Fri,
08/01/2014 - 06:11 — nguyenhuuvinh
Phần I:
Tự do tôn giáo là QUYỀN
Nhân
chuyến thăm và làm việc tại Việt Nam của ông Heiner Bielefeldt - Báo cáo viên
đặc biệt của Liên hợp Quốc (LHQ) về tự do tín ngưỡng - từ 21-31/7/2014, ngày
31/7/2014, ông đã tổ chức họp báo quốc tế về chuyến thăm của mình.
Cuộc
họp diễn ra với nhiều hãng báo chí quốc tế lớn như Reuter, AP, Đức, các nhân
viên Đại sứ quán các nước và báo chí, truyền hình trong nước.
Điều
đặc biệt, có lẽ đây là lần đầu tiên, các blogger, các nhà báo độc lập và truyền
thông “lề trái” cùng tham dự cuộc họp báo Quốc tế tại Hà Nội. Tôi được mời tham
dự cuộc họp báo với tư cách là một Blogger, nhà báo độc lập vào 12h ngày 31/7/2014.
Ông Heiner
Bielefeldt - Báo cáo viên đặc biệt của Liên hợp Quốc (LHQ) về tự do tín ngưỡng
Cuộc
họp quy tụ khoảng gần 100 người trong căn phòng không rộng lắm, khi tôi đến,
các nhà báo, các đài truyền hình đã đông đủ từ VTV đến các báo lớn. Đặc biệt
các hãng truyền thông quốc tế, những người mà tôi thường gặp tại các điểm nóng
về truyền thông có mặt đầy đủ.
Ông
Heiner Bielefeldt đã giới thiệu tóm tắt sơ lược về những nội dung trong bản
Tuyên bố báo chí của ông về chuyến thăm. Đọc bản Tuyên bố báo chí, người ta
thấy điều gì?
“Tôn
giáo là quyền, không phải ân huệ Xin – Cho”
Có
lẽ, ai đã đọc bản Tuyên bố báo chí của vị Báo cáo viên đặc biệt của Liên Hợp
Quốc về quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng ngày 31/7/2014, đều thấm thía câu nói
của Tổng Giám mục Hà Nội trước cuộc họp của UBND TP Hà Nội và Tòa TGMHN sáng
ngày 20/9/2008: “Tôn giáo là quyền, không phải ân huệ Xin – Cho”. Cũng chính từ
lời tuyên bố này, mà TGM Hà Nội Giuse Ngô Quang Kiệt đã trở thành nạn nhân của
hệ thống cầm quyền độc ác cũng như hệ thống truyền thông bẩn thỉu đã tiến hành
chiến dịch cắt xén, vu cáo, thóa mạ để kích động cơn lên đồng tập thể ở Việt
Nam năm 2008.
Bản
Tuyên bố nêu rõ không chỉ những hạn chế của nhà nước Việt Nam trong thực tế mà
ngay cả về luật pháp, không chỉ về văn bản luật pháp mà ngày cả những định
nghĩa, quan niệm về tự do tôn giáo cũng được giải thích khá cặn kẽ.
Bản
tuyên bố đã nêu rất nhiều những hạn chế về quyền tự do tôn giáo của người dân
Việt Nam ngay trong các văn bản luật pháp đã ban hành. Chẳng hạn: “Điều còn
thiếu trong các quy định pháp luật của Việt Nam về tôn giáo, trước hết là chưa
nêu rõ rằng khía cạnh cá nhân trong niềm tin và nhận thức tôn giáo, đạo đức hay
triết lý của một người – thường được gọi là “forum internum” (tâm linh, hay thế
giới nội tâm) - phải được tôn trọng vô điều kiện và không bao giờ được áp dụng
bất kỳ giới hạn chính đáng hay can thiệp nào với bất cứ lý do nào, ngay cả
trong trường hợp khủng hoảng nghiêm trọng hay tình trạng khẩn cấp”.
Như
vậy, nếu nhà nước Việt Nam đọc và hiểu được rõ ràng những điều này, hẳn sẽ
không có những văn bản, những bản tin kể lể công lao rằng nhà nước đã cấp cho
bao nhiêu nhóm tôn giáo hoạt động, đã “tạo điều kiện” cho các tín đồ tôn giáo
trong các hoạt động tôn giáo, lễ hội ra sao.
Quyền
tự do tôn giáo ở Việt Nam bị hạn chế bằng “đăng ký”
Bản
Tuyên bố nêu lên một điều mà người đọc giật mình về quyền tự do tôn giáo ở Việt
Nam rằng: “Nhiều người chúng tôi tiếp xúc nhấn mạnh một thực tế rằng các
điều kiện để thực hành tự do tôn giáo ở Việt Nam nhìn chung đã được cải thiện
hơn so với tình hình sau 1975”. Hẳn nhiên, khi chứng minh về sự tiến bộ của
quyền con người và tự do tôn giáo ở Việt Nam, cán bộ nhà nước có nhiều cách so
sánh. Có thể với nhà cầm quyền hoặc một số quan chức, họ lấy làm hãnh diện về
điều này. Song với những người có cách nhìn khách quan và tỉnh táo, đây thật sự
là một nỗi nhục nhã của một chính quyền “của dân, do dân, vì dân” mà sự tiến bộ
hiện nay được so sánh với điểm mốc là… gần 40 năm trước.
