Nguyễn
Quang Dy
Viet-studies
23-7-2014
Tháng
5/2014, Hà Nội nóng bỏng bất thường ngay đầu hè. Rõ ràng Trung Quốc góp phần
làm cho trái đất nóng lên. Đặc biệt Biển Đông càng nóng bỏng hơn. Trung Quốc
đăt dàn khoan khổng lồ HD 981 taị vùng biển của Việt Nam từ đầu tháng 5 để
tranh cướp chủ quyền, thổi bùng lên làn sóng chống Trung Quốc ở Việt Nam và
khắp khu vực.
Nghịch
lý yêu-ghét trong lịch sử quan hệ Việt-Trung đầy bi kịch thường dẫn đến xung
đột lợi ích quốc gia, kể cả chiến tranh. Năm 1979 Trung Quốc đã xâm lược Việt
Nam trong cuộc chiến biên giới đẫm máu, sau ba thập kỷ gắn bó như “môi với
răng” vì cùng chung ý thức hệ. Liệu lịch sử có lặp lại lần nữa tại Biển Đông?
Nước cờ tiếp theo của Trung Quốc là gì? Liệu Trung Quốc có xô đẩy Việt Nam vào
vòng tay người Mỹ, giống như vào vòng tay người Nga năm 1979? Việt Nam phải làm
gì để có thể sống yên ổn bên cạnh người láng giềng khổng lồ?
*
Bối cảnh
lịch sử
Không
có bạn thù vĩnh viễn, chỉ có lơi ích vĩnh viễn
Napoleon
Bonaparte đã từng nói, “Trung Quốc là gã khổng lồ đang ngủ. Hãy để cho nó ngủ
yên, vì khi thức dậy nó sẽ làm đảo lộn thế giới”. Người Mỹ đã không nghe lời
khuyên đó. Họ đã giúp gã khổng lồ trỗi dậy bằng chính sách “can dự xây dựng”.
Nhưng họ đã đi quá đà nên bây giờ bắt đầu ân hận, phải tìm cách ngăn chặn sự
trỗi dậy hung hăng của nó. Kế hoạch “xoay trục” và TPP (Tran-Pacific
Partnership) để “tái cân bằng” sự trỗi dậy của Trung Quốc làm ta nhớ lại thập
niên 1950 và 1960 khi Mỹ dùng SEATO (South East Asia Treaty Organization) để
ngăn chặn nguy cơ Trung Cộng. Hình như lịch sử đang lặp lại, nhưng với trò chơi
mới và luật chơi mới.
Ông
Kissinger được ghi nhận là kiến trúc sư của Chính sách Trung Quốc, đã có công
giúp Trung Quốc trỗi dậy, theo tầm nhìn của ông ta về một trật tự thế giới
trong đó Trung Quốc liên minh với Mỹ để chống Liên Xô. Ông ta đã bí mật dàn xếp
với người Trung Quốc để đưa Tổng thống Nixon sang Trung Quốc bắt tay Mao Chủ tịch
và ký Thông cáo chung Thượng Hải (năm 1972). Theo thỏa thuận, Mỹ sẽ bỏ rơi Nam
Việt Nam, thỏa hiệp về chủ quyền Đài Loan, hợp tác giúp Trung Quốc thực hiện
“bốn hiện đại hóa”, đánh đổi lấy việc Mỹ sẽ rút quân dần khỏi Nam Viêt Nam
“trong danh dự”, và lập một liên minh “trên thực tế” chống Liên Xô.
Sau
đó ông Brzezinski (Cố vấn An ninh Quốc gia của Tổng thống Carter) đã tiếp tục
Chính sách Trung Quốc bằng thỏa thuận ngầm với ông Đặng Tiểu Bình để Trung Quốc
xâm lược Việt Nam (1979) và ngầm ủng hộ Khmer Đỏ trong chính phủ liên hiệp ở
Campuchea. Việt Nam đã trở thành con tốt trong ván bài nước lớn bất lương này,
bị xô đẩy vào vòng tay người Nga (1978-1979). Như vậy người Trung Quốc phải
mang ơn ông Kissinger về cơ hội trỗi dậy, với sự ủng hộ của ông ta và “China
Lobby”. Có điều ông Kissinger không biết (hoặc không quan tâm) liệu Trung Quốc
có giữ lời hứa sẽ trỗi dậy “trong hòa bình” và không “động tới quyền lợi của
Mỹ” và đồng minh của Mỹ ở Đông Á hay không.
Có
lẽ người Mỹ đã hơi ngây thơ hoặc ảo tưởng và ngộ nhận về sự trỗi dậy hòa bình
của Trung Quốc mà không tính kỹ những nguy cơ tiềm ẩn. Việc Trung Quốc sẽ trở
mặt bắt nạt các nước láng giềng và thách thức Mỹ chỉ là vấn đề thời gian. Ngay
cả khi người Mỹ đã “xoay trục” sang Đông Á để ngăn chặn nguy cơ Trung Quốc,
dường như họ vẫn chưa thoát ra khỏi cái bóng của ông Kisinger. Những gì đang
diễn ra là quá ít và quá muộn để răn đe Trung Quốc và bảo vệ quyền lợi của Mỹ
cũng như đồng minh ở khu vực. Người Nhật bây giờ mới tỉnh ngộ và đang vội vã
sửa lại hiến pháp để đối phó với Trung Quốc, trong khi các nước khác ở khu vực
(như ASEAN) thì hoang mang, bối rối, và bị Trung Quốc phân hóa.
Năm
1979, Trung Quốc xâm lược Việt Nam để “dạy một bài học”, sau khi Việt Nam xâm
lược Campuchea để đánh Khmer Đỏ là đồng minh của Trung Quốc. Thực chất, Trung
Quốc đánh Việt Nam chủ yếu là để gây ấn tượng với người Mỹ rằng Trung Quốc là
một đối tác tin cậy trong liên minh chống Liên-Xô và Việt Nam. Đối với ông Đặng
Tiểu Bình, sự hỗ trợ của Mỹ để thực hiện “bốn hiện đại hóa” mới là mục tiêu
chính để giúp Trung Quốc trỗi dậy. Mọi chuyện khác đều là thứ yếu, chỉ là
phương tiện. Đối với lãnh đạo Việt Nam, Trung Quốc trở thành “kẻ thù trực tiếp
và nguy hiểm”, nên phải liên minh với Liên Xô để chống Trung Quốc.
