06/12/201420:06:00
Đôi
khi trong đời người ta, viết văn chỉ vì nhu cầu thôi
thúc chứ thực ra nhà văn chưa chắc đã nắm vững một
số kỹ thuật hoặc nguyên tắc viết văn. Ngay chính bản
thân tôi cũng rơi vào trường hợp như vậy.
Điều
này cũng dễ hiểu vì tôi không tốt nghiệp hoặc chưa
theo học một truờng hoặc một lớp dạy viết văn nào.
Mặc dầu tôi đã trải qua sáu năm đại học nhưng ở
đại học người ta không chấm điểm theo nghệ thuật
viết văn mà chấm điểm theo nội dung bài vở. Cho nên
khi khởi đầu viết tác phẩm “Những Sự Thực
Không Thể Chối Bỏ” năm 1987 thì kỹ thuật viết
văn của tôi như nguyên tắc viết hoa, cách chấm câu
v.v.. hoàn toàn là của Lớp Đệ Thất, Đệ Lục với lời
dạy của thầy, cô trong môn Việt Văn rất đơn sơ mà
tôi chỉ còn nhớ lõm bõm.
Sau
mười năm sống ở Mỹ tức khoảng năm 1995 và sau khi đã
làm việc trong các trường học, theo dõi các bài giảng
dạy viết văn của học sinh Mỹ, đọc các sách biên khảo
về văn chương Hoa Kỳ tôi mới bắt đầu hiểu một số
vấn đề như quy tắc viết hoa:
I.
Quy tắc viết hoa trong văn chương Việt Nam
Trước
khi nói về nguyên tắc viết hoa trong văn chương Hoa Kỳ
chúng ta thử tìm hiểu xem nguyên tắc viết hoa của văn
chương Việt Nam như thế nào. Theo tôi, khi tổ tiên chúng
ta còn xử dụng tiếng Hán để làm văn tự thì chắc
chắn không có quy tắc viết hoa. Khi chữ quốc ngữ được
sáng tạo thì quy tắc viết hoa của chúng ta đã được
mô phỏng hoặc bắt chước theo lối viết hoa của văn
chương Pháp.
Thế
nhưng quy tắc mà chúng ta ứng dụng hoặc bắt chước lại
hỗn loạn và không thống nhất. Tôi không hiểu lỗi này
do cha ông chúng ta không có một Hàn Lâm Viện để đặt
một quy tắc thống nhất hoặc giả đây là lỗi của nhà
văn, nhà xuất bản, của ban biên tập, của người sắp
chữ (sau này là người đánh máy)? Riêng bản thân tôi,
cho mãi tới năm 2000 – tức là sau 15 năm viết văn tôi
mới chính thức tuân thủ lối viết hoa thống nhất theo
văn chương Hoa Kỳ.
Điều
này qúy vị độc giả có thể nhận thấy trong cuốn Ký
Sự 15 Năm xuất bản năm 2000. Chứ còn 5 tác phẩm
về trước, lối viết hoa của tôi hoàn toàn không thống
nhất và hết sức lộn xộn. Sau đây là lối viết hoa
trong văn chương Việt Nam theo thứ tự thời gian mà tôi
đưa ra như những điển hình.
1)Viết
hoa theo Việt Nam Tự Điển Khai Trí Tiến Đức (1931):
Chỉ
viết hoa chữ đầu, chữ sau không viết hoa và có gạch
nối giữa các chữ. Thí dụ:
Kinh-dương-vương
Hà-nội,
Hà-nam, Hà-tĩnh, Giáo-sư, Giáo-sĩ, Hương-giang, Nga-la-tư,
Thái-bình-dương
Thế
nhưng: A-di-đà-Phật (chữ Phật cuối cùng lại viết hoa)
2)
Lối viết hoa không thống nhất trong Nửa Chừng
Xuân của Khái Hưng:
-Tên
người: Viết hoa cả họ, tên và chữ lót theo văn chương
Mỹ nhưng vẫn có gạch nối theo lối cũ. Thí dụ:
Dương-Huy, Nguyễn-Thiết-Thanh, Nguyễn-Yên. Thế nhưng ở
một chỗ khác lại viết: Dương-thị-Mai (chữ thị không
viết hoa)
-Tước
hiệu, chức vụ: Thường không viết hoa và rất lộn xộn.
