như Nguyễn Võ Danh, Phan Văn Đáng…, ông Mai
Chí Thọ cho rằng các đoàn, các đội chỉ mới bắt được đối tượng, mới nắm được tài
sản nổi chứ chưa lấy hết tài sản chìm.
Ông Mai Chí Thọ tuyên bố: “Một tên tư sản
Hoa có thể có từ 500 đến 1 ngàn lượng vàng. Qua chiếm lĩnh và khai thác ta mới
hỏi sơ chứ chưa lục xét, chưa truy sâu nên có thu được vàng và ngoại tệ, nhưng
so với số chúng đã có thì chưa bao nhiêu. Vì vậy, các đoàn cần đi sâu lục soát
hơn nữa trong nhà chúng để truy vàng bạc và ngoại tệ. Phải dựa vào quần
chúng, người làm công ở mướn phát động họ để phát hiện nơi giấu cất”. Một tuần
trước khi Chiến dịch X-2 diễn ra, do vật giá tăng quá cao, chính quyền đã
“đánh” một số đối tượng bị quy là lũng đoạn thị trường, nhất là thị trường bột
ngọt121.
Đổi tiền
Sau
“Chiến dịch X-2”, Thành uỷ nhận định: “Bọn tư sản mại bản bị cô lập rất cao,
chúng đã mất hết chỗ dựa về mặt quân sự và chính trị. Lực lượng kinh tế của
chúng đã bị sứt mẻ và đang bị tan vỡ dưới sự tiến công của ta”122. Nhằm “giáng
tiếp những đòn mới vào giai cấp tư sản”, ngày 22 và 23-9-75, đồng tiền cũ của
chế độ Sài Gòn đã được thay thế bởi đồng tiền mới.
Đổi
tiền cũng được coi là “chiến dịch” với mật danh “X-3”. Ba yêu cầu mà Trung ương
Cục đưa ra cho Chiến dịch X-3 gồm: “Thiết lập một chế độ tiền tệ mới; ngăn chặn
giai cấp tư sản sử dụng tiền mặt để thao túng thị trường, đồng thời tước đoạt
bớt phương tiện hoạt động của bọn gián điệp, tình báo; đẩy lùi lạm phát”123.
Với nhận thức tiền còn là “phương tiện hoạt động của bọn gián điệp, tình báo”,
Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam chỉ cho đổi một số
tiền hạn chế.
Mỗi
hộ gia đình được đổi tối đa 100.000 đồng tiền “Chánh quyền Sài Gòn cũ”- 500
đồng tiền “Chánh quyền Sài Gòn cũ” đổi được một đồng tiền mới Ngân hàng Việt
Nam. Cán bộ công nhân viên chức trong các tổ chức tập thể được đổi mỗi người
15.000; hộ kinh doanh tiểu công nghệ, thương nghiệp, vận tải được
đổi 100.000 đồng; tổ chức kinh doanh lớn được đổi từ 100.000 đến 500.000
đồng; khách vãng lai, mỗi người được đổi 20.000, số còn lại nộp cho ban đổi
tiền, lấy biên lai về địa phương giải quyết. Các hộ kinh doanh và hộ gia đình
nếu có nhiều tiền hơn mức được đổi ngay thì phần còn lại sẽ quy đổi thành
tiền mới, ghi vào sổ tiết kiệm, hoặc sổ tiền gửi tại Ngân hàng Quốc gia Việt
Nam.
Chập
tối ngày 21-9-1975, ngành ngân hàng huy động 10.000 cán bộ. Bộ Tư lệnh thành
huy động 17.921 bộ đội; các quận huy động 35.000 người. Tất cả được đưa đến các
quận, các khu vực, mà không biết trước sẽ được giao nhiệm vụ gì. Họ phải kê
khai tất cả tiền bạc, tư trang mang theo người và từ đó, “nội bất xuất, ngoại
bất nhập”. Trong đêm 21-9, họ được tập huấn công tác thu đổi tiền. Đúng 2 giờ
sáng ngày 22-9-1975, họ được triển khai xuống các “bàn đổi tiền”.
Theo
kế hoạch, đúng 5 giờ sáng, mọi công tác chuẩn bị phải hoàn tất. Tuy nhiên, “do
điều động một số lượng người khổng lồ và phải chuyển tài liệu xuống tận các
‘bàn’, nhân sự lại chỉ được tập huấn vội, trong khi lại phải kê khai và xét
duyệt mất nhiều thời gian, nên công tác kê khai, đăng ký cho đến 11 giờ ngày
22-9-1975 vẫn chưa xong. Trước tình đó, Ban thu đổi Thành phố quyết định kéo
dài thời gian đăng ký kê khai tới 21 giờ ngày 22-9-1975 và chỉ thị cho các quận
coi đây là khâu quan trọng nhất, là khâu quyết định của chiến dịch đổi tiền.
Đến ngày 23-9-1975, các nơi bắt đầu thu tiền cũ, đổi tiền mới cho đồng bào
nhưng do tình hình phức tạp, đồng bào vẫn kéo tới đăng ký kê khai với nhiều lý
do: hai ba hộ, trong một nhà [hộ ghép] chỉ mới hưởng được tiêu chuẩn của một
hộ; đến trễ hoặc đến mà nhân viên đổi tiền làm không kịp… Trong tình hình đó,
Ban thu đổi tiền phát hiện được âm mưu phân tán tiền của tư sản nên quyết định
chấm dứt việc đăng ký kê khai tại bàn”124.
Có
những sỹ quan đang ngồi trong trại tập trung cải tạo khi nghe thông báo đổi
tiền mới giật mình vì không ai ở nhà biết nơi giấu tiền. Năm ngày sau, Chính
phủ đã phải lập “hội đồng cứu xét từng trường hợp” và có sỹ quan từ trại cải
tạo đã được đưa về tận nhà để chỉ cho gia đình nơi giấu tiền.
Quyết
định đổi tiền được báo Sài Gòn Giải Phóng coi là để kết thúc “30 năm sống
dơ và chết nhục của đồng bạc Sà i Gò n”125. Đồng tiền Sài Gòn bắt đầu được phát
hành ngà y 1-1-1955, được Chính quyền mới gắn cho nhiều tội lỗi126. Ba ngà y
sau đổi tiền, báo Đảng ở Sài Gòn viết: “Miền Nam đã có một nền tiền tệ mới,
khai sinh từ sự độc lập toàn vẹn của xứ sở, nhận dân thành phố Hồ Chí Minh đã
nâng niu từng tờ bạc của Ngân hàng Việt Nam với một niềm hãnh diện chưa từng
thấy sau bao nhiêu thế kỷ mất nước phải ép mình sống với đồng bạc của ngoại
bang”127.
Không
biết “tủi nhục” đã mất đi bao nhiêu sau Chiến dịch X-3, nhưng rất nhiều tiền
bạc của người dân miền Nam đã trở thành giấy lộn.
Kể
từ sáng 23-9-1975, những ai còn đồng bạc của chính quyền Sài Gòn cũ mà chưa
đăng ký thì coi như hết giá trị.
Sáng
sớm ngày 23-9-1975, ông Phạm Văn Tư chở vợ, bà Võ Thị Mai, từ thị trấn Sông
Mao, Hải Ninh, Bình Thuận vô Phan Thiết sinh. Vừa rạng sáng thì xe ông bị chặn
lại. Du kích cho biết là có lệnh không cho bất cứ ai ra ngoại tỉnh nhưng khi
thấy một bà bầu đang ôm bụng, họ hội ý rồi cho đi.
Đưa
vợ vào nhà bảo sanh xong, để cô con gái Phạm Thị Mai Hoa128, năm ấy lên tám
tuổi ở lại, ông Tư nhanh chóng quay về nhà. Do thường xuyên cần tiền cho
trại cưa hoạt động nên khi ấy nhà ông có tới ba bao tải tiền mặt trị giá gần
7.000 lượng vàng. Đến nhà, ông Tư phân tán tiền định nhờ bà con mỗi người đổi
giùm một ít nhưng kế hoạch bị bại lộ. Du kích bao vây nhà ông, bắc loa tuyên
bố: “Nội bất xuất, ngoại bất nhập”. Hôm sau, những bao tiền đó bị ném tung ra,
bay trắng cả vườn.
Ông
Phạm Văn Tư chỉ là một chủ trại cưa, nhưng khá “có tiếng” ở thị trấn Sông Mao,
nên khi ở Sài Gòn, “tư sản mại bản” bị đánh, địa phương bắt đầu quản lý trại
cưa của ông. Ông Tư cùng một người Hoa, ông Kim Ký, mua lại trại cưa này năm
1964, khi “Việt Cộng” bắt đầu nắm giữ các khu rừng, dân kinh doanh liên quan
đến gỗ phải đi dây để không làm mất lòng hai phía. Chiến tranh càng lan rộng,
thị trấn Sông Mao trở nên nhộn nhịp khi trở thành căn cứ của Sư đoàn 23 Quân
lực Việt Nam Cộng hòa, công việc làm ăn của ông Tư càng thêm phát đạt.
Vào
những ngày cuối tháng 3-1975, ông Kim Ký ,người đã chạy khỏi Trung Quốc năm
1949, khuyên ông Tư nên di tản. Nhưng ông Tư không dễ gì từ bỏ một sản nghiệp
đã gây dựng cả cuộc đời, không dễ gì ra đi không biết nơi đến thế nào
với bảy người con đang tuổi ăn học. Trong khi đó, những Việt Cộng mà ông
Tư gặp trong rừng cũng khá dễ thương. Khi ông cung cấp đèn pin, đá lửa, thuốc
ký ninh, họ đã trấn an ông rằng ông vẫn được tiếp tục làm ăn như cũ. Khi những
người có máu mặt trong vùng lặng lẽ tới Phan Rí xuống tàu, vợ chồng ông Tư vẫn
ở lại. Ngày 10-9-1975, Chính quyền ập vào nhà kiểm kê từng lưỡi cưa, vòng bi
trong nhà ông và tuyên bố quản lý xưởng cưa. Ông Tư hôm ấy vẫn chưa ý thức được
là tài sản của ông đang bị tước đoạt. Sáng hôm sau, như thường lệ, ông vẫn mang
xuống xưởng một ấm nước chè cho anh em thợ. Vừa tới xưởng, ông bị một người thợ
chặn lại: “Trại cưa này không còn là của ông, từ giờ nó là của công nhân, ông
không được đến đây nữa”129. Ông Tư sững lại nụ cười trên gương mặt ông từ từ
méo đi. Hơn mười ngày sau thì xảy ra vụ đổi tiền. Ông Tư gần như phát điên. Cô
em vợ nghe, chạy qua bị du kích chặn lại. Đứng ngoài bìa ruộng, nhìn thấy anh
rể mình cứ cười sằng sặc. Thương anh, cô chỉ biết một mình lặng lẽ khóc.
Ở
Huế, chiều ngày 21-9-1975, Hiệu phó kiêm Bí thư Đoàn trường Nguyễn Tri Phương
Trần Kiêm Đoàn130 được Thành đoàn Huế giao phối hợp với Đoàn trường Đồng Khánh,
dẫn 200 đoàn viên theo cửa Thượng Tứ vào Đại Nội. Trước khi đi, Thành đoàn ra
lệnh: “Chuẩn bị khăn gói, thức ăn ba ngày, sẵn sàng chiến đấu”.
Ông
Đoàn kể: “Tụi tôi hồi hộp: Mỹ quay lại hay binh lính Sài Gòn nổi dậy? Tới 3 giờ
sáng thì mới hay tin sáng mai đổi tiền. Khi ấy tôi còn trẻ, hào hứng với những
cái mới nên nghe nói một đồng tiền mới giá trị bằng 500 đồng tiền cũ cũng có
cái gì đó tự hào. Sáng ra vẫn tả xung hữu đột đôn đốc đoàn viên hoàn thành
nhiệm vụ”. Nhưng, tới trưa, theo ông Trần Kiêm Đoàn: “Đi đâu cũng thấy dân kêu
gào thất vọng. Ba giờ chiều, tôi tranh thủ về nhà, thấy vợ ngồi thẫn thờ, nước
mắt lưng tròng: Anh! Mình trắng tay rồi!”. Mỗi gia đình chỉ được đổi tối
đa 100 nghìn tiền Sài Gòn trong khi tiền mặt trong nhà vẫn còn tới gần mười
triệu. Không chỉ nhà ông Đoàn, nhiều gia đình buôn bán ở cửa Đông Ba, hàng xóm
của ông, cũng đang kêu khóc.
Những
người càng tin tưởng vào chế độ mới càng mất mát lớn hơn, vì khi chiến tranh
kết thúc, họ đã đào vàng lên bán, lấy vốn kinh doanh. Ông Đoàn kể: “Tôi trở về
Đại Nội. Một vị chỉ huy lực lượng đổi tiền biết chuyện kêu lại nói: ‘Muốn đổi
bao nhiêu cũng được nhưng phải chia 5:5. Về xóm coi có ai thì kêu họ đổi luôn’.
