Nguyễn
Thành Sơn
Cập
nhật lần cuối 05/05/2016
http://www.diendan.org/viet-nam/formosa-ha-tinh-201cde-non201d-va-201cphot-lo-bao-dam-moi-truong201d
Chúng
tôi đã từng chủ trì và/hoặc tham gia soạn thảo và/hoặc thực hiện các thủ tục
trình các cơ quan nhà nước phê duyệt các Báo cáo đầu tư, PFS, FS, ĐTM, các Hồ
sơ mời thầu v.v. của các dự án nhiệt điện chạy than của TKV có tổng mức đầu tư
mỗi dự án khoảng 120-600 triệu USD.
Qua
nghiên cứu Báo cáo đầu tư của dự án Formosa (2008) có tổng mức đầu tư giai đoạn
đầu lên tới 7,897 tỷ USD, chúng tôi thấy tiến độ chuẩn bị đầu tư (từ khảo sát
tình hình đến cấp giấy phép) của dự án này nhanh đến khó tin.
Đi
sâu tìm hiểu, chúng tôi thấy cần nêu ra dưới đây những bất cập có liên quan đến
trình tự / thủ tục đầu tư cũng như chất lượng của dự án Formosa để các cơ quan
chức năng và/hoặc có thẩm quyền của VN tham khảo, góp phần nhanh chóng điều tra
kết luận về nguyên nhân của vụ cá chết ở ven bờ biển miền Trung theo yêu cầu của
Thủ tướng :
Tóm
tắt dự án
Chủ
đầu tư dự án liên hợp thép-cảng Sơn Dương Hà Tĩnh (gọi tắt là Formosa) gồm 6
công ty : Công ty cổ phần hữu hạn nhựa công nghiệp Đài Loan, Công ty cổ phần hữu
hạn nhựa công nghiệp Nam Á, Công ty cổ phần hữu hạn sợi hóa học Đài Loan, Công
ty cổ phần hữu hạn dầu khí Formosa, Công ty cổ phần hữu hạn công nghiệp nặng
Formosa, và Công ty trách nhiện hữu hạn Sunsco Holding Ltd.
Dự
án Formosa Hà Tĩnh được chia thành 3 giai đoạn :
-
Giai đoạn 1 (gồm 2 bước) : Bước 1-1, đầu tư liên hợp luyện gang thép và cảng
công suất 7,5 triệu tấn/năm ; Bước 1-2, sẽ nâng công suất lên đạt và 15
tr.t/năm ; Tổng mức đầu tư bước 1-1 (gồm tổ hợp gang-thép và cảng biển Sơn
Dương) khoảng 7,897 tỷ đô la.
-
Giai đoạn 2 : xây dựng tổ hợp nhà máy lọc dầu công suất 15 tr. tấn dầu thô/năm
và 1,2 tr. tấn ethylene/năm ;
-
Giai đoạn 3: Xây dựng cảng Sơn Dương thành cảng tổng hợp phục vụ trung chuyển
hàng hóa trong khu vực (gồm cả bắc Thái Lan và nam Lào).
Địa
điểm triển khai : Khu kinh tế Vũng Áng, Hà Tĩnh. Tổng diện tích chiếm đất chỉ
riêng giai đoạn 1 là 44.476.751 m2 (4.448 ha), bao gồm toàn bộ cảng biển sâu nhất
khu vực miền Trung là Sơn Dương.
Như vậy, có thể thấy, Formosa là một
“siêu dự án” được triển khai trên một địa bàn chiến lược về kinh tế và quốc
phòng của VN.
