Trùng Dương
Thứ
Sáu, ngày 07 tháng 10 năm 2016
Lời
giới thiệu:
Cuối
tháng 4 vừa qua một Hội nghị Thượng
đỉnh về Chiến tranh Việt Nam (The Vietnam War Summit) đã được tổ chức tại
Thư viện Tổng thống Lyndon Baines Johnson ở Austin, Texas, kéo dài ba ngày, từ
26 đến 28. Vì là “thượng đỉnh” nên chương trình nghị hội gồm 10 chủ đề, hơn 60
diễn giả, với ba cuộc triển lãm, bên cạnh phần trưng bầy Bức Tường Hoà Giải
(The Wall That Heals), phó bản thu nhỏ của bức The Vietnam Veterans Memorial tại
Washington, D.C., và phần giới thiệu bẩy cuốn sách. Theo ký giả Triều Giang, chủ
tịch Hội Bảo tồn Lịch sử và Văn hoá Người Mỹ gốc Việt (Vietnamese American
Heritage Association) trụ sở đặt tại Austin, và là người đã tham dự suốt ba
ngày hội, ngoài số diễn giả đông đảo, người tham dự phải có vé mới được phép
vào nghe, mà vé thì đã mau chóng bán hết. Nhiều người tại Austin, nơi chương
trình “thượng đỉnh” diễn ra, được mời đã từ chối vì cho là nghị hội có khuynh
hướng khuynh tả, một dịp cho phe phản chiến bộc bạch tâm tình hơn là chủ ý đi
tìm sự thật. Điểm qua danh sách tham dự viên và các đề tài thảo luận tại
Web site của hội nghị, như thường lệ là sự vắng mặt của đại diện của đồng minh
của Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng Hoà; và dưới chủ đề After the War, không thấy đề cập
tới hàng triệu người Việt miền Nam nạn nhân của cuộc chiến, như thể họ không hề
hiện hữu và can dự. Hy vọng “dọi một tia sáng có thẩm quyền vào cuộc chiến,
[và] những bài học và di sản của nó,” do đấy, đã chỉ là một mục tiêu thiếu sót,
bất quân bình.
Không
khua chiêng gõ trống kiểu “thượng đỉnh” là việc chuẩn bị song song cho một
chương trình hội thảo của một số giáo sư đại học Hoa Kỳ và Canada, trong đó có
một số giáo sư trẻ gốc Việt. Cuộc hội thảo, có tên là “Nation-Building in War: The Experience of Republican Vietnam,
1955-1975,” cũng trong bối cảnh cuộc chiến tại Miền Nam, nhưng đặt trọng
tâm vào các khía cạnh tích cực đã từng bị giới truyền thông và học giả Mỹ bỏ
quên hay bỏ qua, điển hình là qua nội dung của Hội nghị Thượng đỉnh ở Austin.
“Các cuộc
nghiên cứu về đề tài [cuộc nội chiến giữa Bắc và Nam Việt Nam và Cuộc Chiến
tranh Lạnh giữa các siêu cường] phần lớn tập trung vào bối cảnh rộng hơn về
quân sự trong khi bỏ qua công trình xây dựng quốc gia thực hiện bởi người Việt
Miền Nam,” theo bản thông báo phổ biến gần đây của ban tổ chức. “Thực tế, khá
nhiều sự việc đã diễn ra trong phạm vi chính trị, xã hội, văn hoá, và kinh tế
hơn là quân sự. Một thiên kiến nữa của các công trình nghiên cứu này là nỗi ám ảnh
bởi sự can thiệp từ bên ngoài và do đấy là sự lơ là đối với phiá Việt [Miền]
Nam. Trong khi Hoa Kỳ giữ một vai trò then chốt trong khả năng đứng vững của Miền
Nam như một thực thể độc lập, những nỗ lực của Nam Việt Nam đã không được đánh
giá đúng mức.”
Cuộc hội
thảo nhằm rút tỉa những bài học tích cực về công trình kiến quốc trong thời chiến
này sẽ diễn ra vào hai ngày 17 và 18 tháng 10 tới tại trường University of
California ở Berkeley, nơi mệnh danh là “cái nôi” của phong trào phản chiến đối
với cuộc chiến đang diễn ra tại Việt Nam vào thập niên 1960.
Nhằm
tìm hiểu thêm, người viết tiếp xúc với Giáo sư Vũ Tường, giám đốc Chương trình
Nghiên cứu Á châu thuộc Phân khoa Chính trị học tại Đại học Oregon, Eugene, và
là một trong những người đứng ra tổ chức chương trình hội thảo. Sau đây là buổi
chuyện trò với Giáo Sư Tường. Mời độc giả theo dõi. – TD
*
*
Chuyện trò với Giáo sư Vũ Tường
Giáo Sư Vũ Tường tại buổi hội thảo chuyên đề “Asia's
Changing Security Environment and the Dilemmas for Vietnam and Southeast Asia,”
tổ chức tại Ritsumeikan
Center for Asia Pacific Studies, Asia Pacific University, Japan, June 2016. (Ảnh
APU)
Trùng
Dương: Xin
chào Giáo sư Vũ Tường. Trước hết, xin giáo sư vui lòng cho biết qua về thân thế?