Thường
khi bị chỉ trích về vi phạm nhân quyền hoặc các quyền lợi cơ bản của người dân
về nhân quyền hoặc các quyền tự do tôn giáo, hầu hết các báo chí và cán bộ Việt
Nam đều truyền vào đầu người dân một thứ lý luận như sau: Nhân quyền không thể
cao hơn chủ quyền. Khi các tổ chức quốc tế hoặc quốc gia nào đó có yêu cầu Việt
Nam thực hiện những điều nọ, điều kia trong các văn bản Quốc tế mà Việt Nam đã ký
kết, thì hầu như thứ lý luận rằng “như vậy là can thiệp vào nội bộ Việt Nam”
được sử dụng.
Tuy
nhiên, trong bản báo cáo của mình, ông Heiner Bielefeldt đã chỉ ra một điều mà
hầu như báo chí và quan chức Việt Nam ít khi nhắc đến, đó là điều 38 trong Pháp
lệnh Tôn giáo nói rằng “các quy định trong các điều ước quốc tế sẽ có hiệu
lực khi có khác biệt giữa quy định của Pháp lệnh và các điều ước quốc tế”.
Hẳn nhiên là những điều quy định hiển nhiên này đã bị lờ đi ở nhiều nơi, nhiều
chỗ, thậm chí trên báo chí chính thống nhiều khi nói ngược lại.
Điều
đặc biệt rõ ràng là bản Tuyên bố đã kịch liệt lên án điều 258 của Bộ luật Hình
sự Việt Nam, đó là “Cách thức quy định rộng và không rõ ràng trong Điều 258
đã đem lại cho các cơ quan chức năng liên quan khả năng tự ý định đoạt để ngăn
người dân trong tất cả các loại hoạt động – kể cả thái độ ngầm của họ – nếu
những hoạt động này bằng cách nào đó bị coi là mâu thuẫn với lợi ích của Nhà
nước. Từ nhiều trao đổi thảo luận tôi đã nghe, đây không phải là một vấn đề lý
thuyết đơn thuần, và Điều 258 Bộ luật Hình sự đã được áp dụng thường xuyên, và
được áp dụng để hạn chế quyền tự do tôn giáo tín ngưỡng và các quyền con người
khác”.
Với
những quy định hành chính để hạn chế quyền tự do tôn giáo của công dân, Tuyên
bố báo chí đã đề cập đến việc quy định phải “đăng ký với chính quyền” về các
hoạt động tôn giáo. Về điều này, ông nói rõ thái độ “Ngay cả với cách diễn
giải thứ hai mang tính tạo thuận lợi hơn, tôi kinh ngạc thấy phạm vi của tự do
tôn giáo vẫn còn rất hạn chế và không rõ ràng”. Ông định nghĩa:
“Việc thực thi quyền con người đối với tự do tôn giáo hay tín ngưỡng, bởi cá
nhân và/hoặc trong một cộng đồng với những người khác, không thể diễn ra phụ
thuộc vào bất kỳ hành vi công nhận hay phê duyệt hành chính cụ thể nào. Là một
quyền phổ quát, tự do tôn giáo hay tín ngưỡng vốn có trong tất cả con người và
vì thế có vị thế quy chuẩn cao hơn bất kỳ một hành vi hay thủ tục hành chính
nào”.
Và
ông kết luận: “Như vậy, quyền của một cá nhân hay một nhóm đối với tự do tôn
giáo hay tín ngưỡng của họ không bao giờ có thể “được tạo ra” bằng bất kỳ thủ
tục hành chính nào. Đúng ra là ngược lại, việc đăng ký phải là phương tiện cho
quyền con người này, mà bản thân quyền ấy phải được tôn trọng là có trước bất
kỳ việc đăng ký nào. Trên cơ sở nhận thức chung ấy, việc đăng ký phải là một đề
nghị của Nhà nước, không phải một yêu cầu bắt buộc về mặt pháp lý”. Và “Tôi
cũng muốn nhấn mạnh rằng việc đăng ký chính thức theo quy định của Chính phủ
không phải là điều kiện bảo đảm cho quyền tự do tôn giáo hay tín ngưỡng được
tôn trọng một cách đầy đủ”.
Trong
hầu hết các văn bản quy định được nhà nước Việt Nam đưa ra, các văn bản trả lời
các cá nhân, tổ chức liên quan trong nước và quốc tế về các hoạt động tôn giáo
bị hạn chế và đàn áp, nhà nước Việt Nam thường xuyên viện dẫn việc “đăng ký”
như một điều kiện tiên quyết cho mọi hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng. Thậm chí,
việc đăng ký nhiều khi bị tước đoạt trắng trợn bằng những văn bản như “Sơn La
không có nhu cầu tôn giáo” của Tỉnh Sơn La mà chúng
tôi đã có dịp đề cập trước đây.
Mới
đây thôi, một số tân linh mục của Dòng Chúa Cứu thế đã thậm chí không được dâng
Thánh lễ Tạ ơn tại quê hương mình, chỉ vì không được nhà nước duyệt danh sách
khi thụ phong linh mục. Đó là một ví dụ nói lên một chính sách tôn giáo ngặt
nghèo về “đăng ký, xin phép” đến độ các nạn nhân là chính các linh mục tại quê
hương Tân linh mục đã tự tước bỏ quyền tự do tôn giáo của mình.