Thủ
tục đầu tư đã được tiến hành theo kiểu đối phó
Nếu
tính cả 3 giai đoạn, Formosa là một dự án rất lớn, có tổng mức đầu tư hàng chục
tỷ đô la. Nhưng thời gian nghiên cứu, khảo sát, làm thủ tục, xin giấy phép rất
ngắn. Điều này cho phép nghi ngờ chất lượng của dự án “chục tỷ đô” này. Cụ thể
như sau:
Theo
báo cáo của Formosa, năm 2007, “sau nửa năm nghiên cứu khỏa sát điều kiện tự
nhiên, kinh tế, xã hội của các tỉnh Bắc Trung Bộ Việt Nam”, Formosa đã “Mời
lãnh đạo tỉnh Hà Tính, đại diện văn phòng chính phủ Việt Nam, đại diện bộ công
thương và bộ kế hoạch đầu tư Việt nam đến Đài Loan thăm và khảo sát, tìm hiểu
các vấn đề…” “Báo cáo với thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng về kế hoạch đầu tư
của tập đoàn và xin ý kiến của thủ tướng; Báo cáo với thủ tướng Hoàng Trung Hải
về kế hoạch đầu tư của tập đoàn và xin ý kiến của thủ tướng; Báo cáo với chánh
văn phòng quốc hộ Trần Đình Đàm về kế hoạch đầu tư của tập đoàn và xin ý kiến của
ngài chánh văn phòng” (hết trích dẫn nguyên văn, kể cả sai ngữ pháp).
Sau
đó, ngày 09/11/2007, Chủ tịch Công ty Sunsco Holding Ltd. (có trụ sở tại quần đảo
Cayman, vùng Caribe- nằm giữa Cu Ba và Jamaica, là thiên đường của các công ty
để rửa tiền và chốn thuế) và chủ tịch tổng công ty Formosa công nghiệp nặng có
trụ sở ở Đài Bắc đã gửi “Thư quan tâm đầu tư” (thực ra chỉ là một mảnh giấy tiếng
Anh, không có tên người ký, không có địa chỉ phát hành, không dấu, không logo
v.v.) gửi UBND Hà Tĩnh bầy tỏ kế hoạch đầu tư vào Khu kinh tế Vũng Áng tổ hợp
nhà máy luyện thép với tổng công suất 15 triệu tấn/năm; đồng thời bầy tỏ “hy
vọng được trao đổi với các sở/ban ngành có liên quan của Hà Tĩnh về kế hoạch đầu
tư, và được tổ chức gặp để báo cáo thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng để kế hoạch nhận
được giấy phép của chính phủ trung ương sớm nhất có thể”.
Sau
khoảng 1 tháng, phó chủ tịch UBND tỉnh Hà Tĩnh Võ Kim Cự ký văn bản số
3182/UBND-CN2 ngày 12/12/2007 v/v đầu tư vào Hà Tĩnh của Tập đoàn Formosa. Văn
bản này đã “đề nghị Tập đòan tiến hành khảo sát, lập hồ sơ các dự án báo cáo
Chính phủ VN, các Bộ ngành Trung ương có liên quan và UBND tỉnh Hà Tĩnh để kịp
thời hoàn chỉnh thủ tục đầu tư theo qui định hiện hành”. Đây thực chất là một
văn bản vô trách nhiệm (bỏ qua các thủ tục tìm hiểu/đánh giá về năng lực của chủ
đầu tư) và trái thẩm quyền (góp phần làm phá vỡ các qui hoạch lớn về kinh tế của
Chỉnh phủ, gồm các qui hoạch về thép, điện, cảng biển v.v).
Sau
đó 12 ngày, Tập đoàn Formosa đã thực hiện xong ý kiến chỉ đạo tại
văn bản nói trên của Phó chủ tịch Hà Tĩnh Võ Kim Cự, xây dựng xong báo cáo đầu
tư về hai dự án khu liên hợp luyện thép (15 tr.t/năm) và cảng tổng hợp Sơn
Dương (200.000 DTW) để trực tiếp báo cáo phó thủ tướng Hoàng Trung Hải vào ngày
24/12/2007.
Sau
đó 3 ngày, ngày 27/12/2007, Tổng giám đốc Tổng công ty Formosa công nghiệp nặng
Ngô Quốc Hùng đã có thư gửi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, trong đó khẳng định: “Chúng
tôi đã xây dựng Báo cáo đầu tư về hai dự án trên để trình Chính phủ Việt Nam.