Sinh ra và lớn lên tại đâu? Học tiểu học và trung học tại đâu? Giáo sư sang định
cư tại Hoa Kỳ năm nào, theo diện gì? Theo học đại học nào, ngành gì? Tại sao chọn
ngành học đó? Hiện giữ chức vụ gì?
Giáo
sư Vũ Tường: Tôi
sinh ra và lớn lên ở Sài Gòn và sang Mỹ năm 1990 theo chương trình “HO” (Ba tôi
ở tù “cải tạo” gần tám năm). Học “Đại học Tổng Hợp” ở Sài Gòn khoa Anh trước
khi sang Mỹ. Sau đó học thêm ngành chính trị học ở Đại học Minnesota, cao học ở
Đại học Princeton, và tiến sĩ cùng ngành ở Đại học California, Berkeley. Tôi chọn
ngành chính trị học vì thấy đây là một lãnh vực cực kỳ lý thú và ở Việt Nam
chưa từng nghe đến. Hiện tôi là giáo sư khoa Chính trị học và giám đốc chương
trình Á châu học của Đại học Oregon (University of Oregon).
Trùng
Dương: Động
lực nào đã khiến giáo sư và các bạn đồng nghiệp đứng ra tổ chức cuộc hội thảo
này, và lại tại chính nơi vào thập niên 1960 đã được mệnh danh là “cái nôi” của
phong trào phản chiến Mỹ – đây là một sự cố ý hay tình cờ?
Giáo
sư Vũ Tường: Tôi
nghiên cứu về chính trị và chiến tranh Việt Nam và đang in một công trình
nghiên cứu tựa đề “Cách mạng Cộng sản ở Việt nam: Quyền năng và giới hạn của ý
thức hệ” (Vietnam’s Communist Revolution: The Power and Limits of Ideology).
Trong quá trình nghiên cứu đó, tôi cảm nhận giới học giả thế giới hiểu rất ít
và thiên lệch về Việt Nam Cộng Hòa. Họ có xu hướng nhấn mạnh tính lệ thuộc ngoại
bang và những vấn đề khó khăn của nó như tham nhũng và không dân chủ. Những điều
này không sai, nhưng sẽ rất thô thiển nếu chỉ biết những điều này. Không khó để
chỉ ra lý do của xu hướng trên: tư tưởng bài Mỹ và chống đế quốc của nhiều học
giả khuynh tả, phong trào phản chiến ủng hộ Hà nội rất thịnh hành ở các trường
đại học phương Tây trong chiến tranh Việt Nam, tâm lý xu phụ kẻ thắng trận và
dè bỉu người thua trận của đám đông, sự tự do và cởi mở của xã hội miền Nam (do
bị áp lực của đồng minh hay do bản chất chế độ) cho phép các yếu kém được phơi
bày khá trần trụi (so với bức màn sắt ở miền Bắc), v.v… Những lý do trên làm
cho một thời kỳ lịch sử của Việt Nam bị che dấu trong khi nó có thể có nhiều
bài học có giá trị cho người Việt vào lúc này, khi họ muốn từ bỏ chế độ cộng sản.
Trong
môi trường tự do học thuật, ở đâu có những hạn chế về tri thức, ở đó có những nỗ
lực tìm tòi khám phá để đẩy rộng biên giới của sự hiểu biết. Trong nhiều thập kỷ,
việc nghiên cứu về VNCH bị giới hạn vì chính trị và những khó khăn khác. Ngày
nay điều kiện đã cởi mở hơn, cho phép các học giả trẻ không vướng mắc định kiến
và do đấy có những khám phá mới. Ở Mỹ, giáo sư Keith Taylor của Đại học Cornell
đã tổ chức thành công một Hội thảo về VNCH năm 2012. Mặc dù tôi chỉ đóng vai
trò người tham dự, Hội thảo Cornell đã giúp tôi tạo lập mối quan hệ với một số
nhân vật lãnh đạo của VNCH và khuyến khích tôi tổ chức một cuộc gặp mặt tương tự.
Lý do tại
sao tổ chức ở Berkeley: Mặc dù Berkeley nổi tiếng là trung tâm phản chiến thời
chiến tranh Việt Nam, trường Đại học Berkeley đã thay đổi nhiều. Các thế hệ thứ
hai trong cộng đồng người Mỹ gốc Việt có mặt ở đây rất đông. Giáo sư Peter
Zinoman ở Berkeley là một sử gia hàng đầu về Việt nam; ông là người đã đóng vai
trò rất lớn trong thập niên vừa qua trong việc đào tạo và hướng dẫn những sinh
viên tiến sĩ nghiên cứu về Việt nam. Giáo sư Zinoman lớn lên sau chiến tranh
như tôi, và ông ta không bị các định kiến của giới học giả phản chiến chi phối.