Phải
mất hơn một thập kỷ Việt Nam mới bình thường hóa được quan hệ với Trung Quốc,
sau cuộc gặp cấp cao bí mật tại Thành Đô (9/1990) với phương châm “16 chữ vàng”
(láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai).
Điều này đã diễn ra đúng như lời tiên đoán trước đây của ông Đặng Tiểu Bình là
Việt Nam sẽ phải quay đầu lại với Trung Quốc. Lý do chính Việt Nam phải quay
lại là bức tường Berlin và chủ nghĩa cộng sản đã xụp đổ, cùng với sự tan rã của
Liên Xô. Lãnh đạo Việt Nam đã hoảng hốt lo mất chính quyền, nên vội vã làm lành
với lãnh đạo Trung Quốc bằng mọi giá, dù phải hy sinh lợi ích quốc gia sống
còn, để cứu vãn một ý thức hệ và thể chế chính trị đã lỗi thời.
Thỏa
thuận Thành Đô là một sai lầm chiến lược to lớn và một bước ngoặt bất hạnh cho Việt
Nam, làm cố ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch phải cay đắng nhận xét, “một thời kỳ
bắc thuộc mới đầy nguy hiểm đã bắt đầu”. Lãnh đạo Viêt Nam đã dại dột chui vào
bẫy ý thức hệ của Trung Quốc, trở thành con tin để họ thao túng, đến tận bây
giờ. Suốt hai thập kỷ tiếp theo, các thế hệ lãnh đạo Việt Nam đã buộc phải theo
cam kết Thành Đô, như con tin mắc bẫy, với cái giá phải trả ngày càng cao. Qua
nhiều năm, Trung Quốc đã lặng lẽ cài cắm một mạng lưới sâu rộng gồm tay sai và
người ủng hộ họ trong nội bộ Việt Nam, từ trung ương đến các địa phương, để tác
động vào các quyết sách quan trọng, không chỉ liên quan đến các vấn đề kinh tế
và chính trị, mà còn cả quân sự và an ninh. Bản chất quan hệ Viêt-Trung bất
bình đẳng, dựa trên lòng trung thành mù quáng về ý thức hệ, là nguyên nhân
chính đã kìm hãm cải cách kinh tế và ngăn cản đổi mới chính trị ở Viêt Nam
trong suốt hai thập kỷ qua.
Nay
một bước ngoặt mới lại xuất hiện khi Trung Quốc đột nhiên kéo dàn khoan khổng
lồ HD 981 đặt tại vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam ở Biển Đông từ đầu tháng
5, làm lãnh đạo Việt Nam bất ngờ, choáng váng, làm xụp đổ ảo tưởng của họ khi
Trung Quốc đã công khai trở mặt, vứt bỏ “16 chữ vàng”. Dàn khoan HD 981 không
phải chỉ để khoan dầu, mà còn để khẳng định chủ quyền tại vùng biển tranh chấp
mà Trung Quốc đơn phương tuyên bố là “lợi ích cốt lõi” của mình. Thực tế dàn
khoan HD 981 là một loại “vũ khí dân sự” để cưỡng đoạt chủ quyền, còn hiệu quả
hơn cả hàng không mẫu hạm “Liêu Ninh”. Trung Quôc không bỏ lỡ cơ hội Mỹ và các
nước NATO đang bận đối phó với Nga về vấn đề Ukraine, để tăng cường hợp tác với
Nga vì nhu cầu năng lượng lẫn địa chính trị. Họ học ngay bài học Nga chiếm
Crimea như một chuyện đã rồi, để lấn chiếm Biển Đông bằng dàn khoan khổng lồ HD
981, nhằm thử phản ứng của Viêt Nam, ASEAN, Mỹ và các nước khác, chuẩn bị cho
nước cờ tiếp theo.
Tình
hình quốc nội
Con
hổ mới đã biến thành con mèo ốm yếu
Trong
khi Trung Quốc trỗi dậy, trở thành cường quốc kinh tế thứ hai thế giới, thì
Việt Nam lại tụt hậu, không cất cánh lên được. Các tổng công ty lớn của nhà
nước theo “định hướng XHCN” là trụ cột nền kinh tế, nhưng đã thua lỗ nặng và
trở thành những con nợ khổng lồ. Thành quả cải cách kinh tế gần hai thập kỷ đầy
ấn tượng nay đã tan thành mây khói, vì nạn tham nhũng, quản lý tồi, và bị các
nhóm lợi ích thao túng trong một cơ chế thân hữu. Các nhóm lợi ích tham lam
chiếm đất của nông dân làm dự án, câu kết với quan tham và xã hội đen đàn áp
dân nghèo, gây nên một làn sóng bất bình khắp nơi, có nguy cơ làm bất ổn định
xã hội. Nhiều công nhân tại các doanh nghiệp FDI ở các khu công nghiệp biểu
tình đòi tăng lương và cải thiện điều kiện sống, nhưng không được giới chủ đáp
ứng tích cực nên đầy bức xúc, dễ bị kẻ xấu lợi dụng kích động gây rối, như các
vụ bạo động chống Trung Quốc gần đây đã chứng minh.