Tôi về lấy tiền và móc nối với mấy người trong xóm. Đúng là đổi bao nhiêu cũng
được thật”.
Gần
một tháng trước đó, ngày 28-8-1975, Chủ tịch Hội Đồng Chính phủ Lâm thời Cộng
hòa Miền Nam Huỳnh Tấn Phát đã ký Nghị định “Đình chỉ vĩnh viễn 16 ngân
hàng tư nhân”. Ngày 3-9-1975, báo Sài Gòn Giải Phóng thông báo việc “rút tiền
tiết kiệm”, theo đó, “những người có trương mục dưới một triệu có thể rút dần
tiền về, số trung bình mỗi nhân khẩu có thể rút là 10 nghìn đồng/tháng”, còn
những trương mục trên hai triệu “sẽ được ngân hàng quốc gia cứu xét riêng rẽ”.
Trên
thực tế, không mấy ai rút được đồng tiết kiệm nào trước ngày đổi tiền, 22-9-
1975.
Cũng
trong ngày 3-9-1975, Ngân hàng Quốc gia tuyên bố “Công khố phiếu không còn giá
trị”, Chính quyền giải thích: “Các loại công khố phiếu dù của các ngân hàng hay
của tư nhân là những giấy nợ của Nguyễn Văn Thiệu vay để thêm ngân sách cho
guồng máy chiến tranh, nay Nguyễn Văn Thiệu và bè lũ đã mang tiền của tháo
chạy, Chánh quyền Cách mạng hiện đang quản lý tài sản của toàn dân, không lý gì
và không có quyền lấy tiền nhân dân trả nợ thế cho Nguyễn Văn Thiệu”131.
Người
dân miền Nam từng nghe những “luận điệu” như Việt Cộng về thì sẽ lấy kìm rút
móng những ai sơn móng tay, bắt đàn bà con gái lấy thương binh. Ít
ai lường được sẽ có những mũi kìm êm ái hơn như… đổi tiền. Nếu như “đánh
tư sản mại bản” chỉ liên quan đến mấy trăm gia đình, thì đổi tiền và chính sách
mới về số tiền gửi cũ trong các ngân hàng liên quan đến mọi người. Tiền bạc
cũng giúp những người như ông Đoàn hiểu thêm về con người trong chế độ mới.
“Gian
thương”
Tháng
8, tháng 9-1975, giá cả các mặt hàng thiết yếu, đặc biệt là bột ngọt, tăng vọt.
Chính quyền Cách mạng, lúc này vừa kiểm soát tuyệt đối các phương tiện truyền
thông, đã cho rằng đó là “tội ác của các trùm tư bản”. Báo Sài Gòn Giải Phóng
ngày 27-7-1975 chạy tít: “Cơn sốt bột ngọt đã làm cho đồng bào nhận rõ bọn trùm
gian thương đầu cơ tích trữ”.
Không
chỉ có bột ngọt tăng giá. Trước tháng 6-1975, một ký muối bột giá bảy mươi
đồng, đến tháng 8-1975, giá đã lên tới 300 đồng một ký; một viên đá lửa đỏ, giá
tháng 6-1975 là mười đồng, hai tháng sau đã lên đến sáu mươi đồng; giá một
chiếc bu-gi xe lam tăng từ 500 đồng lên 1.100 đồng; một bộ vỏ, ruột xe
Honda tăng 7.000 lên 17.500 đồng. Ngày 30-4-1975, một ký bột ngọt giá chỉ
3.000- 3.500 đồng, đến tháng 8-1975 đã tăng lên 17.000-18.000 đồng.
Ngay
trong số báo ra ngày 10-9-1975, Tuổi Trẻ đã có bài “điều tra”, khẳng định: Nói
bột ngọt khan hiếm là vì “đã đưa hết ra Bắc” là một “luận điệu tuyên truyền ác
ôn”. Dẫn lời một “bác Hai” làm nghề khuân vác ở chợ Cầu Muối, bài báo kết luận:
“Bọn gian thương chứ không ai hết. Tụi nó bóc lột xương máu của nhân dân lao
động như thế quen rồi”. Cũng theo một “công nhân khuân vác” được trích dẫn
trong bài báo này thì, “tội ác của bọn chúng, phải tử hình mới thoả mãn ý chí
của nhân dân”. Ở các tỉnh Miền Tây, trong tuần lễ thứ hai của tháng 9-1975 cũng
có tới “hơn năm mươi tay gộc tư sản mại bản đã bị bắt giữ”.
Tài
liệu do Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt nam, đăng trên các
báo ra ngày 10-9-1975, nêu “mười tội ác” của tư sản mại bản132. Để phân biệt tư
sản mại bản với tư sản dân tộc, ông Nguyễn Nam Lộc, ủy viên Tuyên-Văn- Giáo của
Liên hiệp Công đoàn Thành phố nói: “Ở đây ta không đi sâu vào giải thích danh
từ. Ta chỉ hiểu tư sản dân tộc đại để là những người bỏ vốn ra kinh doanh vừa
có lợi cho họ vừa có lợi cho dân tộc. Họ không dựa vào thế lực kinh tế chính
trị của ngoại bang hay tay sai của ngoại bang”133.
Khi
bị Tòa án Nhân dân Đặc biệt đưa công khai xét xử, “một số tên tư sản mại bản”,
trong đó có “tên” Hoàng Kim Quy, đã bị xử “hai mươi năm tù, tịch thu toàn bộ
tài sản”. “Tội trạng” của ông Hoàng Kim Quy được Ủy viên Công tố Nguyễn Hoàn
kết luận đanh thép: “Bức thư y [Hoàng Kim Quy] gửi cho Tổng trưởng Ngoại giao
Ngụy thúc giục Chính quyền vay của Ả-Rập Xê-út 500 triệu đô la để mớm hơi cho
chiến tranh Việt Nam Hóa của Mỹ đang phá sản và trả dài hạn bằng cách cho đầu
tư khai thác mỏ dầu ở thêm lục địa Việt Nam. Quy đã suy nghĩ và hành động như
một tên xâm lược Mỹ với ý thức chống cộng sâu sắc, cam tâm bán đứng cả miền Nam
để duy trì chế độ thối nát của Ngụy quyền… Hoàng Kim Quy đã không mơ hồ về mưu
đồ của đế quốc Mỹ. Điều y thật sự mơ hồ là không hiểu hết sức mạnh của nhân dân
ta. Không hiểu hết được thắng lợi thần kỳ của Cách mạng Việt Nam đã nhanh chóng
làm đế quốc Mỹ thất bại và phá vỡ kế hoạch kinh doanh bóc lột của y phục vụ cho
chủ nghĩa thực dân mới”134.
Cũng
với cách luận tội như trên, máy móc nông cụ nhập khẩu của “tên tư sản mại bản”
Lưu Trung được Ủy viên Công tố Nguyễn Hoàn gắn với một “âm mưu xảo quyệt” của
“đế quốc Mỹ” dùng viện trợ kinh tế để “biến nông thôn thành chỗ dựa của ngụy
quyền”135. Tiến trình cơ giới hóa của nền nông nghiệp miền Nam được Công tố ủy
viên Nguyễn Hoàn phân tích: “Thông qua viện trợ Mỹ về nông nghiệp, chúng tìm
cách tạo ra cảnh phồn vinh giả tạo, nhằm lừa mị nông dân, lôi kéo họ ra khỏi
ảnh hưởng của Cách mạng”136. Phiên tòa diễn ra theo thủ tục đặc biệt. Cho dù,
“với bản chất ngoan cố, tên tư sản mại bản Lưu Trung tìm cách nói quanh co để
che lấp phần nào tội trạng của y”137, nhưng mọi lập luận kể cả của bào chữa
viên nhân dân đều bị “tòa bác bỏ”.
Những
“tên tư sản mại bản” khác như Lý Sen, kinh doanh sắt thép, Trương Dĩ Nhiên,
“nhập cảng và sản xuất phim ảnh đồi trụy phản động”… cũng đều lần
lượt lãnh án tù. Người dân Sài Gòn khi ấy mới chỉ nghe qua Marx-Lenin,
chưa được trang bị “trình độ lý luận” để hiểu về “tích lũy giá trị thặng dư
thông qua bóc lột sức lao động”, để hiểu vì sao một người mua bán máy nông
cơ như Lưu Trung lại liên quan đến một âm mưu sâu xa “làm dư ra lực lượng lao
động nông thôn để cho Chính quyền Sài Gòn bắt lính”.
Chính
quyền Cách mạng đánh giá: “Nhìn chung, các tầng lớp quần chúng cơ bản, tư sản
dân tộc, tiểu thương, tiểu chủ đều phấn khởi và tán thành việc đánh tư sản mại
bản vì ai cũng căm thù tầng lớp tư sản mại bản hại dân, hại nước”138.
Những
đánh giá ấy không dựa trên bất cứ một kết quả thăm dò dư luận nào mà chủ yếu
căn cứ vào những phát biểu của lãnh đạo Thành. Theo ông Mai Chí Thọ: “Trong
giới nghèo lao động có dư luận bàn tán cộng sản lấy tiền nhà giàu cho nhà
nghèo”139.
Trước
Chiến dịch X-2, chính quyền đã “bắt chín mươi hai tên tư sản mại bản đầu sỏ, đã
mời ra làm việc bốn mươi bảy người. Đã có ba bỏ trốn và một tự sát” 140. Những
gì mà Cách mạng lấy được của “nhà giàu” trên toàn miền Nam được liệt kê: “Về
tiền mặt ta thu được 918,4 triệu đồng tiền miền Nam; 134.578 Mỹ Kim
[trong đó có 55.370 USD gửi ở ngân hàng]; 61.121 đồng tiền miền Bắc; 1.200
đồng phrăng (tiền Pháp)…; vàng: 7.691 lượng; hạt xoàn: 4.040 hột; kim cương: 40
hột; cẩm thạch: 97 hột; nữ trang: 167 thứ; đồng hồ các loại: 701 cái. Trong các
kho tàng ta thu được: 60 nghìn tấn phân; 8.000 tấn hoá chất; 3 triệu mét vải;
229 tấn nhôm; 2.500 tấn sắt vụn; 1.295 cặp vỏ ruột xe; 27.460 bao xi măng; 644
ô tô; 2 cao ốc; 96.604 chai rượu; 13.500 ký trà; 1000 máy cole; 20 tấn bánh
qui; 24 tấn bơ; 2.000 kiếng đeo mắt; 457 căn nhà phố; 4 trại gà khoảng 30.000
con và một trại gà giá 800 triệu; 4.150 con heo; 10 con bò, 1.475.000 USD thiết
bị tiêu dùng; 19 công ty; 6 kho; 65 xí nghiệp sản xuất; 4 rạp hát; 1 đồn điền
cà phê, nho, táo rộng 170 hecta ở Đà Lạt”141.
Năm
1976, tình hình tiếp tục khó khăn. Một đợt “đánh tư sản” lại được tiến hành,
lần này tập trung hơn vào giới tư sản người Hoa. Ngày 10-9-1976, vợ chồng nhà
tư sản người Hoa, ông Đào Tắc Kinh, bị bắt “trong lúc đang dồn tiền và của quý
vào 8 va li để chạy trốn”. Sáng sớm hôm ông Đào Tắc Kinh bị bắt, “các lực lượng
quân đôị , an ninh võ trang đã bắ t giữ nhiều tên tư sả n maị bản lũng đoaṇ, đầu
cơ tích trữ, phá
rối thị trường”
như Lý Hơn, Lâm Huê Hồ , Dương Hả i, Trang Triṇ h Nguyên,
Mã Tuyên, Trầ
n Thanh Hà , Trầ n Liêṭ Hồ
ng, Lý Hấ n. Ngay sau khi bắt giữ
các nhà tư
sản, chính quyền
lập tức trấn
áp trên diện
rộng về mặt
dư luận.
Sá
ng 11-9-1976, hà ng ngà n ngườ i Hoa taị Chợ Lớ n đã được chính quyền huy động
cho một cuộc biểu tình được báo chí mô tả là “sôi sục căm phẫn tố cáo tội ác
của bọn tư sản mại bản bóc lột và yêu cầu Chính phủ bài trừ tận gốc”. Tối cùng
ngày, gầm ba mươi cuộc mít tinh đã được tổ chức ở nhiều nơi trong thành phố.
Sài
Gòn lại được báo chí mô tả là “sôi sục khí thế cách mạng”.
Chính
một số người Hoa được báo chí dẫn lời cho rằng: “Bọn tư sản mại bản
Hoa kiều càng giàu bao nhiêu thı̀ chúng tôi càng cơ cực bấy nhiêu. Phải
trừ hết boṇ này,
người Hoa mới có
thể sống yên ổn
và haṇh
phúc”. Họ đòi
“chánh quyền cách
maṇg nghiêm
khắ c trừng tri ̣boṇ tư
sản maị bản
luñg đoaṇ , đầu
cơ tıćh trữ , phá
rối thi ̣trường, làm
giàu trên xương
máu nhân dân”142. Những
hoạt động quần chúng này, không chỉ lý giải cho các hành vi bắt bớ mà còn chuẩn
bị dư luận cho một chính sách mới sắp sửa ban hành.