Ông là một trong những giáo sư tôi gặp đầu tiên ở Berkeley, và tôi đã lấy lớp của
ông cũng như được ông huấn luyện cách nghiên cứu của sử học (chuyên môn của tôi
là khoa học chính trị, không phải sử). Việc tổ chức Hội thảo này chỉ là một phần
nhỏ trong những quan hệ hợp tác giữa hai chúng tôi. Những lý do khác là
Berkeley có khả năng đóng góp về tài chính, Hội thảo có ích cho những sinh viên
của giáo sư Zinoman nghiên cứu về VNCH, và địa điểm ở California đơn giản và ít
tốn kém cho việc đi lại của đa số diễn giả của VNCH.
Trùng
Dương: Về
Hội thảo tại Berkeley tới đây, xin giáo sư cho biết mục đích, nội dung và dự kiến
về những thành quả hy vọng đạt được qua hai ngày hội thảo là những gì? Giáo sư
có gặp những trở ngại gì trong việc phối hợp tổ chức?
Giáo
sư Vũ Tường: Hội
thảo nhằm mục đích tìm hiểu thêm về kinh nghiệm xây dựng quốc gia dưới thời Đệ
nhất và Đệ nhị Cộng Hòa ở miền Nam Việt nam, cả những ưu điểm và những yếu kém,
thành công hay thất bại. Tôi tin rằng Hội thảo sẽ giúp mở rộng hiểu biết về
VNCH mà hiện nay còn rất hạn hẹp và thiên lệch như tôi đã nói ở trên. Hội thảo
cũng có thể gợi ra vài bài học bổ ích cho việc xây dựng một thể chế dân chủ,
kinh tế tư nhân phát triển, và xã hội tự do ở Việt nam vào thời điểm này và
trong tương lai. Đường hướng phát triển này đã hiện hữu trong cơ cấu chính trị,
kinh tế, và xã hội của VNCH, nhưng bị khuynh đảo bởi cuộc chiến tàn bạo và bị
chôn vùi trong bốn thập niên qua sau khi đất nước thống nhất bởi những người Cộng
sản. Mục đích của Hội thảo trước nhất là vì học thuật. Chúng tôi không có mục
đích chính trị, không phục vụ ý đồ của bất kỳ phe nhóm chính trị nào trong cộng
đồng người Việt ở hải ngoại, càng không nhằm phê phán, tôn vinh, hay khôi phục
chế độ VNCH.
Hội thảo
gồm bẩy nhóm bài viết: năm nhóm bài viết của các nhân vật lịch sử thời VNCH và
hai nhóm bài viết của các học giả nghiên cứu về giai đoạn đó. Trong số các nhân
vật lịch sử, có các bộ trưởng, chính khách đối lập, sĩ quan cao cấp, văn nghệ
sĩ, và các nhà giáo dục. Các vị này sẽ trình bày dựa trên kinh nghiệm bản thân
và công tác của họ về chính sách của chính quyền, các hoạt động và phong trào
chính trị, quân sự, văn hóa, nghệ thuật, và giáo dục. Những bài viết của học giả
dựa trên nghiên cứu những tài liệu lưu trữ và phỏng vấn.
Trong
khi tổ chức Hội thảo, chúng tôi được sự ủng hộ nhiệt tình của Giáo sư Zinoman
và Tiến sĩ Sarah Maxim (bà là Phó Giám đốc Trung Tâm Nghiên Cứu Đông Nam Á của
Berkeley), và sự tin cậy cũng như ủng hộ của rất nhiều nhân vật lịch sử của
VNCH. Nếu không có sự nhiệt tình giúp đỡ, giới thiệu, vận động, và đóng góp kiến
thức, thời gian, và tài chính của các ông Nguyễn Đức Cường, Hoàng Đức Nhã, Trần
Văn Minh, Phan Công Tâm, Trần Văn Sơn (đã quá vãng năm ngoái) và những cộng sự
của họ, Hội thảo sẽ không thể ra đời.
Trở ngại
chính là số nhân vật lịch sử thời VNCH không còn nhiều, phần lớn sức khỏe yếu do
tuổi tác cao và tù đày nhiều năm dưới chế độ cộng sản, nhiều người e ngại nói
trước công chúng nhất là bằng tiếng Anh, và cũng có vài vị nghi ngờ thiện chí của
chúng tôi. Hai tháng trước ngày Hội thảo, hai nhân vật lịch sử đã nhận lời tham
gia nhưng, tiếc thay, đột ngột quá vãng do tuổi cao và bệnh tật. Đó là Giáo sư
Nguyễn Thanh Liêm, cựu Thứ trưởng Giáo dục, và ông Võ Long Triều, cựu Bộ Trưởng
Thanh Niên và chủ nhiệm báo Đại Dân Tộc cũng như chính khách đối lập.
Trùng
Dương: Được
biết thành phần diễn giả gồm hai loại, một là các học giả/giáo sư đại học, họ gồm
những ai và các đề tài tham khảo là gì?