Theo đó thời gian hoàn thành lò cao thứ 1 của giai đoạn 1 được rút ngắn từ 48
tháng xuống còn 36 tháng. Nay chúng tôi xin gửi tới ngài báo cáo đó, rất mong
được Ngài và các cơ quan hữu quan của Chính Phủ Việt Nam sớm chấp thuận.”
và hứa: “Ngay sau khi nhận được sự chấp thuận của chính phủ Việt nam, chúng
tôi sẽ triển khai việc lập báo cáo tiền khả thi và tháng 3/2008 sẽ trình lên
các cơ quan hữu trách của Việt Nam.” (hết trích dẫn).
Qua
sự việc trên cho thấy, Báo cáo đầu tư của dự án qui mô hàng chục tỷ đô la chỉ
được thực hiện vỏn vẹn trong vòng 12 ngày, đã được trình lên tới Chính Phủ VN.
Ngày 15/01/2008,
Tổng giám đốc Tổng công ty Formosa công nghiệp nặng Ngô Quốc Hùng, từ Đài Bắc
đã gửi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng “Thư bảo đảm xin đầu tư xây dựng dự án cảng
Sơn Dương và khu liên hợp gang thép tại Hà Tĩnh”.
Mặc
dù thư này được gửi cho Thủ tướng, nhưng ngay ngày hôm sau, từ Hà Tĩnh, phó chủ
tịch UBND tỉnh Võ Kim Cự đã ký công văn số 102/UBND/CN2 ngày 16/01/2008 về
việc đầu tư vào Hà Tĩnh của Tập đoàn Formosa (Đài Loan). Công văn này đã khẳng
định: “Sau khi xem xét văn thư ngày 15/01/2008của Tập đoàn
Formosa (Đài Loan) về việc cam kết đầu tư Dự án cảng Sơn Dương và Dự án nhà máy
luyện thép công suất 15 triệu tấn/năm… UBND tỉnh Hà Tĩnh xin báo cáo và đề nghị
như sau: … Formosa là Tập đoàn có các nguồn lực và kinh nghiệm đầu tư các dự án
lớn, đặc biệt là dự án cảng biển và luyện thép… Kính đề nghị Thủ tướng Chính Phủ
và các Bộ, ngành liên quan cho phép Tập đoàn lập dự án trình cấp có thẩm quyền
xem xét, quyết định cho thực hiện dự án nói trên”.
Như
vậy, bằng công văn 102/UBND/CN2 ngày 16/01/2008 nói trên phó chủ tịch UBND tỉnh
Hà Tĩnh đã cố tình hợp thực hóa công văn số 3182/UBND-CN2 ngày 12/12/2007. Văn
bản trên còn cho thấy rõ hành động vô trách nhiệm của UBND tỉnh Hà Tĩnh. Trong
khi Formosa là đối tác được thế giới bêu danh hàng đầu trong lĩnh vực gây ô nhiễm
môi trường, thì, chỉ trong vòng 24h, sau khi Formosa “cam kết đầu tư” với Thủ
tướng, UBND tỉnh Hà Tĩnh đã khẳng với Thủ tướng: “Formosa là Tập đoàn có các
nguồn lực và kinh nghiệm đầu tư các dự án lớn, đặc biệt là dự án cảng biển và
luyện thép”!!!.
Những
ưu đãi không có cơ sở
Mặc
dù Formosa chưa trình dự án, ngày 28/02/2008, Ban quản lý Khu kinh tế Vũng Áng-
Hà Tĩnh đã lập “Biên bản ghi nhớ về điều kiện ưu đãi đầu tư cho dự án nhà
máy thép và cảng Sơn Dương”. Biên bản này đã nêu cụ thể 14 mục ưu đãi đối với
Formosa. Trong đó, có những mục như “Thời gian thuê đất 70 năm, kể từ khi hợp
đồng thuê đất có hiệu lực”. Đây là hành động “cầm đèn chạy trước ô tô” của
UBND tỉnh Hà Tĩnh. Vì, sau đó 4 ngày, Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải mới ký văn
bản số 323/TTg-QHQT ngày 04/3/2008 “về việc đầu tư xây dựng Nhà máy luyện thép
và cảng nước sâu tại Hà Tĩnh”, trong đó có nội dung: “UBND tỉnh Hà Tĩnh chủ
trì, phối hợp với các Bộ ngành có liên quan chỉ đạo Ban quản lý Khu kinh tế
Vũng Áng hướng dẫn nhà đầu tư lập dự án đầu tư và hồ sơ xin cấp Giấy chứng nhận
đầu tư, tổ chức thẩm định Dự án và hồ sơ theo quy định hiện hành của Luật đầu
tư, trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định”.