“Thể
hiện ý chí, tình cảm và nguyện vọng tha thiết của toàn dân ta”, trong kỳ họp
thứ nhất khóa VI, “trên cơ cở hoàn toàn toàn thành bản báo cáo chính trị của
đồng chí Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam”, Quốc
hội chung cả nước đã khẳng định nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam
trong giai đoạn mới là: “Hoà n thà nh thố ng nhấ t nướ c nhà , đưa cả nướ c tiế
n nhanh, tiế n maṇ h, tiế
n vữ ng chắ c lên
chủ nghıã xã
hôị . Miề n Bắ
c phả i tiế p tuc̣ đẩ
y maṇ h sự
nghiêp̣ xây dựng
chủ nghıã xã
hôị và hoà n thiêṇ quan hệ
sả n xuấ t xã
hôị chủ nghıã
; miề n Nam đồ ng thờ
i tiế n hà nh cả i taọ xã hôị
chủ nghıã và xây dựng chủ nghıã xã hôị ”143.
Ngà
y 25-9-1976, Phó Thủ tướng Nguyễn Duy Trinh đã ký “Tuyên bố của Chính phủ Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam về chính sách đối với công thương nghiệp tư bả n
tư doanh ở miề n Nam”. Theo tuyên bố này: “Chıń h phủ chủ trương xây dựng nề n
kinh tế xã hôị chủ nghıã trong cả nướ c ta và tổ chứ c cho nề n kinh tế ấ y thố
ng nhấ t trong cả nướ c; xó a bỏ dầ n dầ n nhữ ng sự khá c biêṭ của
mỗi miề n: taọ
ra nhữ ng cơ sở
kinh tế cơ bả n cho nề n kinh tế đôc̣ lâp̣
, không bi ̣phụ thuôc̣ và o nướ c ngoà i; tổ chứ c laị lao đôṇ g và
taọ ra môṭ sự
phân phố
i mớ i công bằ
ng, bả o đả m đờ
i số ng nhân
dân, nhấ t là
nhân dân lao đôṇ g; xó
a bỏ moị bấ
t công trong xã hôị
và lố i là m ăn
gian dố i, phi phá p”.
Cho
dù đòi “xó a bỏ tư sả n maị bả n và nhữ ng tà n dư bó c lôṭ phong kiế
n” ở miền Nam, trong giai đoạn
này, chính quyền
vẫn chủ trương
“sử dụng những nhà
tư sản có vố
n liế ng, có kỹ
thuâṭ
, nhữ ng ngườ i là
m ăn riêng lẻ
, cả nhữ ng ngườ
i buôn bá n nhỏ
”. Thời gian đầu, các nhà tư sản nhỏ vẫn có thể tự mình kinh doanh trong một số
ngành nghề nhất định nhưng phải chuyển xác xí nghiệp của mình thành công tư hợp
doanh144. Chính phủ cũng đưa ra danh mục “các ngành nghề những nhà tư sản và tư
nhân được kinh doanh”145 rất hạn chế.
Theo
bản tuyên bố này, những ngành buôn bán và kinh doanh dịch vụ đều phải “do
nhà nướ c và cá c tổ chứ c quầ n chúng chiụ trá ch nhiêṃ”.
Nhà nước bắt đầu
độc quyền “nắm
toàn bộ nguyên
liệu nhập khẩu,
những nguyên liệu
quan trọng trong nướ c và hầ u hế t hà ng hó a thiế t yế u”.
Nhà nướ c sẽ “nắ m hầ u hế t xuấ t nhâp̣ khẩ u và cả bá n buôn trong nướ
c”. Nhữ ng tư nhân là m thương nghiêp̣ “sẽ được choṇ loc̣ và
sử duṇ
g môṭ
phầ n là m đaị
lý cho mâụ dic̣ h quố
c doanh; cò n nhữ ng ngườ i khá c,
nhà nướ c sẽ giúp đỡ chuyể n sang sả n xuấ t”. Bản tuyên bố viết: “Dướ i chế độ
ta, thà nh phầ n kinh tế quố c doanh giữ điạ vi ̣lãnh đaọ . Đố i vớ i công
thương nghiêp̣ tư bả n tư doanh, kinh tế quố c doanh có trá ch nhiêṃ hướ
ng dẫn, giúp đỡ
… đi dầ n từ ng bướ c lên chủ nghıã xã hôị thông qua con đườ ng cả i taọ ”.
Bản
tuyên bố ngày 25-9-1976 cũng nhấn mạnh: “Trước giờ phút vinh quang của Tổ quố
c, cá c nhà tư bả n tư doanh hãy nhâṇ rõ nhiêṃ vụ
lic̣ h sử lúc nà y, nhâṇ rõ
con đườ ng phá t triể n tấ t yế u
của dân tôc̣ ta, nhâṇ rõ
tiề n đề xá
n laṇ của
Tổ quố c Viêṭ Nam, mà
tiế p thu tố t sự
cả i taọ xã
hôị chủ nghıã
”. Đồng thời tuyên
bố khuyến cáo:
“Cùng vớ i nhân
dân lao đôṇ g đi
lên theo con đườ ng ấ
y, cá c nhà tư
bả n sẽ có
cơ hôị tự cả i taọ mıǹ h trở thà
nh ngườ i đứ ng trong hà
ng ngũ đaị gia đıǹ h dân
tôc̣ Viêṭ Nam. Đó
là con đườ ng mở
ra môṭ
tương lai tố t đep
cho bả n thân mıǹ h và
cho con cháu”.
Mãi
tới sáng 1-11-1976, tại Dinh Độc Lập lúc bấy giờ đã mang tên Hội
trường Thố ng Nhấ t, Chính quyền mới tổ chức Hôị nghi ̣Liên tic̣ h Ủ y ban
Măṭ trâṇ và
cá c đoà
n thể cấ p trung ương và
thà nh phố để
phổ biế n bả
n tuyên bố ngày
25-9-1976. Không phải là
những người cộng
sản từ Hà
Nội vào, đoàn
chủ tịch hội nghị
gồm: Luâṭ sư
Nguyễn Hữ u Tho, khi ấy là
phó chủ tic̣ h nướ c kiêm chủ tic̣ h Ủ y ban Trung ương Măṭ trâṇ Dân
tôc̣ Giả i phó
ng Miề n Nam Viêṭ Nam; Hoà
ng Quố c Viêṭ , chủ
tic̣ h Tổ ng Công đoà
n Viêṭ
Nam; Luâṭ
sư Triṇ
h Đıǹ
h Thả o, chủ tic̣ h Ủ
y ban Trung ương Liên minh cá
c Lực lượng Dân tôc̣ , Dân chủ và Hò a bıǹ h Viêṭ Nam; Hò
a thượng Thıć h Minh Nguyêṭ …
Trưở ng ban Cả i taọ
Công thương nghiêp̣
tư doanh Trung ương, ông
Nguyễn Văn Trân,
bı́ thư Trung ương
Đả ng, người được
bổ sung vào Trung ương
Cục trước khi Sài
Gòn sụp đổ,
cũng có mặt trong hội nghị.
Luật
sư Nguyễn Hữu Thọ phát biểu: “Chính phủ đã đề ra chính sách hợp tình
hợp lý đố i vớ i cá c nhà công thương nghiêp̣ tư bả n tư doanh, giúp cho
họ thấ y rõ hơn con đườ ng tiế n lên của Cá ch maṇ g và taọ
cho họ điề u kiêṇ đó
ng gó p công sứ c cùng vớ i toà n dân xây dựng Tổ quố c Viêṭ Nam già
u maṇ h, văn
minh và haṇ
h phúc, trong đó có
quyề n lợi chıń
h đá ng của họ
và của con chá u họ”.
Còn Trưởng ban Cải
tạo Nguyễn Văn
Trân thì ngắn
gọn: “Bả
n tuyên bố của
Chıń h phủ đã
mở ra môṭ
tương lai tố t đep̣
, môṭ
tiề n đề xá
n laṇ cho các
nhà tư sả n công thương
nghiêp̣ ” 146.
Từ
ngày 21-11-1976, giới công thương chỉ phải “đăng ký kinh doanh công thương
nghiêp̣ và dic̣ h vụ tư nhân”. Đến ngày 13-12-1976, 98% “cá c đơn vi ̣và hộ sả
n xuấ t kinh doanh, dic̣ h vu”̣ đã khai trıǹ h và 93% số
hộ nà y đã được
chính quyền cấp
quận “xét” cấp giấy chứng
nhận “đã đăng ký
kinh doanh”. “Nhiều người
khai trıǹ
h đúng đắ n (nhưng)
cuñ g cò n khá
nhiề u ngườ i, nhứ
t là cá c hộ kinh doanh lớ
n đề u khai trıǹ h thiế u, sai biêṭ xa vớ
i tà i sả n họ
có thâṭ . Môṭ số
ngườ i tım̀ moị
cá ch phân tá
n tà i sả n nhiề
u nơi, thâṃ chı́
có ngườ i dùng
xe chở hà ng tẩ u tá
n sang quâṇ
khá c đã bi ̣bắ
t quả tang cả ngườ
i lẫn hà ng. Có
ngườ i gây cả
n trở , vu khố ng cá n bộ đi thẩ m tra hay dùng thủ đoaṇ mua chuôc̣
cá n bộ, trá
o hà ng xấ u và
o hà ng tố t”147.
Chính
quyền đã gia hạn việc “đăng ký” đến ngày 2-1-1977 và cảnh báo rằng: “Nhữ
ng hộ nà o đã được chá nh quyề n kêu goị , giá o duc̣ lợi ıć h chung xây dựng
đấ t nướ c mà … vẫn cò n tiế p tuc̣ nhiề u lầ n nhưng không thấ y có thá i độ
chố ng đố i, giấ u diế m, phân tá n, không chiụ khai trıǹ h bổ
sung là tự mıǹ
h tá ch khỏ i hà
ng ngũ nhữ ng nhà
công thương chấ
p hà nh đúng chá
nh sá ch của Nhà
nướ c và bi ̣coi là bấ t hợp
phá p”148.
Sau
khi kê khai, các hộ kinh doanh vẫn được cấ p giấ y chứ ng nhâṇ đã
đăng ký kinh doanh và
vẫn hoaṭ
đôṇ
g gần như bıǹ h thườ
ng. Nhưng kể từ
đây, ranh giới của
một nhà tư
sản dân tộc
với “gian thương phá
rối thị trường,
phá hoại chủ trương” bắt đầu trở nên mong manh, nhất là
đối với một số ngành kinh doanh “phục vụ nhu cầu thiết yếu của nhân dân”. Một
trong những ngành chịu sự cải tạo sớm hơn và quyết liệt hơn là ngành giao thông
vận tải.
Trước
30-4-1975, tại các tỉnh phía Nam, số chủ xe là tư sản chuyên doanh vận tải ô tô
chiếm 3,5%, chủ là tư sản khác kiêm kinh doanh vận tải ô tô là 1%, tiểu chủ hơn
95%. Ban Cải tạo Giao thông vận tải các tỉnh phía Nam từng đánh giá: “Trong lực
lượng tiểu chủ, đại bộ phận có lòng yêu nước, có cảm tình với Cách mạng,
nhiều người đã là cơ sở tốt nuôi giấu cán bộ, chở người, chở vũ khí ra vào
thành phố, ủng hộ vật chất cho Mặt trận Giải phóng. Chính lực lượng này theo
lời kêu gọi của Mặt trận, sự huy động của Ủy ban Quân quản đã tự nguyện mang
hàng trăm xe chở bộ đội, binh khí kỹ thuật, hậu cần cấp tốc hành quân truy kích
địch ở phía Nam”149. Những công lao được ghi nhận này đã không giúp họ giữ
được nghề nghiệp và xe cộ.
Ngay
từ đầu, Ban Bí thư Trung ương Đảng và Chính phủ đã ra chỉ thị: “Công tác cải
tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội đối với lực lượng vận tải tư doanh ở miền Nam
đang được triển khai và yêu cầu phải làm gấp”150. Một thứ trưởng của Bộ Giao
thông được cử vào Nam và ngay sau đó, xe cộ, kể cả xe của các “quần chúng yêu
nước”, đều bị sung công. Đây không chỉ là một chính sách riêng lẻ của chính
quyền Việt Nam. Vận tải là ngành, theo Tuyên ngôn Đảng Cộng sản, phải do nhà
nước thống nhất quản lý.
Từ
tháng 2-1977 đến tháng 9-1978, Ban Cải tạo đã “trưng mua và mua, trưng thu và
tịch thu” hầu hết phương tiện vận tải của tư nhân151. Nói là mua và
trưng mua, nhưng thực chất, “giá xe do Nhà nước định trên thực tế chỉ
tương đương với 1% giá thật. Đã vậy, công ty chỉ mua chịu trả dần, mỗi lần một
ít. Có người đến khi không còn ở công ty, hoặc đã chết vẫn chưa được trả hết.