Tại
bản Tuyên bố báo chí tại Hà Nội, Báo cáo viên đặc biệt của LHQ đã khẳng định
những văn bản, cách hành xử của Việt Nam căn cứ vào chuyện “Đăng ký” để hạn chế
quyền tự do tôn giáo là sự vi phạm các cam kết quốc tế, các văn bản, tiêu chuẩn
quốc tế mà Việt Nam đã cam kết khi tham gia Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc.
Thiết
nghĩ, đây cũng là một lần, để không chỉ quan chức, nhà nước và người dân mà kể
cả các tổ chức tôn giáo hiểu được “Quyền” của mình là gì trong vấn đề tự do tôn
giáo.
(Còn
tiếp).
Hà
Nội, ngày 1/8/2014
J.B
Nguyễn Hữu Vinh
***
Wed,
08/06/2014 - 17:25 — nguyenhuuvinh
Phần II:
Đường đi hay tối, nói dối hay cùng
Những
nổ lực ngăn chặn tìm hiểu sự thật
Bản
Tuyên bố của Báo cáo viên đặc biệt của LHQ về tự do tôn giáo, ông Heiner
Bielefeldt chứng tỏ một điều: Ông làm việc với nhiều nỗ lực và nghiêm túc khi
tìm hiểu tình hình tự do tôn giáo tại Việt Nam.
Tuy
nhiên, ngay từ đầu bản Tuyên bố cũng nói rõ những vấn đề ông phải đối mặt và
những điều ông đã không thể thực hiện dù Việt Nam đã cam kết. Đó là: “Dự
định đi thăm An Giang, Gia Lai và Kon Tum của đoàn không may đã bị gián đoạn từ
ngày 28 đến 30 tháng 7. Tôi nhận được những thông tin đáng tin cậy là một số cá
nhân tôi muốn gặp đã bị đặt dưới sự theo dõi chặt chẽ, cảnh cáo, đe dọa, sách
nhiễu hoặc bị công an ngăn cản việc đi lại. Ngay cả những người đã gặp được tôi
cũng không tránh khỏi việc bị công an theo dõi hoặc chất vấn ở một mức độ nhất
định. Ngoài ra, việc di chuyển của tôi cũng bị giám sát chặt bởi “những cán
bộ an ninh hoặc công an” mà chúng tôi không được thông báo rõ, đồng thời sự
riêng tư và bảo mật của một số cuộc gặp gỡ cũng bị ảnh hưởng. Những việc này là
sự vi phạm rõ ràng các điều khoản tham chiếu của bất kỳ chuyến thăm quốc gia
nào”.
Có
lẽ, với những nhận định nêu trên, hẳn không cần nói người ta cũng hiểu dù ông
đã nỗ lực, thì sự nỗ lực tìm hiểu của ông cũng đã bị hạn chế nghiêm trọng khi tìm
hiểu sự thực về tự do tôn giáo ở Việt Nam. Và điều cần nói nữa, là ở đây, một
lần nữa Việt Nam đã bất chấp khi tiến hành “sự vi phạm rõ ràng các điều
khoản tham chiếu của bất kỳ chuyến thăm quốc gia nào” như ông đã khẳng
định.
Trong
cuộc họp báo, ông cũng nhắc nhiều đến những cơ quan ông có thể dễ dàng được gặp
và được cung cấp thông tin không hạn chế. Đó là Ban Tôn giáo Chính Phủ, Tòa án
nhân dân Tối cao và các cơ quan, quan chức cấp cao của chính phủ, thậm chí là
các nhóm tôn giáo được nhà nước ưu ái mà ông đã chỉ ra như: “nhiều tôn giáo
đã trở thành thành viên của Mặt trận Tổ quốc do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo. Tổ chức tôn giáo lớn nhất trong Mặt trận Tổ quốc là Giáo Hội Phật giáo
Việt Nam”. Khi đến gặp Giáo hội Phật Giáo Việt Nam, ông được HT.Thích Thanh
Nhiễu – Phó chủ tịch TT HĐTS GHPGVN cung cấp thông tin rằng: “”Việt Nam là
nước tự do tôn giáo”, mọi tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật” – Rất may
là ông Hòa Thượng này chưa lên cơn như ông Thích Thanh Tứ lên Diễn đàn Quốc hội
chửi
ông Thích Quảng Độ.
Hẳn
nhiên, nếu đến những chỗ đó để tìm hiểu sự thật về tự do tôn giáo ở Việt Nam,
có khác gì câu ngạn ngữ dân ta vẫn dùng là đi tìm “chạch đẻ ngọn đa, sáo đẻ
dưới nước”.
Nói
dối hay cùng
Thế
nhưng, ở đời nhiều khi có những chuyện nực cười và quái gở. Cái sự thật dù góc
cạnh, xấu xí thì vẫn toát lên được vẻ đáng mến và người ta dễ chấp nhận hơn
nhiều sự dối trá bóng bẩy. Điều mà ông Heiner Bielefeldt lấy làm ngạc nhiên là
sự hoàn hảo, sự tự do gần như tuyệt đối ở Việt Nam về vấn đề tôn giáo qua các
thông tin, các lời nói và văn bản mà ông được cung cấp khi gặp các quan chức và
cơ quan nhà nước. Ông đã nhấn mạnh rằng “ông hỏi đi hỏi lại nhiều lần”
các cơ quan như Tòa án Tối cao, các cơ quan quản lý nhà nước về Tôn giáo rằng
có vụ việc nào xâm phậm tự do tôn giáo hoặc lời khiếu nại, kêu ca về điều này ở
Việt Nam hay không? Và câu trả lời ông nhận được là “Không, không hề có”.