Sau
khi có ý kiến chỉ đạo trên, thay vì phải “hướng dẫn nhà đầu tư lập dự án đầu
tư” theo ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng, ngày 25/3/2008, cũng chính Ban
quản lý Khu kinh tế Vũng Áng, đã ký “Biên bản ghi nhớ bổ sung, sửa đổi về điều
kiện ưu đãi đầu tư cho dự án nhà máy thép và cảng Sơn Dương”. Trong đó, mục
“Thời gian thuê đất 70 năm, kể từ khi hợp đồng thuê đất có hiệu lực” đã
được sửa đổi thành: “Thời gian thuê đất 70 năm, kể từ khi hợp đồng thuê đất
có hiệu lực. Trước khi hết hạn thuê đất 2 năm nếu có nhu cầu, nhà đầu tư
(FORMOSA) phải trình UBND tỉnh Hà Tĩnh đơn xin thuê đất cho thời gian tiếp theo
và trong vòng 03 tháng (kế từ ngày nhận được đơn xin thuê đất), UBND tỉnh Hà
Tĩnh có trách nhiệm trả lời nhà đầu tư. Khi đó, FORMOSA là nhà đầu tư được ưu
tiên để tiếp tục thuê đất nhưng chính sách thuê đất được áp dụng theo quy định
của luật Việt Nam tại thời điểm hiện hành”.
Qua
sự việc trên cho thấy, trong khi chủ đầu tư chưa trình Dự án, UBND tỉnh Hà Tĩnh
đã ký biên bản thỏa mãn tất cả các yêu cầu của chủ đầu tư. Đặc biệt, việc giao
đất 70 năm được bổ sung các điều kiện được chấp nhận kéo gần như vô thời hạn.
Mặc
dù Báo cáo đầu tư của Formosa chưa được lập và chưa được các cơ quan hữu quan
phê duyệt, ngày 09/4/2008, phó chủ tịch UBND tỉnh Hà Tĩnh Võ Kim Cự đã ký văn bản
số 858/UBND-CN2 về việc xác nhận ưu đãi đầu tư cho Tập đoàn Formosa. Văn bản
này đã đưa ra 5 ưu đãi về thuế, 3 ưu đãi về đất, 2 ưu đãi về bồi thường, giải
phóng mặt bằng, 4 hỗ trợ về hạ tầng kỹ thuật, 2 hỗ trợ về đào tạo nguồn nhân lực,
và 1 hỗ trợ về chi phí quảng cáo. Riêng về ưu đãi thuê đất, văn bản đã khẳng định
“Thời gian cho thuê đất là 70 năm. Khi hết hạn thuê đất, nếu có nhu cầu,
Formosa sẽ được ưu tiên tiếp tục thuê đất; chính sách thuê đất được áp dụng
theo quy định của pháp luật Việt Nam tại thời điểm đó”.
Nhờ
có những ưu đãi “từ trên trời rơi xuống”, ngày 11/4/2008, hai ngân hàng
Hongkong and Shanghai Banking Corporation Ltd. (HSBC) và Mega International
Commercial Bank Co., Ltd đã có “Thư quan tâm” gửi cho Formosa. Trong đó, HSBC
đã lưu ý nếu chính sách của chính phủ thay đổi thì Thư quan tâm này sẽ cần được
HSBC khẳng định lại!