Mà dù có được trả hết thì khoản tiền đó cũng không đủ mua chiếc xích lô”152.
Trước
ngày 30-4-1975, ông Trần Văn Thành153 là chủ xe ca chạy tuyến miền Trung. Cuộc
sống gia đình ông được mô tả là “thường ăn cơm tiệm và cuối tuần thường đi mua
sắm”. Sau “giải phóng”, gia đình ông phải vạ vật trong những chuổi ngày khó
khăn: “Sau bữa cơm đạm bạc, cha con đưa đẩy nhường nhau bát cơm độn, ông Thành
xách túi ra xe kéo theo cái nhìn lo âu và tiếng thở dài của người thân. Bởi cái
xe của ông quá cũ nát không an toàn khi bắt buộc phải chở quá tải trên những
đoạn đường trường, bởi chắc chắn ông sẽ phải cố tìm một vài mặt hàng lậu để bù
vào tiền xăng dầu, bơm vá”154.
Nhưng
sự thiếu thốn chưa phải là tất cả những gì mà những người kinh doanh trong
ngành phải chịu đựng. Từ lái xe, năm 1973 ông Thành mua được một chiếc xe ca
trị giá 3,5 triệu đồng155. Nếu thời cuộc không thay đổi, công việc kinh doanh
thuận lợi có thể giúp ông Thành lập được một hãng xe. Nhưng cũng như các chủ xe
khác, ông Thành đã phải “bán” xe cho Nhà nước. “Bán xe xong, ai biết lái xe thì
được nhận làm công nhân của công ty. Lái theo chuyến, ăn luơng theo quy định.
Ai không biết lái xe thì coi như mất xe… Có những ông chủ hãng xe 30-40 chiếc,
cai quản hàng trăm lái, phụ xe, sau cải tạo muốn quá giang 30-40km nếu không
mua được vé thì vẫn bị đẩy xuống bến xe ngơ ngác trong bụi khói. Nhiều ông chủ
xe xin mãi mới được làm phụ xe, rồi còn bị anh lái xe mình thuê ngày xưa mắng
mỏ mỗi khi trái ý”156.
“Cải
tạo công thương nghiệp tư doanh”
Nếu
như đối tượng của Cách mạng chỉ có chín mươi hai nhà tư sản giàu có nhất miền
Nam thì sau năm 1975, nền kinh tế vẫn còn cơ hội để hồi sinh. Nhưng, hai năm
rưỡi sau, “giai cấp tư sản” lại bị “đánh” trong một chiến dịch mới được gọi là
“Cải tạo Công Thương nghiệp Tư doanh”, một chiến dịch được ông Đỗ Mười triển
khai với “bàn tay sắt”.
Lý
do của đợt cải tạo này được nói trong Thông báo ngày 23-3-1978 của Ủy ban Nhân
dân Thành phố Hồ Chí Minh: “Các nhà tư sản thương nghiệp, bằng hoạt động đầu
cơ, buôn bán chợ đen, tích trữ hàng hóa và tiền mặt đã lũng đoạn kinh tế và thị
trường, nâng giá hàng hóa bán ra, phá rối việc thu mua của nhà nước, gây cảnh
hỗn loạn thị trường để làm giàu bất chính, thậm chí tung hàng giả ra thị trường
để gạt gẫm và bóc lột người tiêu dùng. Họ dùng mọi thủ đoạn xảo quyệt móc hàng
của xí nghiệp, kho tàng nhà nước, ăn cắp những bí mật kinh tế quốc gia, nhằm
đục khoét kinh tế xã hội chủ nghĩa đang bước đầu xây dựng và làm hư hỏng một số
cán bộ nhân viên nhà nước, rồi qua đó mà nói xấu chế độ”157. Cơ sở pháp lý
của đợt “cải tạo thương nghiệp tư bản chủ nghĩa”, được nói là theo Quyết định
số 100 CP ngày 12-4-1977, nhằm “xây dựng nền thương nghiệp xã hội chủ
nghĩa” theo hướng “chấm dứt kinh doanh thương nghiệp của các nhà tư sản, chuyển
các nhà tư sản thương nghiệp sang sản xuất”.
Trước
đây, khi Trưởng Ban Cải tạo Xã hội Chủ nghĩa Trung ương Nguyễn Văn Linh
gặp giới công thương, “nhiều anh chị em công thương” khi phát biểu ý kiến, đã
“hoan nghênh chính sách cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh”. Thậm chí
có những ý kiến đã “nói lên những tồn tại của giới công thương”, chỉ trích “một
số nhà công thương còn theo lối kinh doanh cũ, vi phạm các chính sách luật lệ
của chính quyền cách mạng”. Lần ấy, sau khi “nêu lên chính sách đúng đắn, có
tình, có lý của đảng và nhà nước”, ông Nguyễn Văn Linh đã “kêu gọi các nhà
công thương… ra sức cải tạo bản thân, đem hết khả năng và những hiểu biết của
mình để tham gia xây dựng tổ quốc, làm cho dân giàu, nước mạnh, xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội”158. Sau hai ngày làm việc ấy, ông Linh “hẹn sẽ có dịp
nói chuyện” một cách đầy đủ hơn về chính sách cải tạo.
Nhưng
bản thân ông Nguyễn Văn Linh cũng chưa hình dung được ý đồ cải tạo của ông Lê
Duẩn. Đầu năm 1978, chức trưởng Ban Cải tạo mà ông Linh đang nắm giữ được Tổng
Bí thư Lê Duẩn trao lại cho ông Đỗ Mười. Ngày 16-2-1978, sau khi Thủ tướng Phạm
Văn Đồng ký “Chỉ thị 115”, ông Đỗ Mười đưa quân tập kết vào Sài Gòn để bắt đầu
kế hoạch.
Sáng
23-3-1978, khi người dân Sài Gòn chưa kịp thức dậy thì trước những cửa tiệm,
lớn có, nhỏ có, đã lố nhố từng tốp thanh niên, mặt mày nghiêm trọng. Họ chỉ chờ
chủ nhà thức dậy là ập vào, kiểm kê, niêm phong hàng hóa và bắt đầu chốt giữ.
Đêm hôm trước, toàn bộ lực lượng thanh niên đã được Thành đoàn huy động: sinh
viên các trường đại học thì nghỉ học, công nhân trong các nhà máy thì nghỉ làm,
những người chưa có công ăn việc làm thì được phường trưng dụng.
Cũng
trong buổi sáng hôm đó, các báo cho đăng Quyết định 341/QĐ-UB của Ủy Ban Nhân
dân Thành phố Hồ Chí Minh, công bố năm điều quan trọng của chính sách cải tạo:
Đình chỉ mọi hoạt động kinh doanh thương nghiệp của tư nhân; ra lệnh kiểm
kê hàng hóa tồn kho; cấm các nhà tư sản làm nghề buôn bán và “khuyến khích” họ
chuyển sang sản xuất159.
Người
ký Quyết định 341, ông Vũ Đình Liệu160, thừa nhận: “Quyết định được ký nhân
danh Ủy ban, lực lượng nói là của Thành phố, nhưng nòng cốt là Trung ương đưa
vô, kế hoạch Trung ương đưa vô. Ở cấp Thành phố cũng có Ban Cải tạo nhưng từ
thành phố cho tới quận huyện đều có người được ông Đỗ Mười đưa từ Hà Nội vào.
Họ mới là người đưa ra quyết định. Đau xót nhất là họ cứ theo tiêu chí tư sản
Hà Nội để áp dụng cho Sài Gòn. Quy sai thành phần đã khiến cho cải tạo trở
thành cuộc chiến trên diện rộng”161.
Theo
ông Nguyễn Văn Trân, viện trưởng Viện Kinh tế Trung ương: “Khi bắt đầu chiến
dịch, Bộ Chính trị chuyển anh Nguyễn Văn Linh sang làm Dân vận rồi đưa
anh Đỗ Mười vào vì anh Đỗ Mười đã làm cải tạo công thương nghiệp ở Hà Nội.
Anh Mười vào Sài Gòn áp dụng y chang những gì đã làm ở miền Bắc trong năm
1960”. Theo ông Hoàng Tùng: “Năm 1955, khi đánh tư sản ở Hải Phòng, Đỗ
Mười cũng cho xóa sạch”. Ông Hoàng Tùng thừa nhận là thoạt đầu ông đã cùng ông
Đỗ Mười vào Nhà khách Trung ương tại Sài Gòn (T78), viết bài ủng hộ chiến dịch
này, nhưng sau thấy Đỗ Mười đánh cả tiểu thương ông bỏ về. Ông Mười hỏi:
“Sao về?”. Hoàng Tùng nói: “Tôi theo anh, tôi sa lầy”.
Trong
suốt thời gian đặt “Tổng hành dinh” tại Thủ Đức, ông Đỗ Mười ít khi xuất hiện
công khai. Nhưng quyền lực của ông là bao trùm và cách mà ông tiến hành thì
cứng nhắc đúng như những giai thoại về ông lúc đó162. Theo ông Đỗ Hoàng Hải,
đại biểu Quốc hội Khóa IX, người được phân công “phát động giai cấp công nhân
tham gia” lực lượng cải tạo: Cứ “đánh” xong ngành nào thì các ngành tương ứng
từ Trung ương – phần đã vào từ trước, phần mới vào theo ông Đỗ Mười – lập tức
nhảy vào tiếp quản. Ví dụ Bộ Công nghiệp nhẹ tiếp quản ngành Dệt; Bộ Giao thông
tiếp quản các cơ sở liên quan đến xe cộ, bến cảng; Liên hiệp Công đoàn Giải
phóng thì tiếp quản số 14 Cách Mạng Tháng Tám, nơi vốn là trụ sở Liên đoàn Lao
động của Trần Quốc Bửu.
Ông
Đỗ Hoàng Hải nói: “Lực lượng công nhân do tôi chỉ huy lúc đó hết sức phấn khởi
vì Thành ủy dành 35% quỹ nhà cải tạo chia cho giai cấp công nhân, coi như đó là
một chính sách lớn của Đảng đối với thành phần nòng cốt. Ngày cao điểm, chúng
tôi huy động tới 3000 công nhân, sáng ra phát cho mỗi người một ổ bánh mì rồi
khi có lệnh là lên xe đến ‘chốt’ nhà của ‘tư sản’. Trước đó, những lực lượng
khác đã xộc vào các cửa hàng, phát hiện, kê biên hàng hóa, đồng thời ‘đấu tranh
chống các hành vi xấu”.
Cán
bộ làm công tác cải tạo được mô tả: “Đã nhã nhặn, đúng mực, nhưng rất cương
quyết, dứt khoát, trong sạch; đã làm thất bại một số vụ mua chuộc xấu
xa của giai cấp tư sản. Nhiều công nhân lao động chẳng những phát hiện các
hộ tư sản thương nghiệp lọt sổ, tố giác các kho hàng cất giấu, mà còn cương
quyết từ chối và đấu tranh chống lại hành động hối lộ của một số hộ tư sản”163.
Một
nhân viên cải tạo từ chối nhận hối lộ đã được Ban Chỉ đạo “thông báo cho toàn
quận và được kết nạp vào Đoàn Thanh niên Cộng sản vào tối ngày 26-3-1978 ngay
tại nơi cô tham gia công tác cải tạo”. Người dân cũng được phát động để “kịp
thời phát hiện, phê phán, đấu tranh, tố giác, chống những hành vi xấu như hối
lộ, tẩu tán hàng hóa, tuyên truyền xuyên tạc, chia rẽ của một số hộ tư sản không
thức thời”164.
Hầu
như không có chống đối, chỉ một số tư sản người Hoa phản ứng ở mức thăm dò. Vào
lúc 7 giờ sáng ngày 23-3-1978, khi xuống một phường ở Quận 5, ông Mai Chí Thọ
được báo cáo: “Nhiều nhà tư sản biết trước lệnh cải tạo đã khóa cửa bỏ đi, cán
bộ tới không có chủ nhà để đưa lệnh kiểm kê tài sản”. Ông Mai Chí Thọ
suy nghĩ rồi ra lệnh: “Cho niêm phong tất cả cửa ra vào, cho một tổ chốt
trước nhà những người đi vắng. Thông báo cho họ một thời hạn, nếu không tự giác
thì các đồng chí cứ cho phá cửa vào lập biên bản”165. Trừ một số trốn đi luôn,
phần lớn đã trở về chịu để chính quyền kê biên tài sản.
Tại
Sài Gòn, 28.787 hộ tư sản bị cải tạo, phần lớn bị “đánh” ngay trong bốn ngày
đầu với 6.129 hộ “tư sản thương nghiệp”, 13.923 hộ “trung thương”. Những tháng
sau đó có thêm 835 “con phe”, 3.300 “tiểu thương ba ngành hàng”, 4.600 “tiểu
thương và trung thương chợ trời” bị truy quét tiếp. Theo ông Huỳnh Bửu Sơn,
người trông coi kho vàng của Ngân hàng, trong đợt đánh tư sản này, Cách mạng
thu thêm khoảng hơn năm tấn vàng, chưa kể hạt xoàn và các loại đá quý. Có những
gia đình tư sản giấu vàng không kỹ, lực lượng cải tạo tìm được, khui ra, vàng
chất đầy trên chiếu.