Giáo
sư Vũ Tường: Các
học giả bao gồm ba người là giáo sư Đại học, một nghiên cứu sinh hậu tiến sĩ,
và bốn nghiên cứu sinh tiến sĩ. Phần lớn họ đến từ các trường đại học lớn của Mỹ
(Berkeley, Cornell, Dartmouth, Columbia). Có một người đến từ Canada. Có hai
người gốc Việt. Đề tài của họ bao gồm chính trị, kinh tế và xã hội dân sự dưới
thời VNCH. Ngoài diễn giả ra, có ba người trong Ban Tổ chức cũng là gốc Việt.
Đặc biệt
trong ngày thứ hai của Hội thảo vào giờ ăn trưa có buổi ra mắt sách mới của
Giáo sư Nathalie Huỳnh Châu Nguyễn từ Đại học Monash của Úc đến. Giáo Sư Nguyễn
là người Úc gốc Việt và tác giả của nhiều tác phẩm nghiên cứu về cộng đồng người
Việt hải ngoại. Tác phẩm mới nhất của bà sẽ được giới thiệu tại Hội thảo là
“Quân nhân miền Nam Việt nam: Ký ức về chiến tranh Việt nam và thời hậu chiến”
(South Vietnamese Soldiers: Memories of the Vietnam War and After).
Trùng
Dương: Được
biết nhóm diễn giả thứ hai gồm những vị đã từng sinh hoạt, do đấy đã đóng vai
trò nhân chứng, trong các cơ quan chính quyền Việt Nam Cộng Hoà thuộc các ngành
hành pháp, lập pháp, tư pháp, và quân đội, và trong các ngành nghề liên quan đến
kinh tế, giáo dục, văn hoá, và văn học, kể cả truyền thông, và nghệ thuật.
Xin giáo sư cho biết thành phần thuyết trình viên này gồm những ai, và đề tài
thuyết trình của họ là những gì?
Giáo
sư Vũ Tường: Các
thuyết trình viên của nhóm sau này gồm các diễn giả, nói về các đề tài chính trị,
quân sự, kinh tế, kể cả nông nghiệp, thì có: Luật sư Lâm Lễ Trinh, cựu Bộ trưởng
Nội vụ thời Đệ nhất Cộng Hòa, sẽ nói qua hệ thống Skype, về “Tổng thống Ngô
Đình Diệm và Đệ nhất Cộng Hoà (1954-1963); Ông Hoàng Đức Nhã, cựu Bộ trưởng Bộ
Dân vận và Chiêu hồi, về “Nỗ lực hướng tới một nền hoà bình vững bền để tiếp tục
kiến quốc: Thỏa hiệp Hoà bình tại Việt Nam và Hậu quả”; Giáo sư Vũ Quốc Thúc
bàn về “Sự Ra đời của Hệ thống Ngân hàng Trung Ương,” cũng qua Skype, từ Pháp;
Luật sư Cao Văn Thân, cựu Bộ trưởng Bộ Cải cách và Phát triển Nông nghiệp thời
Đệ nhị Cộng Hoà, thuyết trình về “Cải cách Ruộng đất, Phát triển Nông thôn và
Nông Nghiệp”; Ông Phạm Kim Ngọc, cựu Bộ trưởng kinh tế thời Đệ nhị Cộng Hoà,
bàn về “Cải cách hoặc Tan rã”; và Ông Nguyễn Đức Cường, cựu Bộ trưởng Thương mại
và Kỹ nghệ, nói về “Nền móng của Tự lực và Phát triển.” Về quân sự, có cựu Đại
tá Trần Minh Công, chỉ huy trưởng Học Viện Cảnh sát Quốc gia nói về những thách
thức đối với ngành Cảnh sát dưới một chế độ có định hướng dân chủ và trong thời
chiến; và cựu Trung tá Bùi Quyền, Lữ Đoàn phó Lữ Đoàn 3 Nhảy Dù, trình bày cách
nhìn của ông đối với cuộc chiến với tư cách một sĩ quan vào sinh ra tử ngoài mặt
trận.