Thí dụ:
cụ
tú Ninh-Bắc, cụ tú Lãm, ông hàn Thanh
nhưng
ở một chỗ khác lại viết Bà Cán, ông Tham Lộc
(Tham ở
đây là một tước vị lại viết hoa)
-Địa
danh, dinh thự, công viên, thành phố, trường học:
Khái
Hưng chỉ viết hoa chữ đầu và vẫn có gạch nối theo
lối cũ. Thí dụ:
Phúc-yên,
Hà-nội, chùa Bách-môn
Thế
nhưng ở những chỗ khác tất cả lại viết hoa. Thí dụ:
Thạch-Lỗi,
Quan-Thánh, Phú-Thọ, Trù-Mật, Ninh-Bắc, Nam-Định, Gia-Lâm
Các
con đường, con sông Khái Hưng viết hoa cũng không thống
nhất: Thí dụ:
đường
Quan-Thánh (Quan Thánh viết hoa)
Sông
Tô-lịch (sông lại viết hoa, lịch lại không
viết hoa)
Ngày,
tháng Khái Hưng không viết hoa. Thí dụ: thứ bảy
3)
Lối viết hoa của Nhất Linh trong Bướm Trắng:
-Về
địa danh, Nhất Linh chỉ viết hoa chữ đầu và có
gạch nối theo lối cũ. Thí dụ:
Sầm-sơn,
Hà-nội, Khâm-thiên, Chợ-lớn
Thế
nhưng Sài Gòn có chỗ lại viết:
Sài
gòn (không gạch nối)
Sài-gòn
(có gạch nối)
Nhật
bản (không gạch nối)
-Về
tên người Nhất Linh viết hoa theo lối Mỹ. Thí dụ:
Bác-sĩ
Trần Đình Chuyên (không gạch nối, chữ lót viết hoa)
Nhưng
ở một chỗ khác lại viết: Vũ-đình-Trương (có gạch
nối và chữ lót lại không viết hoa)
4)
Lối viết hoa không thống nhất của Thanh Tịnh
trong Quê Mẹ:
-Các
địa danh chỉ viết hoa chữ đầu và có gạch nối.
Thí
dụ: phá Tam-giang, trường Mỹ-lý, Trung-kỳ, Hà-nội
Thế
nhưng ở một chỗ khác lại viết:
Trường Mỹ-lý
(trường viết hoa mà không phải ở đầu câu)
làng
Hòa ấp (lại không có gạch nối)
chùa
Đồng Tâm (chữ tâm lại viết hoa và không có
gạch nối)
-Chức
vụ chỉ viết hoa chữ đầu. Thí dụ: Hương-thơ
Thế
nhưng ở những chỗ khác lại viết:
ông
đốc (đốc không viết hoa)
ông
Huyện Phong (hai chữ sau lại viết hoa)
Miếu
Thần Đá (tất cả lại viết hoa)
miễu
Thánh (chữ miễu không viết hoa)
-Các
tên người đều viết hoa theo lối Mỹ nhưng có gạch
nối. Thí dụ:
Hoàng-Thiên-Y,
Khổng-Tử, Lý-Tịnh, Na-Tra
Nhưng
ở một chỗ khác lại viết:
Lê
Bá Xuân (không gạch nối)
5)
Lối viết hoa không thống nhất của Hoàng Văn Chí
(1964):
Về
tên các quốc gia: Viết hoa theo lối Mỹ nhưng vẫn có
gạch nối. Thí dụ:
Việt-Nam,
Đông-Nam-Á, Đông-Dương, Hòa-Lan
Nhưng
ở nhiều chỗ khác chỉ viết hoa chữ đầu:
Hoa-kỳ,
Thái-lan, Ấn-độ, Trung-cộng, Tây-tạng,
Tên
các nhân vật: Có lúc viết hoa theo lối Mỹ nhưng vẫn
có gạch nối. Thí dụ:
Khuyển-Dưỡng-Nghị,
Tôn-Văn, Vương-Dương-Minh
Thế
nhưng ở những chỗ khác lại viết:
Phan-đình-Phùng,
Tôn-thất-Thuyết (chữ lót không viết hoa)
-Nhóm,
hội đoàn, đoàn thể: Viết hoa không thống nhất, chỗ
có gạch nối, chỗ không. Thí dụ:
Phong
trào Cần-Vương
Phong
trào Đông Du (không gạch nối)
Phong
trào Văn-Thân
phong
trào cộng sản (cả bốn chữ lại không viết hoa)
-Các
địa danh viết hoa cũng không thống nhất.