Những
năm sau 1975, cứ mỗi khi có một thành phần nào đó trong xã hội trở thành đối
tượng của Chính quyền, lại có một thành phần khác, gọi là quần chúng, được
đưa đứng ra lên án. Chín mươi hai nhà tư sản mại bản vừa bị đánh vào rạng sáng
ngày 10-9-1975 thì sáng hôm sau, 11-9-1975, đã có “1.200 nhà tư sản dân tộc,
tiểu thương, tiểu chủ mở đại hội bất thường” tại rạp Rex để “bày tỏ quyết tâm
bài trừ bọn tư sản mại bản, đầu cơ tích trữ, lũng đoạn, phá rối thị trường”166.
Thậm
chí, “giới người Hoa tỏ ý muốn Chánh quyền công bố đầy đủ danh sách và tội
trạng của tất cả các tên gian thương đã bị sa lưới. Giám đốc một xí nghiệp tại
Chợ Lớn (xin giấu tên) là người Hẹ, cho biết, theo ông nên tịch thu toàn bộ tài
sản của bọn gian thương, đem xử công khai trước nhân dân và cho bọn này đi cải
tạo lao động lâu dài để chúng biết giá trị của lao động”. Ông giám đốc
người Hẹ này khi ấy chắc không ngờ có ngày mình cũng trở thành đối tượng của
“nhân dân lao động”.
Hai
gia đình tư sản
Tuy
không sơ khai như thời kỳ Cải cách ruộng đất, nhưng phương thức “đấu tranh giai
cấp” của thế hệ cộng sản sau năm 1975 cũng có những điểm tương đồng. Ngay từ
tháng 9-1975, Đoàn Thanh niên Cộng sản đã “đánh tư sản mại bản” bằng chính
tiếng nói của con cái các nhà tư sản.
Trên
báo Tuổi Trẻ, Anh Thanh Tùng, một học sinh người Hoa học lớp 12, trường Lý
Phong, nói: “Bản thân tôi thấy rõ chính sách của chính phủ là đánh bọn gian
thương bóc lột nhân dân chứ không đánh vào người Hoa. Tư sản mại bản đầu cơ
tích trữ thì dù là Việt hay Hoa đều có tội với nhân dân, là kẻ thù của nhân
dân”. Ôn Đường, học sinh lớp 9 trường Việt Tú, thì cho rằng: “Chúng ta
phải phát động quần chúng đứng lên tiêu diệt bọn gian thương”. Còn Lý Mỹ, học
sinh lớp 10, trường Lý Phong, thì nói: “Tôi nghĩ rằng những nhà tư sản nào muốn
hợp tác với chính quyền cách mạng để xây dựng kinh tế thì đó là điều tốt. Nhưng
phải tiêu diệt bọn tư sản mại bản, có như thế mới ổn định đời sống nhân
dân”167.
Năm
1978, thay vì chỉ tuyên bố, Lý Mỹ, con gái một nhà tư sản người Hoa, vừa trở
thành đoàn viên, đã dẫn các “đồng chí” của mình vào nhà, chỉ cho họ những tài
sản mà cha mẹ mình đang cố giấu. Cô được ca ngợi trên báo chí: “Hai năm qua đất
nước ta chuyển mình đi lên chủ nghĩa xã hội, cũng như nhiều bạn trẻ khác, Lý Mỹ
đã hòa mình trong ngọn lửa triều thời đại ấy”168. Chính Lý Mỹ cũng viết trên
trang đầu tiên của nhật ký: “Hãy đấu tranh để giành hạnh phúc”. Nhưng qua
những dòng ghi chép của cô, cuộc đấu tranh ấy không chỉ mang về hạnh phúc169.
Lý
Mỹ thuộc thế hệ trưởng thành trong khuôn viên Thành đoàn170, đọc Pavel
Korchagin và được nghe các nhà lý luận từ miền Bắc vào giảng giải luận điểm của
Marx về kinh tế. Một bên là những niềm tin mới của cô về một xã hội tốt đẹp,
một bên là kế sinh nhai của gia đình. Từ tháng 6-1977, khi cải tạo chưa bắt
đầu, Lý Mỹ đã phải “nuốt nước mắt” để thuyết phục cha mẹ mình nghe theo những
gì cô được Đoàn dạy bảo. Lý Mỹ nói với má: “Sống như vậy con thấy phi pháp
quá”. Gia đình Lý Mỹ khi ấy có một cửa hàng kinh doanh vải trên đường Cách Mạng
Tháng Tám. Khi Nhà nước “cải tạo công thương nghiệp tư doanh”, Lý Mỹ đang là
học sinh lớp 12C, trường Trần Khai Nguyên. Ngày 23-3-1978, khi “nhiều toán
thanh niên đóng chốt ở những cửa hàng lớn” trên con đường mà cô đi qua, Lý
Mỹ viết: “Rồi đây cuộc sống sẽ trở nên phong quang hơn, đời sống đồng bào sẽ
trở nên dễ chịu hơn khi những ung nhọt của một cơ thể đã được giải phẫu từ ngày
hôm nay – ngày mở đầu một cuộc đấu tranh lớn”.
Trong
những ngày sau đó, Lý Mỹ đã “bám từng giây, từng phút để vận động gia đình kê
khai tài sản”. Báo Tuổi Trẻ theo sát, tường thuật từng lời nói, hành động của
cô. Cái ngày mà toàn bộ gia sản của gia đình bị kê biên, Lý Mỹ đã không giấu
được niềm vui hoàn thành nhiệm vụ: “Mỹ kêu mẹ đi ngủ để mình làm công việc kê
khai cùng với toán công tác đang chốt tại đấy. Đêm 24-3-78, Mỹ thức đến ba giờ
khuya – không phải để thao thức, trăn trở trong sự khổ sở – mà để sao bốn bản
kê khai trong một sự vui sướng tràn trề. Lòng Mỹ rộn ràng như lần đầu tiên biết
mình được đứng vào hàng ngũ của Đoàn” 171.
Cuốn
Nhật ký của Mỹ khép lại vào lúc 3 giờ sáng ngày 25-3-1978: “Má đã yên tâm rồi.
Còn mình lại càng yên tâm hơn khi gia đình mình đã chấm dứt quá khứ từ ngày hôm
qua để chuẩn bị bước vào tương lai. Mình không còn mặc cảm với bạn bè, nhân dân
lao động vì gia đình mình không còn sống bằng nghề bất chính. Mình đã đấu
tranh, đã thực hiện được lý tưởng, ước mơ của mình. Hãy cất cao tiếng hát, hãy
tiến lên. Không có gì có thể ngăn cản được bước tiến của mình. Mình trở lại
phấn khởi rồi, vui quá!”. Nhưng điều mà lúc ấy Lý Mỹ tưởng là niềm vui, rồi
sẽ khoét vào lòng cô một như vết thương – một vết thương không bao giờ có
khả năng khép lại.
Cho
dù được báo Nhân Dân172 ca ngợi, được đoàn viên từ khắp nơi trong cả nước viết
thư thăm hỏi, động viên và bày tỏ lòng ngưỡng mộ, Lý Mỹ cũng chỉ là một sản
phẩm hy hữu của Thành đoàn. Con cái của các nhà tư sản khác, trong những ngày
ấy, đã bị buộc phải trưởng thành để cùng cha mẹ bảo vệ tài sản gia đình trước
nguy cơ cải tạo. Gia đình ông Võ Quang Trữ, một trong những người giàu có
ở Sài Gòn lúc bấy giờ, là một ví dụ.
rất hoang sơ. Chỉ một thời gian ngắn sau, ông Võ Quang Trữ cùng một số người di cư bàn bạc khôi phục nghề dệt của Quảng Nam. Bắt đầu là dệt, kế tiếp là hồ, rồi tiến tới buôn bán hàng tơ sợi. Từ tay trắng, họ nhanh chóng trở thành những người giàu nhất.
Sáng
30-4-1975, giữa khi súng đạn vẫn còn đùng đoàng, ông Trữ đã chở con bằng xe
Vespa từ nhà riêng ở 177C Lý Thường Kiệt lên Bảy Hiền lấy gần một trăm lá cờ
Giải phóng về phân phát cho hàng xóm. Nhưng sự hào hứng này của ông không kéo
dài được bao lâu. Một hôm đi làm về, ông thấy, tấm biển “trụ sở công an phường”
tự nhiên được treo lên trước một ngôi nhà của mình ở Bảy Hiền. Khi ông đi vắng,
mấy người “Cách mạng 30-4” mang bảng tới, nói: Chúng tôi muốn dùng tầng trệt
làm trụ sở công an, rồi treo lên mà không chờ chủ nhà đồng ý.
Sau
Chiến dịch X-2, quan sát bạn bè bị “đánh tư sản mại bản”, ông Trữ đi trước một
bước bằng cách đưa nhà máy với hơn 5.000 công nhân của mình “hiến” cho Nhà
nước dưới danh nghĩa lập xí nghiệp “công tư hợp doanh”173, rồi nhận chức phó
giám đốc trong nhà máy của mình theo sự phân công. Một số lớn máy móc và tiền
bạc khác được ông Trữ đưa về quê, xây thêm hai nhà máy công tư hợp doanh, rồi
hiến cho Đà Nẵng.
Ngay
trong ngày 23-3-1978, một tổ cải tạo năm người đã đến chốt trước tiền sảnh ngôi
nhà số 57 Hồ Tấn Đức nơi gia đình ông Trữ đang cư ngụ. Họ ở đó hai đợt, tổng
cộng sáu tháng. Võ Quang Dũng, con trai ông Trữ, sinh năm 1964, kể: “Hàng ngày
bắt đầu từ sáng sớm, họ thẩm vấn từng thành viên trong nhà, lặp đi lặp lại gần
như chỉ một câu: tiền vàng giấu ở đâu?”. Không ai, kể cả vợ con, biết vàng ông
Trữ giấu ở đâu. Gần như không có một viên gạch nào ở trong nhà là không bị cạy
lên. Nhưng những mưu sâu kế dày mà trước đây các gia đình Cách mạng đã dùng để
qua mặt cảnh sát Sài Gòn, nuôi giấu cán bộ, giờ đây được chính nhân dân áp dụng
một cách triệt để thoát khỏi Chính quyền Cách mạng.
Ngay
từ rất sớm, ông Trữ đã có các phương án đề phòng. Ngày 26-11-1975, một toán năm
tên cướp có vũ khí đột nhập vào ngôi nhà 177C Lý Thường Kiệt của ông, bắn chết
bà mẹ già tám mươi tuổi. Vợ ông khi đó đang bị tai nạn, nằm trên giường, chứng
kiến cuộc đấu súng kéo dài giữa công an và tên cướp cố thủ trong nhà cho đến
khi hắn ta bị công an bắn hạ. Sau đó, ông Trữ quyết định chuyển nhà lên Bảy
Hiền. Chính trong thời gian xây nhà 57 Hồ Tấn Đức ở vùng Bảy Hiền, ông Trữ đã
cho làm hai căn hầm bí mật có nhiều tầng: một dưới gầm cầu thang, một ngay dưới
bàn ăn gia đình. Hơn mười nghìn lượng vàng đã được ông xếp trong những lon
guygoz, bọc giấy dầu rồi xếp xuống hầm.
Quan
sát thấy lực lượng cải tạo chỉ khám người, túi xách của hai vợ chồng ông Trữ và
của người giúp việc chứ không khám người mấy đứa con – đặc biệt là hai đứa trẻ:
Võ Quang Dũng, mười bốn tuổi; Võ Thị Anh Đào, mười hai tuổi – ông Trữ bắt đầu
cho thực hiện kế hoạch. Mỗi đêm, ông mang lên khoảng năm mươi lượng vàng.
Tới giờ đi học, ông cho vàng vào ruột tượng, buộc ngang bụng Dũng và Đào, rồi
để các con tự đi ra ngoài.
Võ
Quang Dũng kể: “Chúng tôi bị tước mất tuổi thơ từ đó. Vốn là những đứa trẻ vô
tư, nhưng hàng ngày hai anh em đều phải đóng kịch, giả vờ vui vẻ ra khỏi nhà,
khi thì với quả bóng, khi thì với một món đồ chơi, để qua mặt tổ cải tạo đang
đứng canh trước cửa. Từ cổng, khi thì xích lô, khi thì taxi, khi thì một bác xe
ôm đứng đón. Họ chở tôi đi một đường, em gái tôi đi một đường. Mỗi ngày,
chúng tôi đi đến một địa điểm mà ba tôi cho biết chỉ vài phút trước khi ra khỏi
nhà. Ở đó, một người được ba tôi đặc biệt tin cẩn và huấn luyện trước đã chờ
sẵn, đón chúng tôi, nhận hàng rồi đi ngay lập tức”.