Những
rủi ro về môi trường chưa được xem xét
Dự
án Formosa có nhà máy luyện gang thép với công nghệ lạc hậu, nên phải dùng than
mỡ để luyện coke cho lò cao. Nhu cầu than mỡ hàng năm phải nhập khẩu là 3,623
triệu tấn để luyện ra 2,52 triệu tấn coke (xem tr.24, Thuyết minh tổng hợp).
Ngoài ra, hàng năm Formosa phải sử dụng khoảng 0,642 triệu tấn dolomit; 1,442
triệu tấn đá vôi, và 1,296 triệu tấn than cám.
Quy
trình luyện coke thải ra rất nhiều độc tố vì than mỡ dùng để luyện coke thường
có chứa các chất rất độc hại và nguy hiểm, như: sulphure (≈ 0,3%) chlorine
(≈0,03%), phosphorous (≈0,001%); và arsenic (≈0,004%).
Như
vậy, Chỉ riêng 3 loại chất cực độc (là chlorine, phosphorous, và arsenic) chứa
trong than mỡ đã khoảng 0,035%. Với lượng tiêu dùng 3,623 triệu tấn/năm, chỉ
riêng khâu luyện coke sẽ thải ra môi trường dưới mọi hình thức ít nhất 1.268 tấn/năm
chất cực độc nói trên.
Đáng
lưu ý, những loại than dùng để luyện coke được Formosa đã nhập về VN đều là những
loại than rẻ tiền. Thay vì nhập khẩu than mỡ, Formosa đã nhập khẩu than bitum
vào VN để luyện coke. Cụ thể, năm 2014, Formosa đã nhập khẩu 960.466 tấn than
bitum từ Indonesia với giá bình quân gần 84 USD/tấn và năm 2015, Formosa đã nhập
khẩu 87.923 tấn than bitum từ Canada để luyện coke với giá bình quân 82 USD/tấn.
Các thành phần độc tố nói trên trong các loại than bitum rẻ tiền này chắc chắn
còn cao hơn nhiều so với trong than mỡ đắt tiền (khoảng 200 USD/tấn).
Nhà
máy luyện coke của Formosa theo thiết kế có công suất 2,86 triệu tấn/năm. Như vậy,
cũng theo thiết kế, lượng khí lò coke (COG) hàng năm lên tới 1,4 tỷ Nm3 (trong
điều kiện bình thường) và thải ra khoảng 1,1 triệu tấn xỉ/năm. Ngoài than luyện
coke, nhà máy này còn phải sử dụng 1.906 tấn dầu rửa/năm.
Điều
đáng lo ngại là trong Báo cáo đầu tư, Formosa đã cố tình không đưa ra các đặc
tính kỹ thuật cũng như các thành phần hóa học của các loại nguyên liệu đầu vào
được đưa vào sử dụng trong dự án (trong đó có các thành phần độc tố trong than
luyện coke và dầu rửa).
Vấn
đề bảo vệ môi trường không được đề cập trong Báo cáo đầu tư
Như
trên đã nêu, ngày 25/3/2008, phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải mới ký văn bản “Đồng
ý chủ trương Tập đoàn công nghiệp nặng Formosa- Đài Loan lập Dự án đầu tư Nhà
máy liên hợp thép tại Khu kinh tế Vũng Áng và Cảng nước sâu Sơn Dương tỉnh Hà
Tĩnh như đề nghị của UBND tỉnh Hà Tĩnh tại văn bản nêu trên” (số
102/UBND-CN2 ngày 16/01/2008).
Nhưng
ngay trong năm 2008 (không rõ tháng), Công ty TNHH Gang Thép Hưng Nghiệp
Formosa Hà Tĩnh đã trình “Báo cáo dự án đầu tư khu liên hợp gang thép và cảng
Sơn Dương Formosa Hà Tĩnh”. Báo cáo đầu tư gồm 2 phần: phần I- Thuyết minh tổng
hợp (tổng luận, 116 trang khổ A4) và phần phụ lục; phần II- Giải trình kinh tế-kỹ
thuật (gồm 5 chương, 281 trang khổ A4).