Thất
bại kinh tế và bất ổn xã hội đã thúc đẩy nhanh khủng hoảng chính trị và lãnh
đạo. Các phe phái cầm quyền tranh giành quyền lực ngày càng quyết liệt, làm
phân hóa nội bộ lãnh đạo và tê liệt năng lực quản trị đất nước, tới mức khủng
hoảng. Đấu tranh quyền lực quyết liệt giữa phe chính phủ do Thủ tướng đứng đầu
với phe đảng do Tổng Bí thư đứng đầu, đã diễn ra tại hầu hết các hội nghị trung
ương trong năm 2013, cho tới khi tạm thời lắng xuống vào cuối năm do không phân
thắng bại phải hòa hoãn. Nay sự kiện dàn khoan HD 981 và khủng hoảng trong quan
hệ Việt-Trung đã làm gia tăng tranh giành quyền lực, có lợi thế cho Thủ tướng
(lên tiếng chống Trung Quốc, nên được dân ủng hộ) và bất lợi cho Tổng Bí thư
(im hơi lặng tiếng, nên mất lòng dân). Tuy Việt Nam có cơ hội để thay đổi cơ
bản, nhưng lãnh đạo lại chia rẽ vì xung đột lợi ích trước sự đe dọa của Trung
Quốc.
Gần
bốn thập kỷ sau chiến tranh Việt Nam, trong khi người Việt và người Mỹ về cơ
bản đã hòa giải xong, thì cộng đồng người Việt trong nước và ngoài nước vẫn
chưa hòa giải được. Nội chiến thường để lại những vết thương tâm lý và tinh
thần sâu nặng hơn. Chừng nào trong lòng còn hận thù và thành kiến, thì không
những khó hòa giải, mà còn dễ làm phân hóa cuộc đấu tranh chung cho tự do dân
chủ và chủ quyền quốc gia. Những người cộng sản cực đoan là những người độc
tài, nhưng những người chống cộng cực đoan cũng chẳng khác gì. Vì vậy, chủ
nghĩa cực đoan là kẻ thù tiềm ẩn của hòa giải dân tộc và chấn hưng quốc gia.
Tình
hình quốc tế
Con
sói cô độc
Việt
Nam tuyên bố chính sách đa phương hóa quan hệ và có “đối tác chiến lược” với
hơn 10 nước (nhưng chưa có Mỹ). Lúc này, chẳng đối tác chiến lược nào (ngoài
Mỹ) có thể giúp Viêt Nam răn đe Trung Quốc để tránh bị bắt nạt. Trước hành động
xâm chiếm của Trung Quốc tại Biển Đông, chính phủ nhiều nước tuy bất bình,
nhưng không dám công khai ủng hộ Viêt Nam sợ làm mất lòng Trung Quốc. Năm 1979,
khi bị Trung Quốc tấn công, Việt Nam có hiệp ước liên minh quân sự với Liên-Xô
để răn đe Trung Quốc. Nhưng hiện nay Việt Nam hoàn toàn cô độc, không có liên
minh quân sự với một nước nào (khác với quan hệ của Mỹ với Nhật, Hàn Quốc, và
Philippines). Viêt Nam đã cố giữ cân bằng quan hệ với Trung Quốc và Mỹ bằng
chính sách “Ba Không”: không tham gia liên minh quân sự với nước nào, không cho
nước nào đặt căn cứ quân sự, và không dựa vào nước này để chống nước kia. Nếu
Việt Nam không thay đổi chính sách cân bằng thụ động này, thì làm sao tự bảo vệ
được mình? Viet Nam đang đối mặt với một cuộc khủng hoảng kép: vừa thất bại về
kinh tế vừa bị Trung Quốc đe dọa chủ quyền.
Chính
sách “xoay trục” của Mỹ sang Đông Á chưa có hiệu lực răn đe Trung Quốc. Bằng
việc đưa dàn khoan HD 981 đến Biển Đông, Trung Quốc đã qua mặt Mỹ, ngay sau khi
Tổng thống Obama đến thăm Đông Á. Phản ứng của Mỹ đối với Trung Quốc chưa đủ
mạnh, vì Việt Nam khác với Philippines. Quan hệ “đối tác toàn diện” với Mỹ phải
nâng lên thành “đối tác chiến lược”, bao gồm bán vũ khí sát thương, tập trận
chung, và sử dụng căn cứ quân sự tại Cam Ranh (như Philippines và Singapore đã
làm với Mỹ). Nhưng thể chế chính trị độc tài của Viêt Nam, với hồ sơ nhân quyền
xấu vì đàn áp tự do dân chủ, là trở ngại chính đối với việc nâng cấp quan hệ
với Mỹ. Viêt Nam cũng khó hòa nhập sâu hơn vào thị trường thế giới (WTO và TPP)
vì vẫn bám giữ “định hướng XHCN” và chậm chuyển đổi hẳn sang kinh tế trị
trường.
Phản
ứng của ASEAN đối với sự kiện HD 981 cũng khá yếu. Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN
(10/5/2014 tại Myanmar) ra được tuyên bố chung nhưng không dám nêu đích danh
Trung Quốc. ASEAN là một tổ chức lỏng lẻo gồm nhiều nước có thành phần đa dạng,
dễ bị Trung Quốc phân hóa và vô hiệu hóa. Bó đũa ASEAN đang bị Trung Quốc tách
ra để bẻ gãy từng chiếc, nếu không đoàn kết trong một cộng đồng mạnh hơn. Trong
nhiều năm, ASEAN đã không ép được Trung Quốc ký COC (quy tắc ứng xử) tại Biển
Đông. ASEAN không có cơ chế an ninh tập thể nên không thể can thiệp để bảo vệ
các nước thành viên, kể cả khi bị đe dọa.
Căng
thẳng và xung đột trong khu vực đã thúc đẩy nhiều nước chạy đua vũ trang. Việt
Nam trở thành khách hàng lớn mua vũ khí của Nga. Nhưng điều này dẫn đến hai
nguy cơ lớn: Một là, chi phí quốc phòng tăng lên trong khi kinh tế suy thoái sẽ
đặt Viêt Nam vào thế tiến thoái lưỡng nan; Hai là, Việt Nam sẽ bị hở sườn nếu
Trung Quốc và Nga nâng cấp đối tác chiến lược để đối phó với Mỹ (như đang diễn
ra hiện nay). Nếu Việt Nam nâng cấp quan hệ với Mỹ thành đối tác chiến lược
(như dự kiến), thì các hệ thống vũ khí hiện đại mua của Nga có thể không còn an
toàn để chống Trung Quốc nữa (đặc biệt là hợp đồng mua 6 tàu ngầm Kilo class
636 và mua thêm 12 máy bay chiến đầu Su-30MK2 còn đang trong quá trình chuyển
giao). Vì vậy, việc Mỹ bỏ cấm vận vũ khí sát thương là rất quan trọng đối với
Việt Nam lúc này.