Thí
dụ: Thượng-Hải, Hồng-Kông, Trà-Lùng, Hàng-Bông, Làng
Cổ-Am, Yên-Báy, Hải-Phòng
Thế
nhưng ở những chỗ khác lại chỉ viết hoa chữ đầu mà
thôi. Thí dụ: Hà-nội, Quảng-châu, Quảng-nam, Lạng-sơn,
Dương-tư, Nam-đànv.v…
6)
Lối viết hoa của Duyên Anh trong Về Yêu Hoa
Cúc (1970):
-Đại
lược về tên người, địa danh, tên trường học, tước
hiệu Duyên Anh viết hoa theo lối Mỹ và bỏ gạch nối.
Thí
dụ: Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư, Mai Thảo, Nguyên Sa, Đinh
Hùng, Hàn Mặc Tử
Đại
Học Văn Khoa, Đà Lạt, Hà Nội, Mỹ Tho
Thế
nhưng còn hai chữ Sài Gòn thì Duyên Anh có lúc viết
Sài-gòn (có gạch nối, chữ gòn không viết hoa),
rồi có lúc lại viết Sài gòn (không gạch nối)
-Tên
các tờ báo, tạp chí lối viết hoa cũng không thống
nhất. Thí dụ:
nhật
báo Đồng Nai, tuần báo Kịch Ảnh
tức
là các chữ nhật báo, tuần báo không viết
hoa)
thế
nhưng lại viết: Đông Dương Tạp Chí (tạp chí lại
viết hoa)
-Các
tác phẩm văn chương chỉ viết hoa chữ đầu, chữ
sau không viết hoa (tức theo lối cũ). Thí dụ:
Ngày
về, Lạnh lùng, Chân trời cũ
Nhưng
ở chỗ khác lại viết Tiêu Sơn Tráng Sĩ (tất cả đều
viết hoa)
7)
Lối viết hoa không thống nhất của Hoàng Khởi
Phong trong Người Trăm Năm Cũ (1993):
Hoàng
Khởi Phong là cựu chủ nhiệm kiêm chủ bút Tạp Chí Văn
Học trong khoảng thời gian từ 1989-1990. Dĩ nhiên với
chức năng này ông phải đọc lại và coi lại rất nhiều
bài viết thế nhưng lối viết hoa của ông cũng không
thống nhất – điển hình qua tác phẩm Người Trăm
Năm Cũ.
-Các
tước vị hoặc ngôi thứ trong gia đình đều viết
hoa như:
Đề
Thám, Cai Kinh, Cả Huỳnh, Cả Tuyển, Tổng đốc Lê Hoan…
Thế
nhưng ở nhiều chỗ khác, các tước vị lại không viết
hoa:
Thí
dụ: vua Hàm Nghi, tướng Voyron, quan ba Lambert…
-Các
điạ danh, cách viết hoa cũng không thống nhất:
Thí
dụ: Phủ Lạng Thương, tỉnh Hà Đông, huyện Nhã Nam
(Phủ,
huyện, tỉnh đều là đơn vị hành chánh thế mà phủ viết
hoa còn tỉnh và huyện lại không viết hoa).
-Các
biến cố lịch sử đáng lý phải viết hoa lại không
viết hoa.
Thí
dụ: Cuộc khởi nghĩa Yên Thế, chiến khu Yên Thế. Đáng
lý phải viết: Cuộc Khởi Nghĩa Yên Thế, Chiến Khu Yên
Thế.