Đối
với một dự án nhậy cảm với môi trường, có mức đầu tư tới 7,897 tỷ USD, nội dung
Báo cáo đầu tư này đã được lập hoàn toàn đối phó, không theo các quy định hiện
hành của Luật đầu tư. Trong đó, đặc biệt là phần liên quan đến bảo vệ môi trường.
Trong
Thuyết minh tổng hợp, Mục 9.9 “Bảo vệ môi trường” (tr.87-94) được thực hiện rất
sơ sài và rất mơ hồ. Trong đó, mục 9.9.2 “Ứng dụng các giải pháp không chế ô
nhiềm” gồm: khống chế ô nhiễm không khí (2 trang); khống chế ô nhiễm nước (1
trang); tận dụng chất thải rắn (>2 trang); khống chế tiếng ồn (<1 trang).
Trong
“Giải trình kinh tế-kỹ thuật”, mục 3.2 “Hệ thống cung cấp nước và xử lý nước thải”
cũng vỏn vẹn có 4 trang khổ A4 (tr. 3-37÷3-41, kể cả 2 trang hình vẽ). Trong
đó, mục 3.2.2.3 “Hệ thống xử lý nước thải” có tổng số chưa đầy 12 dòng (5 dòng
về “dự kiến”, 4 dòng về “nước thải sinh hóa” và 2 dòng về “nước thải công nghiệp”).
Với
nội dung rất sơ sài của một Báo cáo đầu tư như trên, nhưng, trong một thời gian
ngắn kỷ lục, chủ đầu tư đã được cấp đất và triển khai dự án. Điều này đặt ra
câu hỏi về chất lượng của các hồ sơ dự án do chủ đầu tư lập, trong đó có Báo
cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM) và chất lượng tổ chức thẩm định dự án của
phía VN trước khi cấp phép.
Việc
quản lý môi trường bị buông lỏng
Như
chúng ta đã biết, Formosa là một dự án thuộc lĩnh vực luyện kim (có gắn với cảng
biển và sản xuất nhiệt điện tự dùng). Công nghệ của nhà máy thuộc loại lạc hậu
(phải sử dụng coke để luyện gang). Quy trình sản xuất gang thuộc loại liên hoàn
và liên tục. Khối lượng chất thải các loại (rắn, lỏng, khí) rất lớn, có chứa
nhiều chất độc hại, và được thải ra liên tục. Chỉ riêng chất thải lỏng được phê
duyệt thải ra môi trường tới hàng chục nghìn m3/ngày.
Thế
nhưng, việc quan trắc, giám sát từ phía các cơ quan của nhà nước lại chỉ thực
hiện theo chu kỳ. Đặc biệt, việc xử lý các chất cực độc phát sinh từ công nghệ
luyện coke-gang-thép đã không được kiểm soát khách quan và liên tục. Đây là một
kẽ hở lớn mà chủ đầu tư có thể lợi dụng để chỉ cần trong vòng vài phút có thể
thải hết ra biển hàng tấn chất cực độc như Chlorine, Phosphorous, Arsenic.
Để
làm sáng tỏ vấn đề này, cơ quan chức năng cần công bố toàn văn ĐTM và những tài
liệu liên quan đến việc phê duyệt ĐTM của dự án.
Câu
hỏi, liệu hàng tấn chất cực độc nêu trên có dẫn đến cá chết hàng loạt hay
không? chúng tôi xin nhường lời cho các nhà khoa học hóa sinh./.
Hà
Nội, ngày 01/5/2016
NGUYỄN
THÀNH SƠN
NGUỒN : Blog Bùi Văn Bồng, 4.5.2016
TS Nguyễn Thành Sơn, nguyên Giám đốc Ban Quản lý các dự án than Đồng bằng sông Hồng, thuộc tập đoàn Than và Khoáng sản Việt Nam (TKV), hiện nay là Chuyên gia tư vấn độc lập New Technology Solutions, đã có nhiều phản biện về dự án bauxite Tây Nguyên
No comments:
Post a Comment