Nước cờ
tiếp theo
Tiếp
tục “Tam chủng Chiến pháp”
Sự
kiện Trung Quốc đưa dàn khoan HD 981 vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam và
bạo loạn chống Trung Quốc tại Bình Dương và Vũng Áng là lời cảnh báo về những
tử huyệt của Viêt Nam. Nhưng nếu lãnh đạo Hà Nội vẫn không tỉnh ngộ để tìm cách
thoát khỏi cái bẫy ý thức hệ và dũng cảm đối phó với thực tế mới, thì Trung
Quốc sẽ tiếp tục thao túng những tử huyệt này để đạt được mục đích, mà chẳng
cần chiến tranh.
Trung
Quốc đã lợi dụng tử huyệt của lãnh đạo Viêt Nam để dùng dàn khoan HD 981 lấn
chiếm chủ quyền tại Biển Đông như chuyện đã rồi, để thử phản ứng các bên liên
quan. Người ta nghi ngờ tay sai của Trung Quốc tại Việt Nam đã ngầm xúi giục
công nhân gây bạo loạn tại Bình Dương, Vũng Áng và những nơi khác để Trung Quốc
lấy cớ rút người và đầu tư, và để các nhà đầu tư Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản
sợ không dám đầu tư. Việc này nhằm gây sức ép để chính phủ Việt Nam tiếp tục
trấn áp biểu tình chống Trung Quốc. Ngoài ra Trung Quốc có thể dùng những đòn
bẩy khác để gây bất ổn cho xã hội Viêt Nam, như dùng mạng lưới tay sai cài cắm
trong nội bộ chính quyền và cộng đồng để tác động vào các sự kiện, dùng biện
pháp tài chính thương mại để thao túng thị trường, dùng chiến tranh mạng để gây
nhiễu, dùng truyền thông để tác động vào dư luận, và dùng công cụ pháp lý để
lật lại vấn đề. Đây là một phần của học thuyết “Tam chủng Chiến pháp” (Chiến
tranh tâm lý, truyền thông và pháp lý) mà lãnh đạo của họ đã thông qua từ năm
2003. Trong khi chính phủ Việt Nam chưa dám nộp đơn kiện, thì ngày 9/6, Trung
Quốc đã bất ngờ đệ trình Tổng Thư ký Liên Hiệp Quốc một tài liệu chính thức về
quan điểm đối với tranh chấp tại Biển Đông để lưu chuyển cho tất cả 193 thành
viên LHQ.
Phản
ứng của lãnh đạo Viêt Nam quá chậm và im hơi lặng tiếng, trừ thủ tướng Nguyễn
Tấn Dũng đã có những tuyên bố kịp thời và mạnh mẽ về hành động hiếu chiến của
Trung Quốc, tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN ở Myanmar (10/5) và tại Diễn đàn
Kinh tế Thế giới về Đông Á ở Manila (22/5), ghi điểm cao và nổi bật trước các
đối thủ chính trị khác. Trước mắt, Thủ tướng đã giành lại được sự ủng hộ của
dân chúng và chính danh của người lãnh đạo quốc gia cho sứ mạng bảo vệ
chủ quyền. Điều này là thiết yếu trong cuộc chạy đua vào vị trí số một tại Đại
Hội Đảng tới. Sự kiện này đã tạo ra một bước ngoặt làm phân hóa nội bộ lãnh đạo
Việt Nam, có thể đảo lộn những toan tính trước đó về sắp xếp nhân sự. Đây là cơ
hội tốt để Thủ tướng khẳng định vị thế chính trị, và tạo ra những thay đổi cơ
bản về chính trị và đối ngoại. Nhưng điều này còn phụ thuộc vào lòng dũng cảm
và thành tâm chính trị của người lãnh đạo.
Phản
ứng của dân chúng quá nhanh và mạnh. Có lẽ hơi quá bồng bột để “các thế lực thù
địch” lợi dụng gây bạo loạn tại Bình Dương, Vũng Áng và các nơi khác, làm mất
uy tín Việt Nam và phá hoại nền kinh tế đang khủng hoảng. Nếu chính phủ biết
cách khắc phục hậu quả, hy vọng tác động tiêu cực đến đầu tư FDI, như rút người
rút vốn, chỉ là nhất thời. Sau lúng túng ban đầu, chính phủ đã có những biện
pháp mạnh hơn để đối phó. Nhưng đừng quá mạnh tay với dân chúng và nhẹ tay với
bọn đầu sỏ thủ phạm, vì đó là dấu hiệu họ đứng về phía nào. Đây là cơ hội tốt
để các lực lượng yêu nước tập hợp, vì hòa giải và đoàn kết dân tộc, để bảo vệ
chủ quyền quốc gia. Đây cũng là thời điểm tốt để phe cải cách lật ngược bàn cờ
chính trịvà giành lại thế thượng phong. Nhưng sau chuyến thăm của Dương Khiết
Trì (18/6/20014), hình như cả hai phái lãnh đạo Việt Nam vẫn lúng túng và bất
lực, chưa dám hành động.
Tuy
phe bảo thủ thân Trung Quốc bị choáng váng, hoang mang và mất thể diện, nhưng
họ vẫn nắm quyền quyết định. Việc Ngoại trưởng Phạm Bình Minh phải hoãn chuyến
đi Mỹ theo lời mời của Ngoại trưởng John Kerry (22/5), và những phát biểu yếu
ớt của Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh tại Đối thoại Shangri-La 2014
(30/5) là những tín hiệu xấu, chứng tỏ lãnh đạo Việt Nam vẫn sợ Trung Quốc,
tiếp tục duy trì nguyên trạng về ý thức hệ, mặc dù nguy hại cho chủ quyền quốc
gia. Một khi Trung Quốc rút dàn khoan và tàu thuyền về, phe bảo thủ sẽ lại hồi
phục và thế cân bằng chính trị lại tiếp diễn. Kinh nghiệm cho thấy, chỉ có thể
thay đổi cơ bản khi nào dân chúng thoát khỏi nỗi sợ để hòa giải và đoàn kết dân
tộc thành sức mạnh nhân dân, tạo sự đột phá bằng quá trình thay đổi từ dưới
lên, chứ không phải chỉ từ trên xuống. Giai đoạn Đổi mới (1986-1990) là một bài
học về quá trình thay đổi từ trên xuống bị chết yểu khi chính quyền đột nhiên
quyết định đóng cửa.