8)
Lối viết hoa không thống nhất của Tạ Chí Đại
Trường trong Tạp Chí Văn Học năm 2000:
Tạ
Chí Đại Trường là cây viết chủ lực cho Tạp Chí Văn
Học sức học rất uyên bác nhưng cũng lại không để ý
đến quy tắc viết hoa. Thí dụ:
Công Giáo (tất
cả đều viết hoa)
Thế
nhưng ở chỗ khác lại viết: Tam giáo (chữ giáo
không viết hoa)
Tự
Đức kí Dụ: Đáng lý kí viết hoa lại
không viết hoa.
truờng
Bảo hộ (chữ hộ không viết hoa) nhưng lại viết
trường Chu Văn An (chữ an lại viết hoa)
Hồng
vệ binh maxít phương Đông: (chữ phương không
viết hoa). Thế nhưng ở một chỗ khác lại viết:
Văn
Minh Tây Phương (chữ phương lại viết hoa)
Hồng quân Trung
Quốc (chữ quân đáng lý viết hoa lại không viết hoa)
Cộng hòa Đại
Hàn (chữ hòa đáng lý viết hoa lại không viết hoa)
Phong trào Không liên
kết Thế giới thứ Ba: Các chữ trào, liên
kết, giới, thứ – đáng lý phải viết hoa lại không
viết hoa.
9)
Lối viết hoa của Nguyễn Hưng Quốc trong Tạp
Chí Văn Học năm 2000
Nguyễn
Hưng Quốc là cây viết chủ lực cho Tạp Chí Văn Học.
Là một nhà bình luận văn học rất kỹ lưỡng thế
nhưng Nguyễn Hưng Quốc cũng không chú ý đến quy luật
viết hoa.
-Tên
các tác phẩm đều viết hoa như:
Truyện
Kiều
Thơ
Mới của Hoài Thanh
Thế
nhưng ở một chỗ khác lại viết:
thơ Nguyễn
Công Trứ (chữ thơ không viết hoa)
-Các
tên nhóm, hội đoàn đều viết hoa như:
Nhóm
Sáng Tạo (chữ nhóm viết hoa)
trường
phái Phê Bình Mới (đáng lẽ chữ trường phái cũng
phải viết hoa)
Rồi
ở một chỗ khác lại viết:
nhóm Ngôn ngữ
học tại Moscow (đáng lý phải viết: Nhóm Ngôn Ngữ
Học tại Moscow
II.
Quy tắc viết hoa trong văn chương Hoa Kỳ
Trong
văn chương Hoa Kỳ, viết hoa gọi là “capital letter ”,
còn viết chữ thường gọi là “lower case”. Đây là quy
tắc thống nhất được áp dụng ở khắp mọi nơi. Ít
khi thấy nhà văn, nhà thơ, nhà báo Hoa Kỳ vi phạm quy tắc
này. Nguyên do chính là vì xã hội của họ đã ổn định
cả hai trăm năm nay, việc gì cũng đã trở thành quy củ,
nề nếp, có trường ốc. Ngoài ra tờ báo nào, nhà xuất
bản nào cũng có một ban biên tập chịu trách nhiệm về
vấn đề này chứ không “tự biên tự diễn, tự đánh
máy, tự in, tự sáng chế” như chúng ta.
Giới
thiệu quy tắc viết hoa trong văn chương Hoa Kỳ ở đây
không có nghĩa là cái gì của Mỹ cũng nhất.
Quy tắc nào cũng tốt cả nhưng với điều kiện phải
thống nhất. Không thể ở đầu trang viết:Phong trào Đông
du rồi ở cuối sách lại viết Phong Trào Đông
Du. Nếu cứ tiếp tục viết lộn xộn như thế này thì
con cháu chúng ta cũng sẽ tiếp tục thừa kế cái lộn
xộn đó và hậu quả là cả ngàn năm sau nền văn chương
Việt Nam vẫn cứ tiếp tục lộn xộn làm người ngoại
quốc điên đầu khi nghiên cứu văn chương Việt Nam. Sau
đây là quy tắc viết hoa trong văn chương Hoa Kỳ:
1) Tên
người:
Thí
dụ: Bà Trưng, Bà Triệu, Bà Lê Chân, Ông Tô Hiến Thành,
Ông Cao Bá Quát, Ông Tôn Thất Thuyết, Bà Đoàn Thị Điểm,
Ông Đặng Trần Côn, Cô Nguyễn Thị Giang, Cô Bắc.