Riêng về
các đề tài văn hoá, giáo dục, và văn học nghệ thuật thì có nữ Tiến sĩ Võ Kim Sơn,
nguyên giảng sư Đại học Sư Phạm Saigòn, nói về “Việc điều hành hệ thống giáo dục
công lập tại Nam Việt Nam”; Tiến sĩ Nguyễn Hữu Phước, nguyên Viện trưởng
Phân khoa Đào tạo Giáo viên Tiểu học tại Saigon, đóng góp về đề tài “Triết lý
Giáo dục và Phát triển Hệ thống Trường Kiểu mẫu của Việt Nam Cộng Hoà”; Nhà báo
Phạm Trần, với trên 50 năm kinh nghiệm trong báo giới từ cả trước và sau 1975,
nói về đề tài “Sống và làm việc trong vai trò ký giả dưới chế độ Việt Nam Cộng
Hoà”; Nhà báo Vũ Thanh Thủy, cựu phóng viên chiến trường trước 1975 và hiện là
giám đốc Đài Phát thanh Saigon Houston, nói về “Chiến tranh Việt Nam qua cái
Nhìn của các Phóng viên Chiến trường người Việt”; Ông Huỳnh Văn Lang, giám đốc
Viện Hối Đoái và bí thư Liên kỳ bộ Nam Bắc Đảng Cần Lao Nhân Vị thời Đệ nhất Cộng
Hoà, sáng lập viên Hội Văn hoá Bình dân và tạo chí Bách Khoa, và là một nhà
kinh doanh thành công thời Đệ nhị Cộng Hoà, qua Skype, nói về “Xã hội của Những
Kẻ Tự nguyện Lưu vong Muôn thuở”; Nhà văn Nhã Ca, tác giả của nhiều cuốn tiểu
thuyết và đặc biệt cuốn hồi ký lịch sử “Giải Khăn Sô Cho Huế,” mà ấn bản Anh ngữ
do Bà Olga Dror dịch được phát hành cách đây hai năm, kể về kinh nghiệm viết
văn tại Miền Nam; và cuối cùng, nữ diễn viên Kiều Chinh trình bầy về “Nghệ thuật
Điện ảnh Việt Nam Cộng Hoà, 1954-1975.”
Trùng
Dương: Được
biết trong nhóm thuyết trình viên thứ hai vừa kể trên có ông Võ Long Triều vừa
mới ra đi. Xin thành thật chia buồn cùng gia quyến của ông Triều và với riêng
ban tổ chức hội thảo về sự ra đi bất ngờ này. Xin giáo sư cho biết qua về thân
thế và đề tài mà ông Triều sẽ thuyết trình và ban tổ chức có định cho người
trình bầy đại ý nội dung phần nói chuyện này của người quá cố?
Giáo
sư Vũ Tường: Ông
Võ Long Triều là người Bến Tre du học ở Pháp trong thập niên 1950 và tốt nghiệp
ngành kỹ sư canh nông tại Đại học Paris-Grignon. Sau khi về nước, ông Triều làm
việc ở Bộ Cải tiến Nông thôn và dạy học ở trường Cao đẳng Nông Lâm Súc Sài Gòn.
Ông nhận chức Bộ trưởng Thanh niên và Thể thao trong Nội các chiến tranh của tướng
Nguyễn Cao Kỳ năm 1966, nhưng từ chức một năm sau để phản đối việc lạm quyền của
tướng Cảnh sát Nguyễn Ngọc Loan. Ông bị động viên nhập ngũ sau đó và tốt nghiệp
trường Sĩ quan Bộ binh Thủ Đức. Mặc dù chịu nhiều cản trở từ phía chính quyền,
ông được bầu làm Dân biểu Quốc Hội của tỉnh Bến Tre khóa 1971-1975. Ông sáng lập,
điều hành, và phụ trách mục bình luận trên nhật báo Đại Dân Tộc để tranh đấu
cho lập trường chính trị của ông. Ông đi tù 11 năm dưới chế độ cộng sản, sau đó
đi định cư ở Pháp và Mỹ. Ông tiếp tục hoạt động mạnh trên lãnh vực truyền thông
ở hải ngoại trước khi qua đời vào tháng trước do bệnh tật.
Ban Tổ
chức Hội thảo yêu cầu ông Triều trình bày về hai vấn đề. Một là phân tích đánh
giá nền dân chủ đa nguyên của Đệ nhị Cộng Hòa qua kinh nghiệm dân biểu đối lập
và chủ báo Đại Dân Tộc — cụ thể là những tiến bộ và hạn chế, cũng như lý do của
hạn chế; vai trò và tổ chức của đối lập chính trị thời Đệ Nhị Cộng Hòa; và bài
học để xây dựng Việt nam dân chủ trong tương lai. Hai là phân tích, đánh giá khả
năng và hạn chế của chính quyền VNCH từ thời chuyển tiếp (1963-67) cho đến Đệ
Nhị Cộng Hòa (1967-75) — bao gồm khả năng kiểm soát và cai quản quốc gia về các
mặt quân sự, kinh tế, chính trị, lý do thiếu khả năng hay có tham nhũng, lý do
của thành tựu và yếu kém. Tiếc là ông Triều không còn nữa, và bài viết của ông
hãy còn dở dang không thể đưa ra trình bày.
Trùng
Dương: Thế
còn Giáo sư Nguyễn Thanh Liêm cũng vừa qua đời – Xin thành kính phân ưu cùng
gia đình GS về mất mát lớn lao này. Xin Giáo sư Tường cho biết về GS Liêm và phần
thuyết trình của ông được không ạ?