Ông
viết: “Kể cả thành viên của Tòa án Nhân dân Tối cao cũng không biết một vụ
việc nào. Đây là một kết quả đáng ngạc nhiên – và càng ngạc nhiên hơn khi trong
thực tế có nhiều mâu thuẫn về đất đai đã được thông tin đến tôi. Một số mâu
thuẫn có vẻ có liên quan đến khía cạnh tự do tôn giáo, ví dụ như khi mảnh đất
trước kia đã được dùng cho nghĩa địa tôn giáo hay các nhà thờ tự đã bị lấy đi
để phục vụ phát triển kinh tế”.
Thì
ra, không nói ra đâu phải là người ta không biết và sự thật đâu dễ che đậy bằng
đầu môi, chót lưỡi. Nhà nước Việt Nam không hiểu lẽ đời cha ông đã nhắc: “Thánh
nhân còn có khi nhầm”, hay “Ngọc còn có vết”. Thế nên khi cả bộ máy
nhà nước CSVN “hoàn hảo đến tuyệt đối, chánh nghĩa sáng ngời” và họ nói đến
điều đó không chút ngượng ngùng, mạnh miệng kiểu Nguyễn Sinh Hùng – Ông này đã
hùng hồn tuyên bố kiểu “Đến
2013, Vinashin sẽ có lãi” , hoặc “Thời
điểm này, nếu nhà đầu tư nào bán tháo cổ phiếu thì sẽ thất bại,
ngược lại người nào có quyết định mua vào thông minh sẽ thắng" - thì dù là
người cả tin đến mấy cũng buộc người ta phải nghi ngờ.
Và
thực tế là điều đau đớn khó chấp nhận đã được làm sáng tỏ cho dù có bị cố tình
che đậy bằng nhiều cách chơi xấu.
Ngài
Báo cáo viên đặc biệt của LHQ đã kết luận về tình trạng luật pháp đáp ứng các
đòi hỏi pháp lý của người dân ở Việt Nam hiện nay như sau: “Từ góc độ pháp
quyền, tình trạng này còn xa mới được coi là thỏa mãn tinh thần thượng tôn pháp
luật”.
Những
kết luận gây choáng và những điều chưa nói hết
Bản
Tuyên bố nêu các vi phạm có hệ thống từ phía nhà nước các quyền tự do tôn giáo
của công dân. Từ Pháp lý, luật pháp cho đến các vấn đề cụ thể như quyền tự do
tôn giáo ở mỗi người, mỗi lĩnh vực của cuộc sống. Từ các biện pháp hạn chế
quyền tự do tôn giáo bằng các biện pháp hành chính như “Đăng ký” cho đến những
hoạt động thực tế cản trở quyền công dân của họ, như phá phách, đàn áp. Từ việc
các tôn giáo không được có tư cách pháp nhân cho đến việc nhà nước can thiệp
vào cả việc đào tạo giáo chức và bổ nhiệm các giáo sỹ. Từ việc các tài sản của
tôn giáo không được bảo vệ cho đến các vụ tranh chấp, thực chất là cướp đất tôn
giáo của nhà nước… nhiều vấn đề đã được đề cập khá đa dạng.
Đặc
biệt, trong bản Tuyên bố, nêu lên hai vấn đề hết sức khẩn cấp nhưng là chuyện
như là viễn tưởng ở Việt Nam, đó là quyền tự do tôn giáo – một phần cơ bản của
quyền con người – trong các nhà tù và các đơn vị vũ trang, đã không có trên
thực tế.
Tuy
nhiên, bản Tuyên bố của ngài Báo cáo viên đặc biệt vẫn thể hiện rất rõ sự thiếu
hụt và tầm vóc của các vấn đề vi phạm đã xảy ra trong thực tế ở Việt Nam. Nói
cách khác, việc ngăn chặn những tiếng nói nói lên sự thật và che đỡ những vi
phạm của nhà nước, dù có thể bị mất mặt trước thế giới – thì vẫn phần nào có
tác dụng cho bộ mặt đỡ bị phơi bày.
Ở
đó, những lời biện hộ của nhà nước nhằm che đậy sự vi phạm quyền tự do tôn giáo
vẫn chưa bị vạch trần đầy đủ. Ở đó những chữ nghĩa, văn bản vốn vẫn được coi
trọng như ở các nước khác mà không được định nghĩa rõ ràng rằng ở Việt Nam, văn
bản pháp luật và thực tế đời sống đang tình trạng như lửa và nước.
Những
lý do được viện dẫn
Việt
Nam đã phê chuẩn hầu hết các công ước nhân quyền quốc tế, bao gồm Công ước quốc
tế về Các quyền Dân sự và Chính trị. Tuy nhiên, các biện pháp hạn chế quyền tự
do tôn giáo của người dân, những đàn áp, bắt bớ và những điều đi ngược các cam
kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết… dù không làm ngạc nhiên những nhà báo Việt
Nam vốn đã từng tiếp xúc hàng ngày với mọi chuyện. Có chăng là họ ngạc nhiên về
sự tìm hiểu nhanh chóng và sâu rộng, lối làm việc nghiêm túc của vị báo cáo
viên này. Còn đối với những nhà báo Quốc tế và những người chỉ biết đến tình
hình Việt Nam qua các báo cáo và quan chức nhà nước, hẳn họ sẽ hết sức ngạc
nhiên về một thực tế là quyền tự do tôn giáo đầy những vi phạm ở Việt Nam.