2) Các
con vật mình nuôi và thương mến/thú cưng (pet):
con
Vàng, con Vện, con Loulou, con Cún, con Bống
3) Các
chức vụ, tước hiệu và các chữ tắt của tên:
Thí
dụ: Trình Quốc Công Nguyễn Bỉnh Khiêm, Sử Gia Lê Văn
Hưu, Chúa Sãi, Chúa Trịnh, Bà Huyện Thanh Quan, Đô Đốc
Tuyết, Cai Tổng Vàng, Giáo Sư Hoàng Xuân Hãn, Giáo Sư
Nguyễn C. Hách, GS. Phạm B. Tâm, Đại Sứ Cabot Lodge, Tiến
Sĩ Kissinger, Tổng Thống Roosevelt.
4) Ngôi
thứ trong gia đình:
Thí
dụ: Cô Bảy, Bác Ba, Bà Cả Tề, Thím Năm, Cô Ba Bến
Tre, Cô Năm Phỉ, Út Trà Ôn.
5) Địa
danh, dinh thự, công viên, thành phố, quận:
Thí
dụ: Thành Phố Đà Lạt, Dinh Độc Lập, Phủ Thủ Hiến,
Phủ Thủ Tướng, Tòa Thị Chính Nha Trang, Công Viên Tao
Đàn, Vườn Hoa Con Cóc, Vườn Hoa Chéo, Công Viên Tao Đàn,
Chùa Hương Tích, Thành Phố Hải Phòng, Quận Hương Điền,
Quận Châu Thành Mỹ Tho, Xã An Hội …
5) Bến,
cảng, phi trường:
Thí
dụ: Phi Trường Tân Sơn Nhất, Ga Hàng Cỏ, Bến Vân Đồn,
Bến Sáu Kho, Bến Đò Bính, Bến Đò Lèn, Bến Nhà Rồng,
Cảng Hải Phòng
6) Đường:
Thí
dụ: Đường Trần Hưng Đạo, Xa Lộ Biên Hòa, Quốc Lộ
1, Liên Tỉnh Lộ 7, Hương Lộ 8…
7) Chợ:
Thí
dụ: Chợ Bến Thành, Chợ Đồng Xuân, Chợ Tân Định,
Chợ Bà Chiểu, Chợ Lớn, Chợ Huyện Thanh Vân…
8) Núi,
đèo, cửa ải:
Thí
dụ: Núi Hoàng Liên Sơn, Núi Sam, Núi Ba Vì, Núi Ngũ Hành,
Núi Ông Voi, Núi Ngự, Đèo Hải Vân, Đèo Cả, Ải Nam
Quan…
9) Sông,
thác, hồ, suối:
Thí
dụ: Sông Hồng, Sông Mã, Sông Chu, Sông Hương, Hồ Hoàn
Kiếm, Hồ Than Thở, Hồ Ba Bể, Thác Bản Giốc, Suối
Giải Oan…
10) Vịnh,
biển, đảo:
Thí
dụ: Vịnh Hạ Long, Vịnh Cam Ranh, Rạch Cái Cối, Vũng Rô,
Quần Đảo Hoàng Sa, Quần Đảo Trường Sa, Đảo Tây Sa,
Côn Đảo, Hòn Bà, Hòn Chồng, Hòn Vọng Phu, Phá Tam Giang.