Giáo
sư Vũ Tường: Giáo
sư Nguyễn Thanh Liêm sinh ở Mỹ Tho, tốt nghiệp Tiến sĩ Giáo dục ở Đại học Iowa
State University, là cựu hiệu trưởng trường Petrus Ký và thứ trưởng Bộ Văn Hóa,
Giáo dục và Thanh Niên dưới thời Đệ nhị Cộng Hòa. Chúng tôi đặt hàng ông viết về
sự phát triển và quan điểm chi phối việc tổ chức giáo dục đại học và chuyên
nghiệp dưới thời Đệ nhị Cộng Hòa, bao gồm: triết lý giáo dục, tổ chức đào tạo,
quản trị đại học, ảnh hưởng của Pháp và Mỹ, những nỗ lực cải cách nếu có, sự
phát triển của khu vực tư và khu vực công trong giáo dục và quan hệ giữa hai
khu vực, và bài học cho tương lai. Trước khi mất, Giáo sư Liêm giới thiệu Tiến
sĩ Võ Kim Sơn và Tiến sĩ Nguyễn Hữu Phước thay ông phụ trách bài viết về lãnh vực
giáo dục.
Trùng
Dương: Trong
thông báo về cuộc hội thảo này, ban tổ chức có nói là hy vọng thu thập tài liệu
và phân tích những nỗ lực của Miền Nam về cả quân sự lẫn những khía cạnh khác của
công trình xây dựng đất nước, đồng thời giúp cho giới học giả hiểu biết về các
kinh nghiệm kiến quốc trong thời chiến, không chỉ ở Việt Nam và với sự trợ giúp
từ bên ngoài. Ngoài ra, đáng kể hơn cả là việc ban tổ chức nhấn mạnh là, “Một
cách đáng kể là kinh nghiệm thời Cộng Hoà về chính trị, kinh tế xã hội, và một
sự phát triển văn hoá sinh động rất phùng thời cho Việt Nam hôm nay khi người
dân trong nước đã bác bỏ Chủ nghĩa Cộng sản nhưng còn đang cố gắng xây dựng một
chính quyền dân chủ, một xã hội công bằng, một nền văn hoá sinh động và một nền
kinh tế phồn thịnh dựa trên nền tảng tư doanh.” Xin giáo sư khai triển thêm: có
phải giáo sư đang nhìn thấy những đổi thay chính trị không thể không xẩy ra ở
Việt Nam trong một tương lai gần, đặc biệt trong bối cảnh thảm họa môi trường
đang diễn ra từ mấy tháng nay với vụ cá chết, biển độc, dân chài mất nguồn sinh
sống, và dân chúng biểu tình khắp nơi, đặc biệt tại Miền Trung là nơi chịu nạn
nặng hơn cả?
Giáo
sư Vũ Tường: Ở
Việt nam hiện nay, tôi cho rằng thay đổi chính trị theo chiều hướng dân chủ hóa
là không thể tránh khỏi. Giới trí thức và rất đông dân chúng ủng hộ việc này,
và càng ngày phong trào càng mạnh. Vấn đề là khi nào sẽ chuyển hóa (trong vòng
năm năm hay lâu hơn), và theo kiểu nào (ít hay nhiều bạo lực, thay đổi tạo động
lực chuyển biến nhanh hay phải qua nhiều trắc trở). Câu trả lời dĩ nhiên tùy
thuộc vào người trong cuộc và một phần vào tình hình quốc tế.
Trùng
Dương: Cũng
trong giòng suy nghĩ trên, gần đây có hiện tượng đáng chú ý, đó là việc một số
người trẻ trong nước có khuynh hướng vọng tưởng về thời Việt Nam Cộng Hòa với
nhiều tiếc nuối. Có người tự xưng là hậu duệ của VNCH. Có người ngang nhiên
treo cờ vàng ba gạch đỏ của thời VNCH trước nhà, như trường hợp của cậu Nguyễn
Viết Dũng (đã đi tù về tội “phá rối trật tự” khi đi biểu tình chống đốn cây
xanh ở Hà Nội và bị bắt), hoặc như cô Hồng Thái bất chấp hậu quả công khai lên
YouTube bầy tỏ niềm tiếc nuối về một thời Cộng Hoà nhân bản và khai phóng mà thế
hệ của cô đã không được hưởng. Trên YouTube ta được thấy một số clip thu
hình các em vào Nghĩa trang Biên Hoà thắp nhang nến khấn vái với các anh linh của
tử sĩ VNCH. Gần đây tôi được đọc một tài liệu dài trên một trang Web, có lẽ là
của một người trong nước, viết về nền giáo dục dưới thời VNCH, với tựa đề mà
thú thật tôi đọc không khỏi thấy sót xa: “Nhìn lại nền Giáo dục VNCH: Sự tiếc
nuối vô bờ bến.” Thực ra thì nhiều người trẻ sinh sau 1975 và lớn lên trong
lòng chế độ cộng sản đã từ lâu tìm đọc sách vở VNCH và biết tới những công
trình văn hoá nghệ thuật của giai đoạn này. Tôi nhớ có một lần trao đổi e-mail
với một em trong nước, hỏi tại sao cậu ta lại quan tâm tới văn học của thời Cộng
Hoà thì cậu cho trả lời rất ngắn gọn, “Vì ở đó có sự thật.” Xin phép đã nói lan
man …
Trở
lại đề tài kiến quốc, theo giáo sư công trình cấp thiết nhất trong việc xây dựng
đất nước là gì? Giáo sư đã có những suy tư gì có thể chia sẻ được với độc giả?