Công
việc vận chuyển vàng ra khỏi nhà trước mắt lực lượng cải tạo trong suốt sáu
tháng trời đã khiến cho cha con ông Võ Quang Trữ trở thành những người có vẻ
ngoài lạnh lùng. Năm 1979, anh em Dũng vượt biên không thành trở về, gặp nhau
ngoài ngõ nhưng cha con chỉ khẽ gật đầu như vừa đi đâu đó ngoài đường về. Mãi
tới khi vào bên trong nhà, ông Trữ mới ôm lấy các con và cả mấy cha con cùng
bật khóc.
Kinh
tế mới
Không
chỉ bị “tước đoạt tài sản”, các nhà tư sản còn bị buộc phải rời thành phố, cho
dù, cũng như nhiều chính sách làm xáo trộn xã hội lúc bấy giờ, chủ trương đưa
các nhà tư sản đi kinh tế mới cũng không được công bố một cách công khai, minh
bạch. Ngày 10-4-1978, trên báo Sài Gòn Giải Phóng xuất hiện một bài báo dưới
dạng “hỏi-đáp”, kiểu như một tài liệu được soạn sẵn rồi phát cho các cơ quan
báo chí. Tính cưỡng bức của chính sách mà tài liệu này thể hiện là rất mạnh mẽ.
Các
nhà tư sản thương nghiệp bị phê phán là chỉ biết “làm giàu, ăn chơi phè phỡn,
bóc lột người lao động và ăn cắp của nhà nước, coi khinh lao động và nói xấu
chế độ” trong khi “ba năm qua trên 700.000 nhân dân lao động hồi hương lập
nghiệp”174. “Về những hành vi tội lỗi đó, nhân dân lao động và chính quyền cách
mạng đã không bắn giết, không bắt giam, không đày ải, không đấu tố, không tịch
thu mặc dù có đầy đủ sức mạnh và lý lẽ để làm như vậy. Nhân dân lao động và
chính quyền chỉ buộc họ chấm dứt những hành vi đó, chấm dứt triệt để và vĩnh
viễn… Không những các nhà tư sản thương nghiệp phải chuyển sang sản xuất nông
nghiệp, nghề cá, nghề rừng là chuyển về các tỉnh, mà cả sản xuất công nghiệp và
tiểu thủ công nghiệp cũng chuyển về các tỉnh, theo sự bố trí màng lưới công
nghiệp và tiểu thủ công nghiệp ở địa phương”175.
Hai
ngày sau khi báo Đảng đăng bài “hỏi-đáp” này, một cuộc “hội thảo” kéo dài hai
ngày, 12 và 13-4-1978, với sự tham gia của “hơn 200 trí thức” đã được
chính quyền tổ chức. Phát biểu trong “hội thảo” 176, Bác sỹ Lê Cửu Trường
nói rằng: “Lề lối kinh doanh tư bản chủ nghĩa không thể tiếp tục kéo dài trong
một xã hội đang tiến lên con đường xóa bỏ chế độ người bóc lột người”. Ông
Phương Kiến Khánh, người được giới thiệu là đang công tác ở Phân Viện Nghệ
thuật, cho rằng: “Chuyển các nhà tư sản thương nghiệp sang sản xuất là trả
họ về với thiên chức con người, là giải phóng họ khỏi kiếp ăn bám, bóc lột”.
Tối
17-4-1978, tại sân vận động Thống Nhất, “40.000 công nhân viên chức đại biểu
cho gần nửa triệu công nhân lao động” đã “hưởng ứng chủ trương xóa bỏ kinh
doanh của các tư sản thương nghiệp”. Phát biểu trên sân vận động Thống Nhất,
Chủ tịch Vũ Đình Liệu nói: “Chúng ta đang ở trong giai đoạn đấu tranh giai cấp
có phần gay gắt và cuộc đấu tranh vẫn còn tiếp tục”177.
Ngày
10-6-1978 là “hạn chót để các nhà tư sản thương nghiệp rời thành phố đi sản
xuất”. Chính quyền ca ngợi những người tích cực đăng ký các chương trình kinh
tế mới nhưng đồng thời cũng nói với họ rằng: “Đây là một chính sách lớn… nhằm
giúp các nhà tư sản tự giải thoát khỏi con đường bóc lột, biến họ từ một lực
lượng phi sản xuất gây tác hại cho xã hội thành một lực lượng sản xuất có ích
cho xã hội”178. Không ít nhà tư sản được trích lời trên báo nói, họ chuyển sang
sản xuất là để “tẩy rửa cái mặc cảm bóc lột tội lỗi” của mình. Nhưng, như phát
biểu của ông Vũ Đình liệu, “cuộc đấu tranh giai cấp” diễn ra ở bên trong từng
gia đình đúng là đang “có phần gay gắt”.
Nhật
ký ngày 8-6-1978 của Lý Mỹ cho thấy không khí trong gia đình cô “thật lạ và
căng thẳng”. Ba cô tuyên bố “sẽ đi kinh tế mới” nhưng giọng nói của ông làm cho
cô “nghi ngờ”. Cũng như nhiều gia đình tư sản, đặc biệt là tư sản người Hoa
khác, gia đình Lý Mỹ biết rõ, “kinh tế mới là nơi đày ải, đầy khó khăn gian khổ
không thể nào sống được”. Phần lớn các nhà tư sản sau đó đã vượt biên. Nhật ký
của Lý Mỹ viết: “Cùng gia đình bỏ trốn hay ở lại. Tôi nghĩ, tôi phải can đảm
lên, chấp nhận đấu tranh và mất mát, tôi sẽ không trốn đi nơi nào cả. Nếu gia
đình không lay chuyển, tôi bằng lòng ở lại sống cô đơn, không tài sản của cải
gì của cha mẹ để lại, tôi sẽ gặp vất vả, khó khăn và sóng gió. Đồng chí Paven
ơi, nỗi khổ và sự phấn đấu của tôi có nghĩa gì so với đồng chí”179.
Ông
Võ Văn Kiệt thừa nhận: “Lúc đầu, tôi cũng cứ tưởng cải tạo tư sản sẽ khác với
cải cách ruộng đất, một sai lầm mà những người ở miền Nam chúng tôi nhắc nhau
phải tránh. Nhưng, tiến hành rồi mới thấy, cách cải tạo tư sản thương
nghiệp mà anh Đỗ Mười làm, cũng không khác gì đánh tư sản mại bản nhưng
tràn lan hơn.
Anh
Đỗ Mười làm cải tạo cũng thành thật lắm. Giữa thập niên 1980, khi tôi ra Hà Nội
vẫn thấy anh Đỗ Mười kêu những người buôn bán là bọn con buôn”.
Ngay
trong thời gian đang cải tạo, những cuộc tranh cãi nổ ra gần như thường xuyên
giữa ông Võ Văn Kiệt, ông Nguyễn Văn Linh với ông Đỗ Mười. Nhưng khi ấy Đỗ Mười
đang nắm trong tay “thượng phương bảo kiếm”. Ông Vũ Đình Liệu thừa nhận: “Họp
Thường vụ chúng tôi cũng có ý kiến, đi cơ sở về chúng tôi cũng có ý kiến,
nhưng bị bên anh Đỗ Mười cự”180. Tuy tranh cãi phương thức, nhưng cả ông Võ Văn
Kiệt, ông Nguyễn Văn Linh vẫn thống nhất với ông Đỗ Mười về chủ trương. Ông Võ
Văn Kiệt thừa nhận: “Lúc đầu tôi nhận thức, cải tạo là chuyện tất yếu và coi
như đó là con đường để đi lên chủ nghĩa xã hội. Cho tới lúc ấy, tôi chỉ đi
các nước Đông Âu, thấy cuộc sống của họ so với mình đã là những gì mà mình ước
mơ. Tôi nghĩ, phải kinh qua những bước như mình đang làm bây giờ mới có ngày
đạt được như những gì họ có”. Nhưng rồi khi nhìn cả thành phố vốn là một trung
tâm thương mại trở nên tiêu điều, tan hoang, nhất là khi nhìn thấy chính những
ân nhân của cách mạng cũng trở thành nạn nhân, những người đã từng bám trụ ở
miền Nam, ở Sài Gòn bắt đầu nhìn lại những gì mà mình đang thực hiện.
Khi
ông Đỗ Hoàng Hải mới về 14 Cách Mạng Tháng Tám chuẩn bị “cải tạo tư sản”, ông
Trần Văn Đước – một cơ sở đã từng nuôi giấu và cứu mạng ông Hải trong Mậu Thân
1968 – ngày nào cũng nấu cơm rồi cho người mang sang. Cũng như trong chiến
tranh, ông Đước không biết rõ ông Hải đang làm gì, chỉ giúp đỡ vì biết ông Hải
là người “bên Cách mạng”. Khi ông Trần Văn Đước chạy đến báo: “Bác bị người ta
mang xe tới chở hết kiếng đi rồi”, ông Hải vẫn tưởng rằng: “Chắc là có sự nhầm
lẫn”.
Con
trai ông Trần Văn Đước là liệt sỹ. Tiệm kiếng của ông mở tại nhà riêng ở số 12
Ngô Tùng Châu chỉ là một ngôi nhà cấp 4, chiều ngang bốn mét, dài mười bốn mét,
tường gạch, lợp ngói. Nhưng ông Đước vẫn bị quy vào diện tư sản thương nghiệp,
kiếng hàng hóa và cả nhà riêng của ông đều bị “sung công”. Không chỉ
có trường hợp ông Trần Văn Đước. Năm 1957, ông Lai Ninh đã bất chấp nguy
hiểm tới tính mạng, lái xe đưa ông Lê Duẩn đào thoát sang Phnom Penh trong sự
truy lùng gắt gao của Chính quyền Sài Gòn. Năm 1978, khi ông Lê Duẩn đưa
ông Đỗ Mười vào Nam, nhà máy xay lúa của gia đình ông Lai Ninh đã bị sung công.
Con gái ông, bà Lai Kim Dung, một tư sản người Hoa, cũng bị xếp vào thành phần
cải tạo. “Công cuộc cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh” ở miền Nam,
tiến hành từ sau 1975, đã cải tạo 3.560 cơ sở tư bản tư doanh công nghiệp,
trong đó có 1.354 cơ sở của tư sản mại bản bị công hữu hóa, tịch thu, 498
cơ sở bị chuyển thành công tư hợp doanh; chuyển 5.000 tư sản thương nghiệp sang
sản xuất; chuyển chín vạn tiểu thương sang sản xuất; sử dụng 15.000 người vào
mạng lưới thương nghiệp xã hội chủ nghĩa. Sau Cải tạo, dưới dạng kinh tế quốc
doanh và công tư hợp doanh, Nhà nước nắm: 100% ngành năng lượng; 45% ngành cơ
khí; 45% ngành xay xát lương thực; 100% ngành bia, nước ngọt, bột ngọt, thuốc
lá; 45% trong các ngành chế biến đường, dầu thực vật; 60% ngành dệt; 100% ngành
sản xuất giấy; 80% ngành sản xuất bột giặt, xà phòng. Thương nghiệp quốc doanh
nắm 80% nguồn hàng công nghiệp; 92% số xã trên toàn miền Nam có hợp tác xã mua
bán181.
Trước
khi cải tạo công thương nghiệp tư doanh, nhà nước đã tìm mọi cách để tập trung
mọi nguồn hàng vào tay mình. Không chỉ có sản phẩm của các xí nghiệp quốc doanh
phải tiêu thụ qua thương nghiệp của nhà nước, “các xí nghiệp tư bản, các hợp
tác xã, các tập đoàn và cơ sở sản xuất thủ công, cá thể, được nhà nước cung cấp
lương thực, máy móc, thiết bị, nguyên liệu, nhiên liệu, điện; cho vay
vốn… (cũng) phải bán sản phẩm cho thương nghiệp quốc doanh”182. Chính
quyền tin rằng: “Ngành thương nghiệp xã hội chủ nghĩa là cơ quan hậu cần của
toàn dân, là người nội trợ của toàn xã hội”183. Chẳng bao lâu sau, niềm tin này
sẽ nhanh chóng tan thành mây khói.
Chú Thích Chương III
117 Sài Gòn Giải Phóng,
10-9-1975.
118 Diễn biến “Chiến
dịch X-2” được mô tả: “Ta đã huy động hơn một vạn nhân lực, kết hợp giữa lực
lượng an ninh, quân sự, kinh tài, tuyên huấn và đội ngũ cán bộ dân chính đảng,
thành lập 7 đoàn, 60 đội và 10 ngàn công nhân lao động, học sinh, sinh viên
trực tiếp tham gia đánh vào mục tiêu đã định. Ta đã bắt được các đối tượng chủ
yếu, chiếm lĩnh các cơ sở xí nghiệp, kho tàng. Chỉ trong hai ngày 10 và
11-9-1975, ta đã huy động hơn 70 vạn quần chúng nội, ngoại thành, cả người Việt
lẫn người Hoa, từ tầng lớp quần chúng cơ bản đến tiểu thương, tiểu chủ và tư
sản dân tộc, tổ chức mít- tin, biểu tình, sôi nổi lên án và yêu cầu trừng trị
bọn tư sản mại bản lũng đoạn, đầu cơ, tích trữ…” (Những Sự Kiện Lịch Sử Đảng Bộ
Thành Phố Hồ Chí Minh, Cuốn I, 1975-1985, trang 20).