11) Ngày
tháng:
Thí
dụ: Tháng Giêng, Thứ Hai, nhưng mùa thu, mùa xuân (các mùa
lại không viết hoa)
12) Ngày
lễ:
Thí
dụ: Lễ Hai Bà Trưng, Tết Trung Thu, Tết Nguyên Đán, Tết
Đoan Ngọ, Ngày Thiếu Nhi Toàn Quốc, Ngày Quốc Tế Nhân
Quyền…
13) Nhóm,
hội đoàn:
Thí
dụ: Nhóm Sáng Tạo, Nhóm Ngàn Lau, Hội Đua Ngựa Phú Thọ,
Hội Y Sĩ Việt Nam tại Hoa Kỳ, Hội Ái Hữu Gò Công, Câu
Lạc Bộ Lướt Sóng, Môn Phái Vovinam, Môn Phái Thiếu Lâm,
Trường Phái Siêu Thực, Trường Phái Dã Thú, Trường
Phái Ấn Tượng.
14) Ban
nhạc:
Thí
dụ: Ban Thăng Long, Ban Tiếng Tơ Đồng, Ban The Rolling
Stone, Đoàn Cải Lương Hương Mùa Thu, Đoàn Thoại Kịch
Tiếng Chuông Vàng.
15) Báo
chí, tựa đề các cuốn sách, thơ, bài báo, vở kịch,
bức hoạ, bản nhạc, truyện, cuốn phim và tựa đề của
một bài viết:
Thí
dụ: Nam Phong Tạp Chí, Tạp Chí Bách Khoa, Nhật Báo Người
Việt, Đoạn Tuyệt, Thơ Vũ Hoàng Chương, Truyện Kiều,
Kịch Lôi Vũ, Trường Ca Con Đường Cái Quan, Cầu Sông
Qwai…
16) Thánh
thần và kinh sách:
Thí
dụ: Trời, Phật, Chúa, Đức Thánh Trần, Bà Chúa Liễu
Hạnh, Mẹ Âu Cơ, Kinh Kim Cang, Kinh Thi, Kinh Lễ, Kinh Xuân
Thu, Kinh Coran, Kinh Cựu Ước..
17) Miền,
vùng của một đất nước (nhưng không phải để
chỉ phương hướng). Thí dụ:
Miền
Nam, Miền Bắc, Miền Trung, Vùng Cao Nguyên, Miền Tây, Vùng
Tây Bắc, Bắc Bình Định…
18)
Các biến cố lịch sử, tài liệu, mốc thời gian:
Thí
dụ: Cuộc Cách Mạng Kỹ Nghệ, Đệ II Thế Chiến, Thời
Kỳ Chiến Tranh Lạnh…
Thời
Kỳ Bắc Thuộc, Thời Kỳ Trịnh – Nguyễn Phân Tranh,
Thời Kỳ Phục Hưng, Nhà Hậu Lê, Bình Ngô Đại Cáo…
19) Ngôn
ngữ, chủng tộc, quốc tịch, tôn giáo:
Thí
dụ: Anh Ngữ, Pháp Ngữ, Hoa Ngữ, Nhật Ngữ, Việt Ngữ
Thái,
Nùng, Dao, Mèo, Kinh, Thượng, Mường, Ra-Đê, Việt, Hoa
v.v…
Việt
Tịch, Pháp Tịch, Ấn Tịch…
Phật
Giáo, Thiên Chúa Giáo, Ấn Độ Giáo, Hồi Giáo, Do Thái
Giáo…
20) Tên
các con tàu, xe lửa, máy bay hoặc nhãn hiệu xe hơi:
Thí
dụ: Tuần Dương Hạm Yết Kiêu, Khu Trục Hạm Vạn Kiếp,
Hàng Không Mẫu Hạm Trần Hưng Đạo…La Dalat, Citroyen,
Toyota v.v…
Thiên
Lôi (Thunderchief), Con Ma (Phantom)
21) Chữ
đầu của câu trích dẫn:
Thí
dụ: Trần Bình Trọng dõng dạc nói, “Ta thà làm quỷ
nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc.”
Xin
quý vị nào nghiên cứu về văn phạm Việt Nam đóng góp
thêm ý kiến để sau này có thể hình thành một quy tắc
viết hoa thống nhất cho văn chương Việt Nam.
Đào
Văn Bình
(Trích Tuyển
Tập 20 Năm Viết Văn xuất bản năm 2004)
.
,
.
,
No comments:
Post a Comment