Trong
Tuyên bố của mình, báo cáo viên đặc biệt của LHQ nêu rõ: “Việc cấm bất kỳ sự
can thiệp mang tính cưỡng ép nào đối với nội tâm trong niềm tin tôn giáo, đạo
đức hay triết lý của một người vì thế cũng có vị trí quan trọng trong luật quốc
tế tương đương với việc cấm nô lệ hay cấm tra tấn. Đây là những quy định tuyệt
đối không có bất kỳ ngoại lệ nào. Trong khi đó, Điều 24 Hiến pháp 2013 nhắc đến
tự do tôn giáo hay tín ngưỡng nói chung mà không quy định cụ thể việc bảo vệ
khía cạnh tâm linh cá nhân trong tự do tôn giáo hay tín ngưỡng”.
Và
“…việc truyền bá tôn giáo hay tín ngưỡng trong phạm vi xã hội (“forum
externum”, hay thế giới bên ngoài) không được bảo vệ vô điều kiện, theo luật
quốc tế quy định… Việc này cần được thực hiện trên cơ sở nhận thức rằng tự do
tôn giáo hay tín ngưỡng, ở cả khía cạnh cá nhân và cộng đồng, có vị thế quy
định là một quyền con người phổ quát”.
Trong
thực tế đời sống tôn giáo ở Việt Nam, trên báo chí, người ta thường đọc thấy
những cụm từ như “Truyền đạo trái phép” và bị xử lý hình sự. Tuy nhiên, chưa
bao giờ người ta định nghĩa thế nào là truyền đạo trái phép và đặc biệt là
không có định nghĩa “Truyền đạo được phép” ở Việt Nam từ xưa đến nay.
Bản
tuyên bố nêu rõ những lý do, những luận điệu mà nhà nước Việt Nam thường dùng
để che giấu hoặc tạo cớ nhằm đàn áp, hạn chế quyền tự do tôn giáo của công dân.
Bản Tuyên bố cũng nêu rõ sự khác biệt giữa các quy định quốc tế và hệ thống văn
bản của Viêt Nam hiện hành. [1]
Ông
Heiner Bielefeldt viết: “Khi trao đổi với các đại diện của Chính phủ, tôi
thường nghe nhắc đến “pháp luật Việt Nam” nói chung… Trong các cuộc thảo luận với
các quan chức Chính phủ ở các cơ quan khác nhau, bao gồm đại diện cấp cao của
cơ quan lập pháp, tôi thấy những hạn chế rất rộng này được nhắc đến nhiều lần.
Viện dẫn “lợi ích xã hội” không rõ ràng cũng có thể, thậm chí, dẫn đến truy tố
tội hình sự, theo Điều 258 Bộ luật Hình sự”
Tóm
lại, các văn bản luật pháp quy định một cách mơ hồ bằng những cụm từ không rõ
ràng và viện dẫn các lý do không thực tế, chặt ché tức là “đã cho các cơ
quan chính quyền nhiều không gian để quy định, giới hạn, hạn chế hay cấm việc
thực hành tự do tôn giáo hay tín ngưỡng”.
(Còn
tiếp)
Hà
Nội, Ngày 6/8/2014
J.B
Nguyễn Hữu Vinh
[1] Để so
sánh, các văn bản pháp lý liên quan của Việt Nam đã cho các cơ quan chính quyền
nhiều không gian để quy định, giới hạn, hạn chế hay cấm việc thực hành tự do
tôn giáo hay tín ngưỡng. Điều 14 Hiến pháp 2013 liệt kê một số lý do để hạn chế
các quyền con người và quyền công dân mà, tôi cho rằng, cũng áp dụng với tự do
tôn giáo hay tín ngưỡng. Khả năng hạn chế các quyền con người vì lợi ích của
“quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức
khỏe của cộng đồng” đã khác so với các mục đích được liệt kê trong điều 18
ICCPR. Mặt khác, Pháp lệnh về Tôn giáo và Tín ngưỡng cũng đưa ra các mục đích
như “lòng yêu nước”, “thống nhất đất nước”, “đoàn kết nhân dân” và “truyền
thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc”. Thêm nữa, theo điều 8, khoản 2 của Pháp
lệnh, “Không được lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để phá hoại hoà
bình, độc lập, thống nhất đất nước; kích động bạo lực hoặc tuyên truyền chiến
tranh, tuyên truyền trái với pháp luật, chính sách của Nhà nước; chia rẽ nhân
dân, chia rẽ các dân tộc, chia rẽ tôn giáo; gây rối trật tự công cộng, xâm hại
đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự, tài sản của người khác, cản trở
việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân; hoạt động mê tín dị đoan và thực
hiện các hành vi vi phạm pháp luật khác.”
Trong
các cuộc thảo luận với các quan chức Chính phủ ở các cơ quan khác nhau, bao gồm
đại diện cấp cao của cơ quan lập pháp, tôi thấy những hạn chế rất rộng này được
nhắc đến nhiều lần. Viện dẫn “lợi ích xã hội” không rõ ràng cũng có thể, thậm
chí, dẫn đến truy tố tội hình sự, theo Điều 258 Bộ luật Hình sự. Khoản 1 của
Điều này quy định: “Người nào lợi dụng các quyền tự do ngôn luận, tự do báo
chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do hội họp, lập hội và các quyền tự do dân
chủ khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức,
công dân, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù
từ sáu tháng đến ba năm.“ Tôi thấy một điều đáng lo ngại trong điều khoản này
là việc không có quy định cụ thể hành vi như thế nào sẽ bị coi là “lợi dụng” tự
do tôn giáo hoặc các quyền tự do dân chủ khác. – Trích Tuyên bố báo chí về
Chuyến thăm Nước CHXHCNVN.