119 Những Sự Kiện Lịch
Sử Đảng Bộ Thành Phố Hồ Chí Minh, Cuốn I, 1975-1985, trang 20.
120 Một người, rất có
thể là con gái của chủ “hãng gà 7.000 con”, là chị Nguyễn Thị Ngọc Dung. Tháng
9-1975, khi đang học tại trường Đại học công San Francisco (Mỹ), chị Dung nhận
ra “trang trại nuôi gà” của nhà mình trong một phóng sự do các nhà báo nước
ngoài bị kẹt lại Sài Gòn thực hiện trong khuôn khổ một hoạt động được Chính quyền
tổ chức nhằm tuyên truyền về "hoạt động tốt đẹp bình thường sau chiến
thắng". Chị Dung viết: “Tôi chắc, vì đấy là trang trại của gia đình tôi
gần Thủ Đức. Khi bất ngờ nhìn thấy, quả thực tôi có hốt hoảng vì đấy là chuyện
tình cờ không bao giờ ngờ được… Tôi lo tới quặn đau cả người. Lo vì những người
gọi là coi trại không có mặt nào tôi quen cả. Những gì mình không biết, không
được biết chỉ khiến nỗi lo thêm nặng, thêm lớn. Cái đau này không phải là cái
đau tưởng tượng hay cái đau tâm tưởng mà người ta hay nói, ở tôi nó là cái đau
thể chất”.
121 Kết quả “đánh tư
sản” trước Chiến dịch X-2: “Về bột ngọt, hộ Đào Mậu, Hứa Quang, ta bắt được 4
đối tượng chính và bắt thêm 8 tên thư ký và tài phú, có khai thác nhưng chưa
được gì thêm. Số lượng bột ngọt cũ là 2 tấn và 60 tấn nguyên liệu.
Nhưng
đã phân tán nhuyễn nhiều lần khắp các đại lý nhỏ nên không còn nhiều hàng hóa
trong kho, để trốn thuế, chúng chuyển nợ cho đại lý, mỗi đại lý nợ công ty đến
600 triệu – ít nhất là 100 triệu. Ta có sơ hở trong việc triển khai nghị quyết
đối với đại lý 1000kg trở lên... Vì đã động ổ, chúng đã phân tán hết dự trữ, do
đó đang tiến hành nghiên cứu để gắn vào đánh trong đợt X-2 tiếp. Cần liên hệ
với Tư Pháp Tòa án để hình thành các tòa án xử công khai trước khi ta vô đợt...
Cần tập trung truy đối tượng ta bắt giữ, trong số này phải lọc một vài tên đầu
sỏ để khui coi nó giấu vàng ở đây. An Ninh và Hoa Vận (Sáu Lâm), tổ chức bắt
ngay, bắt tên chủ hàng Việt Hoa trong vụ tàu để khai thác. Chú ý con đường xuất
cảnh của ngoại kiều, An Ninh, Ngoại vụ Thuế Quan cần kết hợp kiểm soát chặt.
Vừa qua có phát hiện lọt lưới một số CIA, đi rồi mới biết, có hiện tượng hối lộ
cán bộ để đi. Khai thác thêm 2 tên Y và Phôi buôn vàng lậu hồi ngụy qua mặt
Thiệu, có thể đó là bọn CIA... Đối với số vàng tư trang đem đến tiệm mướn làm.
Nếu có hóa đơn thì trả lại cho chủ. Nếu có tình nghi thì điều tra xong sẽ giải
quyết. Đồng ý xuất tiền đã giao ngân hàng để trả lại các đối tượng chi tiêu
tiền ăn, tiền điện nước” (Biên Bản Giao ban Trung ương Cục ngày 3-9-1975, Thư
ký Hà Phú Thuận ghi).
122 Những Sự kiện Lịch
sử Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh (1975-1995), cuốn I, trang 23.
123 Sđd, trang 25.
124Những Sự kiện Lịch
sử Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh (1975-1995), cuốn I, trang 25.
125 Sài Gòn Giải Phóng,
27-9-1975.
126 Bài báo viết: “Ngay
khi ra đời, tờ bạc Sài Gòn đã không hề có được một chức năng kinh tế nào… Nhiệm
vụ của đồng bạc Sài Gòn (là) giữ vai trò trung gian cho Diệm xuất cảng sức lao
động của đồng bào ta ở miền Nam cho Mỹ… Làm trung gian để tiêu thụ xương máu
nhân dân miền Nam, làm trung gian để tiêu thụ thân xác của vô số thiếu nữ miền
Nam, làm trung gian cho bọn tham nhũng, thối nát, làm kẻ phục vụ đắc lực cho
chiến tranh, làm sụp đổ mọi giá trị tinh thần, đạo đức của tuổi trẻ miền Nam,
làm lụn bại cả phẩm chất một số người lớn tuổi... Nó sống 30 năm dơ bẩn, tủi
nhục như các tên chủ của nó, và nay nó đã chết cũng tủi nhục như thế. Đó là một
lẽ tất nhiên, và đó là lịch sử… Cái chết của nó đem lại phấn khởi, hồ hởi cho
nhân dân ta” (Sài Gòn Giải Phóng, 27-9-1975).
127 Sài Gòn Giải Phóng,
27-9-1975.
128 Diễn viên điện ảnh
nổi tiếng trong phim “Đời Cát”, đầu thập niên 2000, từng tham gia một vai phụ
trong phim The Quiet American của đạo diễn Phillip Noyce.
129 Theo Mai Hoa, tài
sản của gia đình cô chỉ chính thức bị mất vào tháng 3-1978 trong đợt cải tạo
công thương nghiệp tư doanh, khi đó, cha cô bị buộc phải ký giấy “hiến” trại
cưa cho Nhà nước.
130 Ông Trần Kiêm Đoàn
hiện định cư tại Sacramento, California, Mỹ.
131 Báo Sài Gòn Giải
Phóng, 3-9-1975.
132 “Cùng với Mỹ lũng
đoạn kinh tế Miền Nam, xuất ít, nhập nhiều làm vật giá leo thang, lao động thất
nghiệp; dùng đồng tiền đặt tay chân vào bộ máy chính quyền; đầu cơ tích trữ,
mua rẻ bán đắt; thông qua đại lý tổ chức buôn lậu; xuyên tạc phá hoại các chủ
trương của chính phủ; hối lộ, mua chuộc, gây chia rẽ đội ngũ cách mạng; vơ vét
rồi tuồn hàng ra chợ trời; mua vàng, hạt xoàn tích trữ và in bạc giả; tung tin
‘Bột ngọt bị đưa ra Bắc’, ‘Xăng dầu sẽ cạn’; thông đồng với bọn phản động chính
trị…”
133 Tin Sáng, 10-9-1975.
134 Sài Gòn Giải Phóng,
28 & 29-7-1977.
135 Nội dung luận tội
của Công tố ủy viên Nguyễn Hoàn với “tên tư sản mại bản” Lưu Trung: “Trong thời
gian tiến hành chiến tranh xâm lược đất nước ta, một số chính trị gia Mỹ, trong
đó nổi bật là Guy Pao-ơ, đã vạch ra âm mưu xảo quyệt gọi là “liên minh giữa
quân đội và nông dân”. Âm mưu này dùng viện trợ kinh tế để biến nông thôn thành
chỗ dựa của ngụy quyền, mua chuộc và lừa mị nông dân. Chúng đã tính từng đường
đi nước bước rất thâm độc: một là, chúng đưa máy móc vào nông thôn, bước đầu cơ
giới hóa một số khâu, đưa năng suất tăng lên. Hai là, khi sản lượng lúa gạo
tăng, chúng tìm mọi cách vơ vét, kể cả thủ đoạn mở những cuộc hành quân càn
quét cướp bóc, để phục dịch cho quân đánh thuê ngày càng phình to tới hàng triệu
người. Ba là, nhờ có cơ giới hóa nông nghiệp, chúng làm giảm đi một lực lượng
lao động lớn ở nông thôn và với chính sách đôn quân bắt lính, bổ sung nguồn
lính đánh thuê để kéo dài cuộc chiến tranh xâm lược...” (Sài Gòn Giải Phóng,
29-7-1977).
136 Sài Gòn Giải Phóng,
29-7-1977.
137 Sài Gòn Giải Phóng,
29-7-1977.
138 Biên bản giao ban
tối 10-9-1975 của Ủy Ban Quân quản, lưu trữ tại Thư viện Ban Nghiên cứu Lịch sử
Thành phố Hồ Chí Minh
139 Tài liệu đã dẫn.
140 Biên bản cuộc làm
việc giữa Thường vụ Trung ương Cục với Thành ủy Sài Gòn-Gia Định ngày 1-9-1975,
lưu trữ tại Thư viện Ban Nghiên cứu Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh.
141 Biên bản cuộc làm
việc giữa Thường vụ Trung ương Cục với Thành ủy Sài Gòn-Gia Định ngày 1-9-1975,
lưu trữ tại Thư viện Ban Nghiên cứu Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh.
142 Sài Gòn Giải Phóng,
12-9-1976.
143 Tuyên bố ngày
25-9-1976 của Chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
144 Theo Tuyên bố ngày
25-9-1976: “Xí nghiệp công tư hợp doanh là một xí nghiệp trước đây là của tư
nhân, nay do Nhà nước và người chủ cũ (hoặc người đại diện) của xí nghiệp cùng
nhau quản lý. Nhà nước giữ địa vị lãnh đạo; quyền lợi hợp pháp của các cổ phần
tư nhân được Nhà nước bảo hộ. Các quyền lợi cơ bản của công nhân, viên chức
trong xí nghiệp được nhà nước đảm bảo” (Phó thủ tướng Nguyễn Duy Trinh ký).
145 Danh mục các ngành
nghề những nhà tư sản và tư nhân được kinh doanh gồm: “Tư bản tư doanh được
khuyến khích, đầu tư vào các ngành khai thác, chế biến nông sản, lâm sản, hải
sản, thổ sản, các ngành công nghiệp, tiểu công nghiệp khác theo sự hướng dẫn
của Nhà nước”. Trong lĩnh vực nông nghiệp: “Tư bản tư doanh được tiếp tục kinh
doanh, khai thác các đồn điền, trồng cây công nghiệp, cây ăn trái, được duy trì
và mở rộng các cơ sở chăn nuôi gia súc, gia cầm, cơ sở nuôi cá… công nghiệp tập
trung, được tiếp tục kinh doanh các loại máy móc nông nghiệp, đào giếng, khoan
giếng, thi công các công trình nông nghiệp, thủy lợi”. Trong lĩnh vực xây dựng:
“Tư bản tư doanh được hướng dẫn kinh doanh khai thác và sản xuất các vật liệu
xây dựng, được duy trì chế độ nhà thầu tư nhân dưới sự quản lý của nhà nước”.
Trong lĩnh vực vận tải: “Ngoài các ngành đường sắt, đường biển viễn dương,
đường hàng không thuộc phạm vi độc quyền kinh doanh của Nhà nước, tư bản tư
doanh được kinh doanh trong các ngành vận tải đường sông, một phần đường ven
biển (thuyền, ca-nô) và đường bộ (ô tô chở khách, chở hàng hóa), dưới sự quản
lý và hướng dẫn của Nhà nước; được duy trì các xí nghiệp để đóng mới hoặc sửa
chữa phương tiện vận tải, hoặc nhận thầu làm cầu, đường phục vụ nhu cầu dân
sinh, kinh tế địa phương”. Trong lĩnh vực “thương nghiệp và dịch vụ phục vụ:
“Việc bảo đảm phân phối các mặt hàng thiết yếu và quan trọng cho đời sống của
nhân dân là do Nhà nước và các tổ chức quần chúng chịu trách nhiệm. Vì vậy phải
phát triển mạnh thương nghiệp quốc doanh và mạng lưới rộng rãi hợp tác xã mua
bán và các hình thức tổ chức khác của quần chúng để tham gia việc bán lẻ. Nhà
nước nắm toàn bộ nguyên liệu nhập khẩu, những nguyên liệu quan trọng trong nước
và hầu hết hàng hóa thiết yếu để có kế hoạch bảo đảm sản xuất và đời sống. Nhà
nước sẽ nắm hầu hết xuất nhập khẩu và cả bán buôn trong nước”. (Tóm tắt Tuyên
bố của Chính phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam về chính sách đối với công
thương nghiệp tư bản tư doanh ở miền Nam, ngày 25-9-1976, Phó Thủ tướng Nguyễn
Duy Trinh ký).