Phản
ứng quốc tế mạnh hơn trước, nhưng chưa đủ mạnh để răn đe Trung Quốc. Không nên
ảo tưởng là quốc tế luôn ủng hộ Viêt Nam chống Trung Quốc, vì thế lực Trung
Quốc quá lớn và quá mạnh, bàn tay của họ quá dài vươn ra khắp nơi. Viêt Nam
phải thay đổi thái độ chính trị để có bộ mặt tử tế hơn Trung Quốc, vì không ai
muốn ủng hộ một chế độ độc tài tham nhũng, với hồ sơ nhân quyền quá xấu. Đây là
cơ hội tốt để Việt Nam nâng cấp quan hệ với Mỹ thành đối tác chiến lược để đối
phó với Trung Quốc. Nhưng đừng quá ảo tưởng vào “lá bài Mỹ” (cũng như “lá bài
Nga” trước đây). Chủ trương “xoay trục” và trò chơi TPP của Mỹ còn đang diễn
biến. Đối với Washington, Trung Quốc quan trọng hơn nhiều so với Việt Nam. Hơn
nữa, Mỹ còn đang sa lầy tại Trung Đông và dính líu tại Ukraine, trong khi phải
đối phó với ngân sách quốc phòng bị cắt giảm và xu hướng trong nước muốn co
lại. Trong bài diễn văn về đối ngoại dài 9 trang tổng thống Obama đọc tại West
Point (28/5/2014) chỉ có mấy dòng mờ nhạt đề cập đến tranh chấp trên biển tại
khu vực này, trong đó chỉ nhắc đến Biển Đông và Trung Quốc hai lần, và không
nói gì đến Việt nam cũng như dàn khoan của Trung Quốc.
Trung
Quốc khó có khả năng duy trì quá lâu dàn khoan khổng lồ HD 981 và một đội tàu
hộ tống quá lớn tại Biển Đông. Đơn giản là quá tốn kém, dù cho bất kỳ lý do gì.
Trung Quốc có thể rút dàn khoan HD 981 vào giữa tháng 8 như dự kiến, hoặc thậm
chí sớm hơn nếu đã xong nhiệm vụ, hoặc nếu mùa mưa bão ập đến sớm hơn. Nhưng dù
sao, Trung Quốc sẽ không bao giờ bỏ cuộc, và sẽ sử dụng tối đa “chiến thuật dàn
khoan”. Họ có thể triển khai thêm nhiều dàn khoan tại những vị trí khác, và ráo
riết xây dựng hạ tầng chiến lược tại các bãi đá họ chiếm để đòi “vùng đặc quyền
kinh tế”, và “khu vực nhận dạng phòng không”. Trung Quốc sẽ “tùy cơ áp đặt” để
từng bước độc chiếm Biển Đông, nhưng tránh đối đầu quân sự với Mỹ. Nước cờ dàn
khoan của họ cho thấy nếu xung đột vũ trang xảy ra, nó sẽ xảy ra chớp nhoáng
trên biển, với những đòn tấn công chính xác của hải quân và không quân, để phát
huy ưu thế, nhằm đảm bảo thắng nhanh để Mỹ không kịp can thiệp. Trận hải chiến
tại Gạc Ma năm 1988 là một ví dụ.
Nhưng
khi hạm đội tàu ngầm Viêt Nam gồm 6 chiếc Kilo class 636 được bàn giao và sẵn
sàng hoạt động, với 12 máy bay chiến đấu Su-30MK2 mới bổ xung, Trung Quốc sẽ
khó tự do tung hoành ở Biển Đông. Đặc biệt, khi quan hệ với Mỹ được nâng cấp
thành “đối tác chiến lược”, bao gồm bán vũ khí sát thương và tập trận chung với
Hạm đội 7, và nhất là sau khi Nhật Bản chuyển giao đội tàu tuần duyên loại
Bizan cho cảnh sát biển Việt Nam, thì tư thế phòng thủ của Viêt Nam ở Biển Đông
sẽ được cải thiện đáng kể. Tuy Trung Quốc không muốn xô đẩy Viêt Nam vào vòng
tay người Mỹ, nhưng hành động ngang ngược mới của họ có thể làm thay đổi cục
diện, dẫn đến những hệ quả không mong muốn.
Trung
Quốc có những phương án khác trong chiến lược vươn ra biển khơi của mình. Nếu
lối ra Ấn Độ Dương của họ bị ngăn chặn vì những thay đổi gần đây ở Miến Điện,
với sự gia tăng ảnh hưởng của Mỹ tại đây, Trung Quốc phải tìm lối ra Vịnh
Thailand và xa hơn nữa. Vì những lý do kinh tế và địa chính trị, Trung Quôc
phải kết nối các tỉnh phía Nam với biển khơi bằng một hành lang trong đất liền
như một tuyến đường huyết mạch đi qua mấy nước láng giềng, để đối phó với chiến
lược “bao vây trên biển” của Mỹ nhằm phong tỏa Trung Quốc tại các điểm yết hầu
trên biển. Gần đây, Trung Quốc đã giành được một số dự án lớn ở Lao, Campuchea
và Thailand, để xây dựng những cơ sở giao thông và hậu cần có giá trị cao, bao
gồm các hệ thống đường sắt, đường cao tốc, đường sông, sân bay, trạm ra đa, hải
cảng và kho tàng.