***
Fri,
08/29/2014 - 00:19 — nguyenhuuvinh
Phần III: Những sự thật nhức nhối
Sau
khi viết hai phần về cuộc họp báo ngày 31/7/2014
tại Hà Nội của ông Heiner Bielefeldt (Báo cáo viên đặc biệt của Liên Hợp Quốc
họp báo tại Hà Nội về Tự do tôn giáo tại Việt Nam), tôi đã dừng lại để xem xét
các động tĩnh của báo chí, hay nhà nước Việt Nam trước những thông tin mà bản
Tuyên bố của ông đã đưa ra.
Đến
hôm nay, đã gần tròn một tháng kể từ đó, nhưng tôi đã cố gắng chờ thì chỉ rút
ra được một điều: Báo chí Việt Nam vẫn bài cũ, cách cũ và việc thông tin đến
người dân biết sự thật vẫn là một câu hỏi không có lời đáp. Hầu hết các báo,
đều đăng theo Thông Tấn xã Việt Nam, ở đó họ lờ đi tất cả những nội dung về
thực chất quyền tự do tôn giáo ở Việt Nam đã bị vi phạm như thế nào, thực tế
đang diễn ra ra sao…
Báo
chí: Không chỉ một chiều, mà là cắt xén, bóp méo
Điều
duy nhất thấy trên báo chí Việt Nam, là ông Heiner Bielefeldt đã được đón tiếp
vì “Thực hiện chủ trương tăng cường hợp tác quốc tế về quyền con người”.
Rồi thì ông đã được các cơ quan, bộ, ngành đón tiếp và “đã nêu bật chính
sách, nỗ lực, thành tựu cũng như chia sẻ các khó khăn, thách thức của Việt Nam
trong việc bảo đảm và thúc đẩy quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cho nhân dân”.
Cuối cùng là: “Kết thúc chuyến thăm, ông Heiner Bielefeldt ghi nhận những
tiến triển tích cực của Việt Nam trong bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
cho mọi người dân…”.
Có
lẽ, người dân Việt Nam sẽ hết sức khó khăn để hiểu được, thực chất tại sao
những đánh giá quốc tế đối với Việt Nam về các vấn đề cứ đối lập nhau chan chát
giữa lời nói và hành động, trước và sau… nếu chỉ theo dõi tin tức qua báo chí
Việt Nam. Tại sao báo chí Việt Nam đã đồng
loạt giật tít rõ ràng
rằng: “Báo cáo viên về Liên Hợp Quốc về nhân quyền ghi nhận những tiến triển
tích cực của Việt Nam”. Thế mà trong báo cáo sau đó của ông tại Liên Hợp
Quốc lại có những nội dung khác rất khó chịu nữa?
Thực
ra, họ đã bị đầu độc bởi những thông tin bị cắt xén, định hướng và lập lờ, nên
đã không có những thông tin thật sự ở đó. Những thông tin đầy đủ và chân thực,
muốn có, chỉ có thể tìm trên các báo
chí, mạng Internet “lề dân” mà thôi. Vậy mà để đáp ứng nhu cầu được tiếp
cận sự thật của người dân, Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam ra đời. Ngay lập tức
nhận được sự hậm hực, tức tối của đủ mọi loại nhà
báo cũng như hệ thống báo chí Việt Nam.
Dường
như, báo chí Việt Nam vẫn quan niệm rằng thời nào thì họ vẫn cứ một mình một
chợ, và vì thế nên họ muốn nói sao thì nói, bất chấp thiên hạ phản ứng hay đồng
tình. Mặt khác, mỗi khi có “định hướng” thì dù thiên hạ đã biết rõ mười mươi,
đen trắng phân minh, đỏ xanh rõ ràng, họ vẫn cứ củ chuối củ chầy bằng mọi cách
bất chấp sự ngượng ngùng và liêm sỉ để tuyên truyền một chiều cho những điều tệ
hại.
Những
sự thật nhức nhối
Cuộc
họp báo gồm nhiều báo chí quốc tế và trong nước cũng như các Blogger, nhà báo
độc lập. Để làm sáng tỏ tình hình tự do tôn giáo tại Việt Nam và đặc biệt là
các vi phạm, các nhà báo quốc tế đã đề cập đến những vấn đề có tính hệ thống,
căn nguyên của việc vi phạm và nhất là quá trình tìm hiểu làm việc của Báo cáo
viên đặc biệt của LHQ. Ông Heiner Bielefeldt đã trả lời khá chi tiết các câu
hỏi đó.
Còn
các nhà báo Việt Nam, hình như chưa quen với Bản Tuyên bố khá thẳng thắn được
trình bày, nên tìm cách “vớt vát” bằng những câu hỏi khá “ngô nghê”. Phóng viên
một Đài Truyền Hình đặt câu hỏi:
-
Thưa ông, vừa qua, nhà nước Việt Nam đã cho đăng ký một số tổ chức tôn giáo,
điều đó chứng tỏ nỗ lực của nhà nước Việt Nam trong vấn đề bảo đảm tự do tôn
giáo. Ông nghĩ gì về điều đó?