146 Sài Gòn Giải Phóng,
3-11-1976.
147 Sài Gòn Giải Phóng,
29-12-1976.
148 Thông báo ngày
27-12-1976 của Ủy ban Nhân dân Thành phố (Sài Gòn Giải Phóng, 29-12-1976).
149 Lịch sử Giao thông
Vận tải Đường bộ, Nhà Xuất bản Tổng cục Đường bộ, (?), trang 276-277.
150 Lịch sử Giao thông
Vận tải Việt Nam, Nhà Xuất bản Giao thông Vận tải, 2005, trang 606.
151 Cụ thể: Trưng mua
và mua, trưng thu và tịch thu 1.202 xe ô tô các loại; 58 tàu thuyền đường sông,
gồm tàu chở hàng, tàu chở khách và tàu kéo - số phương tiện vận tải này chủ yếu
thuộc người dân Sài Gòn và các tỉnh Hậu Giang, Kiên Giang…; Tịch thu ba tàu
biển, trưng mua 14 chiếc; Quốc hữu hóa hai đoàn hoa tiêu; Cho phép một số công
ty xây dựng tư nhân, các nhà thầu chịu cải tạo và chịu sự điều hành của nhà
nước; Trưng mua tài sản của một số công ty như: Công ty Huỳnh Như Hoa, các cổ
phần trong Công ty Nguyễn Văn Tấn, Công ty Lodisbagco; Tổ chức công ty hợp
doanh đối với Công ty Vinameco, Trần Dương và Trần Văn On (Lịch sử Giao thông
Vận tải Việt Nam, Nhà Xuất bản Giao thông Vận tải, 2005, trang 606-607). Tính
đến khi hoàn thành “công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam”, Chính quyền
đã: “Trưng mua, trưng thu được 3.287 xe ô tô loại 5T và 40 ghế hành khách trở
lên, hợp với các đoàn xe từ khu giải phóng, xe ngoài Bắc vào là 1.105 chiếc,
tổng cộng: 4.393 xe tổ chức thành 14 xí nghiệp quốc doanh… Nhà nước cải tạo và
xóa bỏ quyền sở hữu tư nhân về công cụ sản xuất được 14.059 xe tổ chức thành 45
xí nghiệp công tư hợp doanh vận tải ô tô… Tổng cộng cả trưng mua, trưng thu,
cải tạo được 17.346 xe loại trọng tải lớn tổ chức thành 59 xí nghiệp vận tải
quốc doanh và xí nghiệp vận tải công tư hợp doanh… Số xe vận tải nhỏ (từ 2,5T
và 25 ghế trở xuống) đã được cải tạo là 28.856 xe, tổ chức thành 281 Hợp tác
xã, ở hầu hết các quận, huyện, thị xã thuộc tỉnh hoặc thành phố…” (Lịch sử Giao
thông Vận tải Việt Nam, Nhà Xuất bản Giao thông Vận tải, 2005, trang 276-277.).
152 Trích Chuyện thời
bao cấp, Nhà Xuất bản Thông tấn, 2009, trang 53-54.
153 Cư trú tại 26C, ấp
4, xã Tân Kiên, Bình Chánh, Sài Gòn.
154 Trích Chuyện thời
bao cấp, Nhà Xuất bản Thông tấn 2009, trang 53.
155 Tương đương 100
lượng vàng.
156 Sđd, trang 53-54.
157 Sài Gòn Giải Phóng,
23-3-1978.
158 Sài Gòn Giải Phóng,
1-8-1977.
159 “Điều 1, Từ nay các
nhà tư sản thương nghiệp không được tiếp tục làm nghề buôn bán nữa và được nhà
nước khuyến khích giúp đỡ chuyển sang sản xuất. Điều 2, Khi nhận được lệnh đình
chỉ hoạt động kinh doanh thương nghiệp, các nhà tư sản thương nghiệp phải kê
khai theo bản mẫu quy định, cùng với tổ công tác của quận hoặc huyện, tiến hành
kiểm kê hàng hóa tồn kho, cơ sở, phương tiện kinh doanh của mình và làm bản
đăng ký chuyển sang sản xuất để đóng góp phần xây dựng đất nước. Điều 3, Sau
khi kiểm kê xong phải lập biên bản có chữ ký của cán bộ, nhân viên kiểm kê, đại
diện của Ủy ban nhân dân phường, xã và chủ hộ hoặc đại diện hộ. chủ hộ được giữ
1 bản. Điều 4, Cơ quan chủ quản, ngành, hàng thuộc sở thương nghiệp hoặc công
ty vậ tư tổng hợp thành phố có trách nhiệm trưng mua hoặc mua lại hàng tồn kho.
Cơ sở và phương tiện kinh doanh đã kiêm kê theo lệnh của chủ tịch Ủy ban nhân
dân TP, để đưa vào phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân. Điều 5, Những người
vi phạm các quy định trên đây, tùy theo đối tượng, tính chất và mức độ vi phạm,
sẽ bị xử lý về hành chính, kinh tế hoặc bị truy tố ra tòa án nhân dân theo luật
pháp hiện hành…” (Vũ Đình Liệu, Quyết định 341/QĐ- UB, SGGP, 23-3-1978).
160 Năm 1978 là Chủ
tịch Thành phố Hồ Chí Minh.
161 Trả lời phỏng vấn
tác giả ngày 4-12-2004.
162 Để mô tả tính
nguyên tắc của ông Đỗ Mười, đồng thời minh họa cho tính khắc nghiệt của thời
bao cấp, trước năm 1975, ở miền Bắc từng có giai thoại: “Một lần Đỗ Mười vào
cửa hàng ăn uống quốc doanh gọi một tô phở, khi cô mậu dịch bưng ra, ông ngồi
đếm từng miếng thịt, phát hiện có ăn bớt bèn cách chức ngay cửa hàng trưởng”.
Giữa thập niên 80, theo ông Lê Văn Triết: “Một lần ông Đỗ Mười ghé qua Long Hồ,
Vĩnh Long, thăm gia đình ông Phạm Hùng, người nhà ông Phạm Hùng ở quê biếu ông
Đỗ Mười 10kg gạo. Trên đường về Sài Gòn, xe của ông Đỗ Mười bị một trạm kiểm
soát địa phương chặn lại. Khám xe thấy có một bao gạo, bèn quyết định tịch thu.
Người lái xe bảo, đây là gạo của đồng chí Đỗ Mười. Viên trạm trưởng trả lời, Đỗ
Mười chứ Đỗ Mười Một cũng giữ”. Giai thoại kể thêm: “Đỗ Mười lập tức khen
thưởng người trưởng trạm”.
163 Sài Gòn Giải Phóng,
27-3-1978.
164 Sài Gòn Giải Phóng,
27-3-1978.
165 Theo Tống Văn Công,
Tổng Biên tập báo Công Nhân Giải Phóng, người tháp tùng chuyến đi của ông Mai
Chí Thọ.
166 Tin Sáng, 12-9-1978.
167 Tuổi Trẻ,
14-9-1975.
168 Tuổi Trẻ,
31-3-1978.
169 Nhật ký Lý Mỹ: “Chủ
nhật 7-3-76: Tại sao mình yếu đuối thế này? Qua cơn bệnh, lại bị gia đình rầy
rà, mình khổ tâm quá. Thôi, hay là mình xin ra khỏi Đoàn vậy, bởi vì mình cảm
thấy chưa xứng đáng là một đoàn viên khi gia đình mình vẫn còn sống trong cảnh
bóc lột. Nhưng như vậy mình xin vào Đoàn để làm gì, đọc Pa-ven để làm gì trong
khi chỉ một ít khó khăn trong gia đình thì mình lại chùn bước. Suy nghĩ như thế
thật tồi. Không, hãy ngẩng đầu lên, hãy kiên nhẫn vượt qua mọi khó khăn” (Tuổi
Trẻ, 31-3-1978).
170 Số 4 Duy Tân, Quận
I, Thành phố Hồ Chí Minh.
171 Trích nhật ký Lý Mỹ:
“Ngày 23-3-1978: Hơn 6 giờ chiều, đèn đường đã bật sáng cả con đường từ trường
đến nhà. Con đường hôm nay nom có vẻ khác lạ hơn những ngày khác. Có nhiều toán
thanh niên đang đóng chốt ở những cửa hàng lớn dọc trên con đường. Rồi đây cuộc
sống sẽ trở nên phong quang hơn, đời sống đồng bào sẽ trở nên dễ chịu hơn khi
những ung nhọt của một cơ thể đã được giải phẫu từ ngày hôm nay- ngày mở đầu
một cuộc đấu tranh lớn. Mỹ vui và phấn khởi khi nghe đồng chí Thường vụ Thành
đoàn tập huấn. Đây đúng là thời cơ để thuyết phục gia đình chuyển sang sản
xuất, thời điểm chấm dứt cuộc đấu tranh giữa hai con đường trong gia đình, một
thời điểm mà mình đã mong ước từ bấy lâu nay… Ngày 24-3-1978: “Mình nắm lấy
thời cơ nầy để tuyên truyền đường lối, chính sách cải tạo thương nghiệp tư sản
cho gia đình. Mình phải kiên trì thuyết phục cha mẹ, phải bám gia đình từng
giây, từng phút, giúp đỡ gia đình kê khai tài sản”. Ngày 24-3-1978 của Lý Mỹ
được báo Tuổi Trẻ tường thuật: Đi kèm bên mẹ, Mỹ luôn nhắc nhở mẹ nên kê khai
những món hàng gì, thỉnh thoảng động viên người mẹ đang buồn rầu, hoang mang
bởi những tin đồn thất thiệt. “Tịch thu tài sản rồi phải không? Mầy hãy lo lấy
thân mầy đi, còn ăn học gì nữa”. “Đâu có ai tịch thu tài sản của mình đâu má.
Mình kê khai đúng, đầy đủ, nhà nước sẽ trưng mua, với số vốn đó gia đình mình
chuyển sang cách làm ăn mới. Vấn đề là mình có thành thật kê khai không”. “Vậy
hả”. Rồi: Má Mỹ trở nên yên tâm hơn, sự bình tĩnh đã bắt đầu lộ rõ trên gương
mặt. Trong lúc đó, Mỹ liến thoắng: “Tư trang, tư liệu sinh hoạt phải viết vào
mục nào hả đồng chí?”. Miệng nói, tay viết, mà mắt Mỹ vẫn liếc vào những chiếc
tủ đựng đầy ắp những món hàng để xem chừng mình đã khai đầy đủ chưa. Bây giờ,
Mỹ đã trở thành một người chủ quản của gia đình. Mỹ thấy tự hào và sung sướng
lạ. (Tuổi Trẻ, 31-3-1978).
172 Số ra ngày 8-4-1978.
173 Xí nghiệp “Bình
Minh 9”.
174 Trong giai đoạn
1975-1980, Chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh đã đưa hơn 832 nghìn người hồi
hương hoặc đi kinh tế mới ở các tỉnh từ miền Tây, miền Đông Nam Bộ cho tới Tây
Nguyên. 90% số này rời khỏi Thành phố trong giai đoạn 1975-1980, thời gian tư
sản bị cải tạo và chính sách sổ gạo bắt đầu được thắt chặt. Bằng những quyết
định hành chánh ấy, dân số Sài Gòn đã giảm từ 3,391 triệu người năm 1976 xuống
còn 3,201 triệu người năm 1980. 7% lượng người nhập cư mới có nơi sinh là Sài
Gòn, họ là những người từng bị đưa đi kinh tế mới trong thời kỳ 1975-1980. Cho
đến cuối thập niên 1990, vẫn còn 24% số người không có hộ khẩu thường trú tại
Thành phố Hồ Chí Minh vốn là người Sài Gòn-Gia Định. Họ là nạn nhân của chính
sách kinh tế mới trong giai đoạn 1975-1980.
175 Sài Gòn Giải Phóng,
10-4-1978.
176 Sài Gòn Giải Phóng,
13-4-1978.
177 Sài Gòn Giải Phóng,
18-4-1978.
178 Phó chủ tịch Ủy ban
Nhân dân Thành phố Lê Thành Nhơn phát biểu trước lễ tiễn 200 nhà tư sản thương
nghiệp đăng ký đi kinh tế mới Gia Lành, Lâm Đồng, sáng 18-4-1978- SGGP
19-4-1978.
179 Tuổi Trẻ, 23-6-1978.
180 Trả lời phỏng vấn
tác giả ngày 4-12-2004.
181 Đào Duy Tùng, 2008,
trang 216-217-218.
182 Chỉ thị 147, năm
1977, của Thủ tướng Chính phủ.
183 Sài Gòn Giải Phóng,
14-7-1977.
Nguồn:
bodoilambao
Được bạn: mọt sách đưa lên
vào ngày: 4 tháng 1 năm 2013
Được bạn: mọt sách đưa lên
vào ngày: 4 tháng 1 năm 2013
No comments:
Post a Comment