Việc
Trung Quốc triển khai dàn khoan khổng lồ HD 981 và đội tàu hộ tống rất lớn tại
đây là một phần của kế hoạch nhằm độc chiếm Biển Đông, và kiểm soát các đường
hàng hải huyết mạch, bằng cách triển khai học thuyết A2/AD
(anti-access/area-denial) mà Mỹ và các đồng minh rất quan ngại. Gã khổng lồ đói
năng lượng tất nhiên thèm khát tài nguyên ở Biển Đông, bao gồm 11 tỷ thùng dầu
và 190 nghìn tỷ mét khối (Anh) khí đốt (theo đánh giá của US Energy Information
Administration) hoặc 17 tỷ thùng dầu và 498 nghìn tỷ mét khối khí đốt (theo
đánh giá của China National Offshore Oil Corporation). Nhưng, Trung Quốc còn muốn
kiểm soát cả đường hàng hải, vì hơn 5 nghìn tỷ USD hàng hóa hàng năm phải qua
đây (gồm 3/4 số dầu Trung Quốc nhập khẩu và hầu hết số dầu chuyển đến Japan,
South Korea, và Taiwan). Vì tất cả hàng hóa của họ vận chuyển bằng đường biển
phải qua đây, nên Trung Quốc rất lo ngại chiến lược “Kiểm soát Ngoài khơi”
(Offshore Control) của Mỹ nhằm bảo vệ “Vành đai các đảo tiền tiêu” (First
Islands Chain) và dùng các điểm yết hầu như eo Malacca hay Lombok để chặn đường
xuất nhập khẩu của Trung Quốc. Vì vậy, trong khi Trung Quốc tìm kiếm các con
đường bộ khác (qua Lao, Campuchea, Thailand), họ phải kiểm soát bằng được Biển
Đông.
Điều
một dàn khoan trị giá gần một tỷ đô la đến Biển Đông, với hơn một trăm tàu hộ
tống các loại vây quanh trong mấy tháng liền, chi phí mỗi ngày gần một triệu đô
la, Trung Quốc không chỉ nhằm một mục đích. Nếu không phải chủ yếu để khoan dầu
như dư luận nghi vấn, thì nó phải có một nhiệm vụ gì khác quan trọng hơn. Dàn
khoan này có thể được dùng để đánh lạc hướng dư luận trong khi họ lặng lẽ xây
dựng đảo nhân tạo và căn cứ quân sự tại các bãi đá ở Trường Sa, nhằm áp đặt
“đường lưỡi bò” (như chuyện đã rồi), tuyên bố “khu vực nhận dạng phòng không”
(ADIZ) và đòi “vùng đặc quyền kinh tế” (EEZ) như tại Hoàng Sa. Nếu đúng Trung
Quốc đang đóng thêm một dàn khoan khổng lồ thứ hai (HD 982) như tin đồn, thì
việc sử dụng dàn khoan khổng lồ có công năng kép này chứng tỏ là một công cụ
chiến lược hiệu quả, vừa để khoan dầu vừa để khẳng định chủ quyền.
Vì
vậy, điều quan trọng là phải quan sát thật kỹ xem Trung Quốc đang lặng lẽ làm
gì tại các địa điểm chiến lược khác ở Biển Đông, cũng như ở Viet Nam, Lào,
Campuchea, và Thailand (từ sau đảo chính). Các công trình đang được xây dựng ở
Trường Sa (như đường băng trên bãi đá Gac Ma, đảo nhân tạo và căn cứ quân sự
trên bãi đá Chữ Thập) sẽ được kết nối với căn cứ hải quân Du Lâm tại đảo Hải
Nam và đảo Tam Sa tại Hoàng Sa. Theo đường chim bay, căn cứ Du Lâm chỉ cách đặc
khu kinh tế Vũng Áng hơn 350km. Mấy nghìn công nhân Trung Quốc đang làm việc
tại Vũng Áng (Hà Tĩnh, Miền Trung), tại dự án Bô xít Tân Rai và Nhân Cơ (Tây
Nguyên) là một rủi ro lớn về an ninh. Nếu có chiến sự, Trung Quốc dễ dàng cắt
đôi Việt Nam tại điểm xung yếu này. Về phía Tây có tuyến đường sắt cao tốc Côn
Minh-Vientiane (Lào), các căn cứ tại Koh Kong và Bokor (Campuchea), kênh đào
Kra Isthmus (Thailand). Một khi các cơ sở chiến lược này hoàn thành và được kết
nối, thì Trung Quốc có thể vô hiệu hóa kế hoạch “xoay trục” của Mỹ nhằm ngăn
chặn Trung Quốc, và dễ dàng khống chế Việt Nam. Họ chỉ cần hăm dọa, cưỡng ép và
bắt chẹt cũng đạt được mục đích, mà không cần phải đánh, vì lúc đó mọi sự kháng
cự của Việt Nam là quá yếu ớt và quá muộn…
Năm
1973 “cú sốc dầu hỏa” làm Nhật Bản được một bài học nhớ đời, phải vội vã điều
chỉnh chiến lược năng lượng, nên bị thiên hạ gọi là “quái vật kinh tế”. Trung
Quốc học bài rất nhanh, đã kịp thời bắt tay với Nga gần đây để đảm bảo nguồn
cung cấp năng lượng và lá bài địa chính trị trong trò chơi nước lớn mới. Trong
khi đó, Trung Quốc đã triển khai hung hăng hơn tại Biển Đông để tranh thủ giành
lợi thế do khoảng trống quyền lực tại đây vì ASEAN yếu và phân hóa, còn Mỹ và
các đồng minh đều vướng các vấn đề khác nên không thể hành động quyết đoán. Đây
là nước cờ có tính toán nhưng rất nguy hiểm vì Trung Quốc không chỉ là một
“quái vật kinh tế” khổng lồ đã vượt qua Nhật Bản, mà còn là một “quái vật được
vũ trang” đầy tham vọng, sẵn sàng thách thức các quyền lợi toàn cầu của Mỹ. Họ
không còn đủ kiên nhẫn để chơi theo luật chơi cũ. “Cú sốc dàn khoan” này là một
lời cảnh báo và một bước ngoặt mới, không chỉ đối với Việt Nam mà cho toàn khu
vực. Dù có kiềm chế, khả năng xảy ra xung đột vũ trang do sai sót kỹ thuật hay
con người, hoặc do trục trặc về truyền thông là rất lớn.