Giáo
sư Vũ Tường: Một
quốc gia tồn tại trong 20 năm với đầy đủ chính quyền và được công nhận bởi hàng
chục nước khác dĩ nhiên phải để lại di sản nào đó. Có thể là di sản vật chất,
ví dụ như Dinh Độc Lập hay Xa lộ Biên Hòa. Có thể là di sản tinh thần, ví dụ
như thơ Bùi Giáng, nhạc Phạm Duy, hay tiểu thuyết Bình Nguyên Lộc. Có những di
sản tinh thần khó thấy hơn, ví dụ thái độ yêu tự do, tinh thần trọng tri thức
và tranh luận, tâm lý cởi mở với thế giới bên ngoài, thói quen lễ phép của trẻ
em, hay tư duy mạo hiểm của nhà sản xuất kinh doanh.
Không
phải di sản nào cũng hay và tốt: đâu phải bản nhạc nào của Phạm Duy cũng hay?
Cũng không phải mọi di sản tồn tại bất biến với thời gian: những di sản vật chất
sẽ bị hủy hoại dần dần, và nhiều di sản tinh thần có thể chỉ còn trong ký ức những
người lớn tuổi. Nhận diện và đánh giá những di sản của VNCH là việc làm có giá
trị: trước mắt là về mặt lịch sử, sau đó là những bài học cụ thể (cả bài học tốt
lẫn xấu) trong xây dựng dân chủ (ví dụ Hiến pháp Đệ nhị Cộng Hòa và cơ chế lưỡng
viện), trong phát triển kinh tế (ví dụ chính sách phát triển nông thôn), và
trong việc tổ chức một xã hội tự do phóng khoáng (ví dụ nền báo chí tư nhân hay
các hiệp hội chuyên môn).
Tôi
nghiên cứu về chính trị, và dĩ nhiên có xu hướng xem chính trị có vai trò chủ
chốt. Theo tôi, việc cấp thiết nhất với Việt nam hiện nay là cải tổ chính trị
sâu sắc và rộng lớn theo hướng dân chủ hóa. Giải quyết được điều này có thể giải
phóng được rất lớn trí tuệ và năng lực người Việt Nam. Nếu sợ dân chủ sẽ dẫn đến
hỗn loạn, hãy có lộ trình, nhưng không được lấy cớ hỗn loạn để trì hoãn. Bi
(hài) kịch là nhiều vị lãnh đạo Việt nam tự đắc là chính quyền của họ dân chủ
nhất thế giới. Nếu thế thì còn gì để nói nữa?
Trùng
Dương: Như
Giáo sư đã nói qua ở trên thì đây không phải là cuộc hội thảo đầu tiên về kinh
nghiệm kiến quốc của VNCH? Giáo sư và các bạn đồng nghiệp đã từng tổ chức một
cuộc hội thảo tương tự nhưng thu hẹp hơn vào khuôn khổ thời Đệ nhị Cộng Hoà từ
1967 tới 1975 tại Đại học Cornell vào năm 2012? Xin giáo sư cho biết về cuộc hội
thảo này? Chủ đề là gì? Nội dung gồm những gì? Thành phần tham dự gồm những ai?
Thành quả ra sao? Phản ứng của giới học giả về những gì thu thập được từ cuộc hội
thảo này thế nào? Ai muốn tìm hiểu và tham khảo các tài liệu đã thu thập được từ
cuộc hội thảo này thì phải làm gì?
Giáo
sư Vũ Tường: Hội
thảo ở Cornell năm 2012 nhằm mục đích tạo cơ hội cho những nhân vật lãnh đạo và
giới tinh hoa của VNCH có dịp nói lên quan điểm của họ mà trước nay người Mỹ ít
được nghe. Trong Hội thảo đó, có phần trình bày của những vị như cựu Đại sứ Bùi
Diễm, cựu Trung tướng Lữ Lan, Thẩm phán Phan Quang Tuệ, ông Trang Sĩ Tấn, ông
Trần Văn Sơn, ông Hoàng Đức Nhã, v.v… Hội thảo chỉ chuyên về chính trị và quân
sự nên không có sự hiện diện của các nhà giáo dục và văn nghệ sĩ như Hội thảo lần
này ở Berkeley. Hội thảo rất thành công với sự có mặt trong cử tọa của nhiều
nhà nghiên cứu về chiến tranh Việt nam ở miền Đông Hoa kỳ cũng như các giáo sư
và sinh viên của Cornell. Phần lớn các bài trình bày đã được xuất bản trong quyển
“Voices from the Second Republic of South Vietnam (1967-1975)”.