Ngay
lập tức, ông Heiner Bielefeldt trả lời đại ý như sau:
-
Như tôi đã nói trong bản Tuyên bố, Việc thực thi quyền con người đối với tự do
tôn giáo hay tín ngưỡng, bởi cá nhân và/hoặc trong một cộng đồng với những
người khác, không thể diễn ra phụ thuộc vào bất kỳ hành vi công nhận hay phê
duyệt hành chính cụ thể nào. Là một quyền phổ quát, tự do tôn giáo hay tín
ngưỡng vốn có trong tất cả con người và vì thế có vị thế quy chuẩn cao hơn bất
kỳ một hành vi hay thủ tục hành chính nào. Chính vì thế, việc một số nhóm được
đăng ký không thể hiện nỗ lực thực hiện quyền tự do tôn giáo mà nói lên sự vi phạm,
hạn chế và không rõ ràng từ phía nhà nước.
Câu
trả lời thẳng thắn như dội một gáo nước vào cách biện minh cho những “thành
tựu” về tự do tôn giáo tại Việt Nam, đã làm chùn nhiều cánh tay đã giơ lên
trước đó. Một phóng viên một tờ báo mạng hỏi một câu như sau:
-
Thưa ông, qua tìm hiểu, ông đánh giá như thế nào về việc báo chí Việt Nam đã có
tác dụng trong việc bảo đảm quyền tự do tôn giáo ở Việt Nam?
Câu
trả lời là:
-
Tôi chưa có đủ thời gian để tìm hiểu về vấn đề này.
Thực
ra, những người dự họp đều hiểu rằng: Với hệ thống báo chí ngày nay là công cụ
của đảng, khi mà sự vi phạm quyền tự do tôn giáo đang thuộc về chính sách,
đường lối, thì báo chí dưới sự lãnh đạo của đảng chỉ là công cụ bóp nghẹt quyền
tự do tôn giáo chứ làm gì có điều ngược lại. Hãy nhìn những bài báo trên các tờ
báo nhà nước về những vụ cướp đất đai tôn giáo trái phép vừa qua thì biết rõ.
Những
tờ báo thuộc cơ quan Trung Ương như VTV, VOV, Hà Nội mới, Công an Nhân dân…
hùng hổ bao nhiêu trong việc lăng mạ người khác khi họ đòi hỏi quyền tự do tôn
giáo, thì họ im lặng bấy nhiêu trước những lời buộc tội đanh thép của ngài Báo
cáo viên đặc biệt LHQ Heiner Bielefeldt.
Paul
Thành Nguyễn, Nguyễn Văn Viên, là các blogger nêu câu các câu hỏi về việc quản
lý tôn giáo, việc các tôn giáo tham gia kêu gọi thực thi dân chủ, quyền con
người cho người dân được đánh giá ra sao… Ông Heiner Bielefeldt cho rằng: Việc
các tổ chức tôn giáo cổ vũ quyền tự do, dân chủ cho người dân là quyền của họ
trong một xã hội tiến bộ, không ai có thể can thiệp được.
Tôi
đặt mấy câu hỏi cho ông như sau:
-
Thưa ông, ông có nói rằng có những thay đổi trong văn bản luật pháp và năm 2016
sẽ có Luật Tôn giáo ra đời để cải thiện tình hình tự do tôn giáo tại Việt Nam.
Nhưng, ở Việt Nam việc có văn bản luật pháp, Hiến pháp và thực hiện các văn bản
đó là một khoảng cách. Ví dụ các bản Hiến pháp từ 1946 đến 2013 đều ghi rõ: Các
cơ sở tôn giáo được luật pháp bảo hộ. Tuy nhiên đến nay, Giáo hội Công giáo
Việt Nam đã bị nhà nước lấy mất 2.500 cơ sở tôn giáo. Đặc biệt nhiều cơ sở bị
lấy đi trắng trợn mà không có bất cứ một văn bản nào hợp với luật pháp từng
thời kỳ của chính nhà nước Việt Nam. Cần làm gì để khắc phục trình trạng này?
Câu
trả lời của ông Heiner Bielefeldt là ông biết có những thông tin về việc tranh
chấp đất đai, tài sản của các tôn giáo ở Việt Nam với nhà nước. Việc nhà nước
tịch thu đất đai, không cấp các tư cách pháp nhân cho các tôn giáo và những
hành động khác như là sự hạn chế quyền tự do tôn giáo của công dân. Việc cần
khắc phục là nhà nước cần có các luật để quản lý xã hội, thực thi các luật ấy
cách khách quan và công bằng. Trên hết là thừa nhận quyền tự do tôn giáo của
công dân - dù được công nhận hay không - là bất khả xâm phạm.
-
Thưa ông, ông nói về bản Hiến pháp 2013 có những câu chữ tiến bộ hơn về quyền
tự do tín ngưỡng. Vậy xin ông cho biết với một bản Hiến pháp mà trong đó ghi rõ
rằng: Việt Nam lấy Chủ nghĩa Mác – Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh (là hệ chủ
nghĩa và tư tưởng vô thần) làm cơ sở nền tảng cho đất nước. Vậy quyền tự do tư
tưởng, tự do tôn giáo của công dân liệu có thể được đảm bảo hay không?