Làm thế
nào để “thoát Trung”
Phản
tỉnh dể thoát khỏi cái bẫy ý thức hệ
Quan
hệ Viêt-Trung phải dựa trên nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau và hai bên
cùng có lợi. Nhưng thực tế điều này không thể có giữa một nước nhỏ yếu với một
láng giềng khổng lồ, lại có truyền thống bá quyền đại Hán. Cách duy nhất là
Việt Nam phải độc lập và đủ mạnh để răn đe đối với Trung Quốc (như Israel đối
với các láng giềng lớn hơn).
Nhưng
muốn độc lập và mạnh, trước hết phải “thoát Trung” vì cái bẫy ý thức hệ đã trói
buộc và kìm hãm Viêt Nam trong hơn một nửa thế kỷ. Cơ hội “thoát Trung” tốt
nhất là khi Trung Quốc bi khủng hoảng và suy yếu (như thời Cách mạng Văn hóa).
Mô hình Trung Quốc trước đây đã thất bại (như đại nhảy vọt) và sắp tới cũng
không thể thành công (như Giấc mộng Trung Hoa), trừ phi có thay đổi chính trị
cơ bản (điều này rất khó). Đó là nghịch lý phát triển kiểu Trung Quốc. Gordon
Chang dự đoán “Trung Quốc sắp xụp đổ” trong khi Paul Krugman xác nhận “Trung
Quốc đang gặp rắc rối lớn”, vì đã đến điểm giới hạn. Ngày phán quyết của họ
đang đến gần. Vậy tại sao Việt Nam cứ đi theo Trung Quốc?
Muốn
“thoát Trung”, trước hết Việt Nam phải đổi mới tư duy, từ “trong cái hộp” phải
tư duy “ngoài cái hộp”. Người Việt phải học hỏi kinh nghiệm “thoát Á” của người
Nhật dưới thời Minh trị, theo tư tưởng đổi mới vĩ đại của Fukuzawa Yukichi
(1835-1901). Những nước Đông Á nào quyết tâm đổi mới tư duy để hiện đại hóa đất
nước, đều trở thành cường thịnh và có sức sống (như Nhật Bản, Hàn Quốc). Chỉ 2
hay 3 thập kỷ sau chiến tranh bị tàn phá lớn, họ đã chấn hưng được đất nước,
trở thành cường quốc kinh tế hàng đầu thế giới.
Trong
hơn một nửa thế kỷ qua, Viêt Nam đã xa lầy vào quỹ đạo ý thức hệ Trung Quốc hai
lần. Lần thứ nhất là từ khi biên giới hai nước thông thương (1950) để hai bên
“núi liền núi, sông liền sông”, gắn bó như “môi với răng”, và để chủ nghĩa Mao
tràn vào Viêt Nam, gây bao đại họa (như cải cách ruộng đất, tập thể hóa nông
nghiệp, đàn áp phong trào nhân văn Giai phẩm…). Lần thứ hai là tại gặp gỡ cấp
cao Thành Đô (9/1990) khi hai “anh em tử thù” lại đột nhiên ôm chầm lấy nhau
như các đồng chí “bốn tốt” với phương châm “16 chữ vàng”. Việt Nam đã bình
thường hóa quan hệ với Trung Quốc một cách “bất bình thường”, dại dột tự chui
đầu vào cái bẫy ý thức hệ của Trung Quốc, để bây giờ mới vỡ mộng khi Trung Quốc
công khai lộ bộ mặt thật. Hệ lụy nặng nề của sai lầm to lớn tại Thành Đô đã
được cố ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch dự báo, nay đang diễn ra tại Biển Đông và
những nơi khác.
Giữa
hai kinh nghiệm thảm họa đó khi Viêt Nam đi theo quỹ đạo Trung Quốc, thì Viêt
Nam đã cố “thoát Trung” một lần sau năm 1975, khi Viêt Nam xâm lược Campuchea
để đánh Khmer Đỏ là đồng minh của Trung Quốc (12/1978), và đánh trả Trung Quốc
xâm lược Viêt Nam để “dạy bài học” (2/1979). Viêt Nam đã coi Trung Quốc như “kẻ
thù trực tiếp và nguy hiểm”, thậm chí ghi cả điều đó vào Hiến pháp (1980) và
Cương lĩnh Đảng (1982). Viêt Nam đã mắc sai lầm chiến lược to lớn, sập bẫy của
Trung Quốc, bị cô lập với thế giới (trừ Liên Xô), và xa lầy tại Campuchea. Viêt
Nam đã cố “thoát Trung” một cách lầm lẫn: chống Trung Quốc (nhưng vẫn giữ
nguyên ý thức hệ), chủ quan (tưởng Liên Xô là thành trì vững chắc) và ngây thơ
(đối đầu với Trung Quốc khi họ đã bắt tay được với Mỹ).
Nay
nếu Viêt Nam định “thoát Trung” bằng cách đi đêm với Mỹ như đối tác chiến lược
để chống Trung Quốc, trong khi không chịu từ bỏ ý thức hệ đã lỗi thời, thì sẽ
lặp lại sai lầm. Viêt Nam chỉ có thể dựa vào Mỹ để “căn bằng” với Trung Quốc,
chứ không thể “đối đầu” với họ. Chỉ có thể “thoát Trung” về ý thức hệ, chứ
không thể “thoát Trung” về địa chính trị. Về lâu dài, người Việt phải sống
khiêm tốn, tử tế, tương kính với người Hoa như những láng giềng thân thiện,
cùng nhau đổi mới kinh tế và chính trị, xây dựng một xã hội khá giả và dân chủ.