Trùng
Dương: Xin
phép tiếp lời Giáo sư Tường để chia sẻ thêm với độc giả, và cũng cám ơn Giáo sư
đã có nhã ý gửi cho đọc cuốn sách “Voices” kể trên. Thú thực, đọc qua các bài
thuyết trình đã được khai triển thêm và chú thích trong tập sách gần 200 trang
này, tôi đã học hỏi thêm nhiều điều và cũng không khỏi ngạc nhiên tự hỏi: là tại
sao suốt thời gian lớn lên tại Miền Nam (tôi chỉ thực sự bước vào tuổi 20 vào
giữa thập niên 1960), và mặc dù sinh hoạt trong giới văn học và báo chí mà tôi
thực tình không biết một cách sâu xa những gì đề cập tới trong tập sách tuy mỏng
mà đầy ắp thông tin đó. Những bài viết về từ công trình xây dựng và củng cố
(sau một thời gian bị gián đọan vì khủng hoảng chính trị từ sau khi chế độ của
Tổng thống Ngô Đình Diệm bị xụp đổ, từ 1963 tới 1967) các cơ chế chính trị, đảng
phái, kinh tế, các chương trình quân sự bình định và phát triển nông thôn, đặc
biệt chương trình Người Cầy Có Ruộng phải nói là tương đối thành công dưới thời
Đệ nhị Cộng Hoà, trong bối cảnh cuộc chiến ngày một gia tăng, khốc liệt, cùng với
sự thâm nhập đánh phá, kể cả khủng bố, hàng ngũ quốc gia của cán bộ Cộng sản. Một
trong những bài tôi đặc biệt thích thú, và cũng sót xa nữa, là bài “Từ việc trực
diện các nhóm phản chiến tới công cuộc kiến quốc” của cố Giáo sư Nguyễn Ngọc
Bích, kể lại những đối phó của VNCH với bên ngoài, đặc biệt là trong bầu không
khí vô cùng tiêu cực do ảnh hưởng của phong trào phản chiến từ Mỹ đối với cuộc
chiến tại Việt Nam đã làm mờ nhạt chính nghĩa tranh đấu bảo về nền tự do và dân
chủ còn rất non yếu của VNCH. Tôi cũng cảm nhận được sự chân thực, không khoe
khoang, tô hồng qua những lời trần tình của các tác giả trong “Voices” khi kể lại
kinh nghiệm kiến quốc của họ. Và tôi hy vọng độc giả tiếng Việt sẽ có dịp đọc bản
dịch Việt ngữ của cuốn sách tài liệu này trong một tương lai không xa?
Xin
thành thật cám ơn GS Tường đã bỏ thì giờ chia sẻ qua buổi nói chuyện hôm nay.
Tôi cũng muốn nhân cơ hội này gửi lời cám ơn nhà văn Bùi Văn Phú là người đã giới
thiệu chúng ta với nhau và do đấy cho tôi dịp biết đến những công trình giáo sư
và các bạn đồng nghiệp đang theo đuổi, để chia sẻ với độc giả Việt hôm nay. Xin
chúc cuộc hội thảo tới tại Đại học Berkeley thành công tốt đẹp.
Cuộc hội thảo tại Đại
học Cornell: Trên, trái, bích chương của cuộc Hội thảo “Voices from the South –
New Testimonies From the Last Leaders of South Vietnam” tại Đại học Cornell,
tháng 6, 2012. Phải, các tham dựviên của cuộc hội thảo hai ngày, gồm khoảng 40
người, chia thành bốn nhóm thảo luận, với thành quả là sựphát hiện nhiều
thông tin chi tiết chưa từng được biết tới về các sinh hoạt chính trị, xã
hội, văn hoá, kinh tế và quân sự của thời Đệ nhị Cộng Hoà
(1967-1975). (Ảnh http://iao.hypotheses.org/595?lang=es_ES)
[TD,
2016/10]
Ghi
chú:
1 Giáo
sư Peter Zinoman, sinh năm 1965, là đồng dịch giả cuốn tiểu thuyết “Số Đỏ”
(Dumb Luck: A Novel by Vu Trong Phung) lừng danh của nhà văn Vũ Trọng Phụng
(1912-1939). Ông còn là tác giả hai cuốn biên khảo, “The Colonial Bastille: A
History of Imprisonment in Vietnam, 1862-1940” (UC Press, 2001), và “Vietnamese
Colonial Republican: The Political Vision of Vu Trong Phung” (UC Press, 2013).
2
“Voices from the Second Republic of South Vietnam (1967-1975),” do Giáo sư K.W.
Taylor hiệu đính, Cornell Southeast Asia Program Publications ấn hành, 2014, hiện
có trên Amazon.com. Độc giả tiếng Việt có thể đọc thông tin bằng tiếng Việt về
cuộc hội thảo tại Cornell và bài giới thiệu của GS Taylor, do GS Vũ Tường dịch
ra tiếng Việt tại https://tuannyriver.com/2015/07/26/bai-gioi-thieu-sach-ve-de-nhi-vnch/
No comments:
Post a Comment