Một
vấn đề nữa là ở Việt Nam, giáo hội Công giáo VN với 1/10 dân số đến nay vẫn
không được công nhận tư cách pháp nhân. Do đó một cá nhân có nhiều tiền, có thể
mở trường đại học, bệnh viện…, trong khi đó thì Giáo hội Việt Nam không hề được
công nhận chức năng này.
Về
báo chí, cả nước tự hào có 800 tờ báo. Nhưng Giáo hội đến nay không có một tờ
báo nào để thông tin cho giáo dân biết các vấn đề trong và ngoài Giáo hội. Đặc
biệt, khi có những mâu thuẫn, hệ thống báo chí nhà nước đã vùi dập Giáo hội
Công giáo bằng những trò vu cáo và dối trá. Ông nhận định thế nào và trong các
cuộc làm việc với nhà nước Việt Nam, ông có đề cập vấn đề này hay không?
Với
câu hỏi này, ông Heiner Bielefeldt đã không trả lời thẳng vào câu hỏi về vấn đề
chủ nghĩa vô thần là nền tảng của xã hội thì quyền tự do tôn giáo ở đâu. Ông
cho rằng như đã nói, việc tổ chức tôn giáo đến nay đã không được công nhận tư
cách pháp nhân, nghĩa là không công nhận tư cách xã hội của các tổ chức, họ
không thể mua bán, cho, tặng hoặc thừa kế các tài sản… Đó là sự vi phạm nặng nề
quyền tự do tôn giáo.
Mặt
khác, trong nhiều lĩnh vực, ông đã tìm hiểu thì cho đến nay, Giáo hội Công giáo
là một tổ chức rất có khả năng về giáo dục cho con người, nhưng chỉ được ở mức…
nhà trẻ. Ông cho biết, hiện đang có hi vọng được mở Trường Đại học – (Thực
chất, những cái bánh vẽ này nhiều người vẫn được ăn từ… năm 1930 đến nay, nay
mà món mời ông Heiner Bielefeldt).
Ông
cũng trả lời rằng Tự do báo chí là quyền cơ bản của mọi công dân, việc hạn chế
quyền tự do báo chí, cũng chính là hạn chế cả quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo
của người dân mình. Điều này ông đã thấy rất rõ là sự vi phạm có hệ thống.
Chống
chế!
Ngay
từ đầu cuộc họp báo, một người còn khá trẻ, ngồi vắt chân ngay hàng đầu tiên
theo dõi cuộc họp. Đó là ông Phạm Hải Anh, Phó Vụ trưởng Vụ Các Tổ chức quốc
tế, Bộ Ngoại giao Việt Nam. Khi cuộc họp báo sắp kết thúc, không còn các câu
hỏi, ông ta đứng dậy nói một thôi một hồi. Rằng thì là việc đón Báo cáo viên
đặc biệt LHQ là một cố gắng của Việt Nam, đây là lần thứ mấy VN đón phái đoàn
điều tra, rằng luật pháp VN bảo đảm quyền tự do của công dân, rằng thì là “Luật
pháp Việt Nam bảo đảm mọi người dân có quyền tự do tiếp xúc, gặp gỡ với bất cứ
ai họ muốn”… Tuyệt nhiên ông không nói đến thực tế thực hiện các luật pháp đó
ra sao. Và cuối cùng là “Có sự hiểu lầm” nên ông Heiner Bielefeldt đưa ra các
thông tin như trên.
Ngay
lập tức, hàng loạt các máy quay của các đài truyền hình nội địa chĩa vào ông
này. Chúng tôi nói nhỏ với nhau: “Đây mới là đoạn sẽ đưa lên Tivi tối nay”. Quả
là vậy thật.
Ông
Heiner Bielefeldt đã thẳng thừng đáp lại: Như ở phần đầu bản Tuyên bố, tôi cảm
ơn VN đã đón tôi. Nhưng, những điều tôi đã nói, là tôi đã có cơ sở chứ không
thể là sự hiểu lầm.
Kết
thúc buổi họp báo của Báo cáo viên đặc biệt LHQ về Tự do tôn giáo ở Việt Nam,
tôi gặp khá nhiều các gương mặt thân quen. Họ là phóng viên các hãng thông tấn
quốc tế ở Việt Nam mà chúng tôi thường hội ngộ trong các cuộc xuống đường vì Tổ
Quốc thiêng liêng, trong các cuộc khủng bố, vây ráp nhà thờ, nơi tu hành, nơi
đất đai của dân, của tôn giáo bị cướp. Họ hồ hởi hỏi han rất thân thiện.
Bỗng
một bàn tay vỗ nhẹ lên vai: “Tôi rất vui khi gặp anh hôm nay dù nghe đã
nhiều, và rất cảm ơn anh những điều anh vừa hỏi, tức là vừa nói ở đây về thực
trạng tôn giáo ở Việt Nam và những vấn đề gay cấn cơ bản nhất. Tôi cũng là tín
hữu Công giáo”. Tôi quay mặt lại thì đó là một khuôn mặt khá lạ, tôi chưa
gặp bao giờ đang nở một mụ cười thân thiện với tôi.
Tôi
ra về cứ ngẫm mãi rằng: Sự thật là lửa, là ánh sáng, không ai có thể che giấu,
dập tắt mãi mãi.
Hà
Nội, ngày 29/8/2014
J.B
Nguyễn Hữu Vinh
No comments:
Post a Comment