Độc tài và tham nhũng là kẻ thù chung của hai dân tộc. Vì vậy, muốn “thoát
Trung” trước hết phải phản tỉnh để thoát khỏi ý thức hệ đã lỗi thời, là nguyên
nhân chính dẫn đến mọi tai họa.
Làm thế
nào để sống bên cạnh Trung Quốc?
Phải
thay đổi hoặc mất hết.
Nhìn
lại quá khứ với những bài học đau đớn, Viêt Nam phải làm thế nào để sống được
bên cạnh một nước láng giềng khổng lồ có truyền thống bá quyền đại Hán (như
Trung Quốc)?
Thứ
nhất, lãnh đạo của nước nhỏ hơn phải giỏi hơn về thuật trị quốc, để nước láng
giêng lớn hơn không dễ bắt nạt. Để có lãnh đạo giỏi, phải biết trọng dụng nhân
tài, không phân biệt và kỳ thị nguồn gốc, như người Đức trọng dụng bà Angela
Markel gốc Đông Đức hay ông Philipp Koeller gốc Việt. Lãnh đạo quốc gia phải vì
lợi ích dân tộc, chứ không vì lợi ích nhóm hay cá nhân. Nếu lãnh đạo chạy chức
chạy quyền không theo luật pháp, thì các quan tham sẽ vơ vét tài sản quốc gia
làm giàu cho mình, làm đất nước khánh kiệt.
Thứ
hai, dân trí của nước nhỏ hơn phải cao hơn trong một xã hội dân sự, để nước
láng giềng lớn hơn không dễ lừa gạt. Phải khai tâm khai trí cho dân, và phải
tôn trọng quyền tự do dân chủ của người dân. Đất nước không thể có nhân tài nếu
người dân không được suy nghĩ sáng tạo và tự do tư tưởng. Không thể phát huy
được nội lực quốc gia để dựng nước và giữ nước nếu không có hòa giải dân tộc và
xã hội dân sự.
Thứ
ba, tiềm lực kinh tế và quốc phòng của nước nhỏ hơn phải có chất lượng cao hơn,
để nước láng giềng lớn hơn không dễ áp đặt. Trong quá trình dựng nước, phải học
bài học “quốc gia khởi nghiệp” của Israel, và kinh nghiệm phục hồi kinh tế sau
chiến tranh của Đức, Nhật và Hàn Quốc. Mặc dù Nhật và Đức thua trận phải đầu
hàng, nhưng chỉ hai-ba thập kỷ sau chiến tranh, họ đã phục hồi, trở thành cường
quốc kinh tế đứng thứ hai và thứ ba thế giới. Trong khi đó Việt Nam tuy thắng trận,
nhưng bốn thập kỷ sau chiến tranh, đất nươc vẫn nghèo nàn lạc hậu và lệ thuộc.
Muốn phát triển kinh tế bền vững, phải đổi mới thể chế chính trị, để hậu thuẫn
cho cải cách kinh tế và đổi mới công nghệ.
Thứ
tư, quan hệ đối tác chiến lược của nước nhỏ hơn phải đủ mạnh để răn đe tham
vọng bá quyền của nước láng giềng lớn. Hiện nay, Viêt Nam có rất ít sự lựa chọn
và rất ít thời gian, không thể tiếp tục bắt cá hai tay để cân bằng quan hệ với
cả Trung Quốc và Mỹ. Sự kiện dàn khoan HD 981 là một bài học. Trong thế giới đa
cực ngày nay, quan hệ đối tác chiến lược không còn phụ thuộc vào ý thức hệ mà
chỉ dựa vào lợi ích quốc gia và địa chính trị. Nếu Viêt Nam không chịu thay đổi
tư duy thì sẽ trở thành tù binh của quá khứ, và thất bại.
Nếu
thiếu hụt những yếu tố trên, Viêt Nam dễ trở thành mồi ngon của chủ nghĩa bá
quyền đại Hán. Nguy cơ bắc thuộc ngày càng lớn lên cùng sự trỗi dậy của Trung
Quốc và tụt hậu của Viêt Nam. Để giữ độc lập và chủ quyền quốc gia, người Việt
cần phản tỉnh để thoát khỏi cái bẫy ý thức hệ và cải cách thể chế chính trị. Đã
đến lúc phải thay đổi hoặc mất hết.
NQD,
6/2014
(Nguyen
Quang Dy is a Harvard Nieman Fellow, 1993).
——
References:
1.
Peril of Pride and Prejudice, Philip Bowring, South China Morning Post, May 14,
2014
2.
Beijing’s actions in the South China Sea demand a U.S. response, Elizabeth
Economy and Michael Levi, World Policy, May 15, 2014
3.
China’s Push in South China Sea Divides the Region, Murray Hiebert, CSIS, May 16,
2014
4.
Hot oil on troubled waters, Economist, May 17th 2014 |
5.
Vài Đánh giá Ban đầu về Cuộc Xung đột Viêt-Trung Hiện nay (Initial Assessments
on Sino-Vietnamese Conflict now), Trần Ngân, Viet-Studies, May 18, 2014
6.
China Miscalculates with its Drill Rig, Bill Hayton, Asia Sentinel, May 19,
2014
7.
Mồi lửa & Đống củi (The Sparks & the Firewood), Huy Đức, Viet-Studies,
May19, 2014
8.
Xi Jinping’s Excellent adventure: A Calibrated Takeover of South China Sea,
Nayan Chanda, Yale Global online, May 20, 2014.
9.
Kịch bản Chiến tranh Viêt- Trung (Scenarios of a Sino-Vietnamese War), BBC
interviewed Carl Thayer, May 22, 2014
10.
Vietnam Won’t be Pushed Around by China, H.D.S. Greenway, Boston Globe, May 25,
2014
11.
Vụ Khoan dầu khiến Việt Nam Đi Trên Lộ trình Mới (China oil rig set Vietnam on
a new direction), Người Việt interviewed Jonathan London, May 28, 2014
12.
Vietnam: Turning Point, David Brown, Asia Sentinel, June 2, 2014
Tác
giả gửi vào ngày 23-7-14 cho Hội Thảo Hè 2014
No comments:
Post a Comment