Nguyễn
Đức Toàn/Viện Nghiên cứu Hán Nôm/ Blog Hán Nôm
20-08-2014
Trần Trọng Kim (1887-1953) là một nhà giáo, một nhà
nghiên cứu văn học, sử học có tiếng trong giới trí thức nước ta thời cận đại.
Ông đã để lại nhiều công trình nghiên cứu có giá trị, như Nho giáo, Việt Nam sử
lược, có đóng góp cho tri thức và nghiên cứu lịch sử văn hóa nước nhà. Trong
khi tiếp xúc với văn bản Nam quốc địa dư chí, tôi phát hiện ra bức
thư này nằm giữa tờ bìa ngoài gấp đôi đã bị phết hồ dán kín lại, do thời gian
lâu ngày lớp hồ khô đi, trong lúc kiểm tra văn bản bức thư vô tình rơi
ra.
Được biết một số sách Hán Nôm có nguồn gốc từ thư
viện riêng của gia đình GS. Hoàng Xuân Hãn. Bức thư này có lẽ đã đến tay cụ
Hoàng và được cụ Hoàng giấu kín vào tờ bìa của cuốn Nam quốc địa dư chí,
mà sau này được hiến tặng lại cho thư viện. Đối chiếu với tập hồi ký
Một cơn gió bụi của cụ Trần đã được xuất bản trong những
năm 60, chúng tôi nhận định đây chính xác là bút tích và giọng văn của cụ Lệ
thần - Trần Trọng Kim, vì những nhân vật trong thư nhắc đến đều là những gương
mặt trí thức chính trị đương thời với cụ. Ngày tháng, sự kiện, giọng văn và tư
tưởng trong bức thư hoàn toàn phù hợp với ngày tháng, sự kiện, giọng văn, tư
tưởng của cụ Trần trong tập hồi ký đã nêu trên.
Chúng tôi xin được giới thiệu nội dung bức thư như
một phần di cảo bút tích của một nhà giáo, một học giả uyên bác và đức hạnh,
một nhà nghiên cứu Nho giáo tân học cuối cùng, sau hơn nửa thế kỷ nằm im lìm
trong một tập sách cũ. Thấy rõ thêm mối quan hệ giữa hai gương mặt trí thức lớn
của nước ta trong lịch sử cận đại. Bên cạnh đó, đặt ra vấn đề thận trọng và
nghiêm túc trong công tác bảo quản các tư liệu Hán Nôm của chúng ta hiện
nay.
Bức thư gồm 2 tờ viết 2 mặt.
Nội
dung như sau :
Sài Gòn, ngày 8 tháng 5, năm 19471
Ông Hãn2
Hôm ông Phan văn Giáo3 đưa cái thư của
ông vào cho tôi, tôi không gặp ông ấy. Tôi xem thư của ông, nhất là đoạn viết
bằng chữ nôm, tôi biết rõ sự tình và tôi đã phiên dịch ra quốc-ngữ, gửi sang để
Ngài4 xem.
Gần đây tôi lại được thư khác của ông, do ông Giáo gửi lại cho tôi, đại khái
cũng như thư trước. Cái tình thế nước ta bây giờ, tôi cũng hiểu đại khái như ông,
cho nên trước khi tôi về, tôi đã dặn Ngài : Trừ khi có bằng-chứng chắc-chắn,
thì ngài chớ nghe ai mà về. Sau khi tôi đã về đây rồi tôi lại viết thư ra nhắc
lại lời dặn của tôi. Vậy sự ngài về chắc là không có.
Tôi sở dĩ về đây là vì Ngài và tôi ở bên ấy5,
hoang-mang chẳng biết rõ gì cả, nhân có ông Cousseau6 do ông
D’argenlieu7 sai sang gặp Ngài và tôi, nói Pháp sẵn lòng đổi thái-độ
để cầu hoà-bình. Ngài thấy thế bảo tôi về tận nơi xem thái độ người Pháp có
thật không, và nhân tiện xem ý tứ người Việt ta thế nào. Nếu làm được việc gì
ích lợi cho nước và để cho dân đỡ khổ, thì ta cố làm cho trọn nghĩa-vụ của
mình, nếu không thì lương-tâm ta cũng yên, vì đã cố hết sức mà không làm được8.
Tôi về đây hôm 6 tháng hai tây9, không
gặp ông D’argenlieu, vì ông ấy sắp về Pháp. Ông ấy cho người bảo tôi chờ ông ấy
sang sẽ nói chuyện. Tôi có gặp mấy người có chủ nhiệm về việc chính trị, nói
chuyện thì tử-tế lắm và đồng ý hết cả. Nhưng xét ra họ nói một đường, làm một
nẻo, toàn là những việc mưu-mô lừa dối cả. Lúc đầu tôi có xin cho tôi dược gặp
ông, ông Hiền10 và Khiêm11, họ hứa sẽ cho vào ngay, nhưng
mãi chẳng thấy ai vào. Tôi biết ý [tr1] cũng không hỏi nữa.
Tôi xem việc người Pháp làm, không thấy gì là chân
thực. Họ thấy tôi giữ cái thái-độ khảng khái không chịu để họ lợi dụng, họ phao
ra rằng tôi nhu-nhược và đa nghi không làm được việc. Họ cho những người Nam
thân tín của họ đến nói muốn gặp tôi, tôi từ chối không gặp ai cả. Cũng vì thế
tôi không muốn gặp ông Giáo. Tôi có nói với người Pháp rằng : Tôi về đây, là tin
ở lời hứa hẹn của ông Cousseau là đại biểu của Thượng xứ Pháp, nay công việc
không xong, thì cho tôi trả ra để bảo cho Ngài biết. Họ nói : Việc ấy cố nhiên
rồi, nhưng ông hãy thong-thả chờ ít lâu. Họ nói thế, nhưng tôi biết là họ không
cho tôi ra với Ngài, và họ lại cho người khác nói chuyện với Ngài12.
Dù sao, tôi cũng không ân-hận vì việc tôi về đây. Có
về đây mới biêt rõ sự thực. Biết rõ sự thực thì cái bụng tôi yên không áy náy
như khi ở ngoài kia. Bây giờ tôi nhất định không làm gì cả. Nếu thời cục yên-ổn
thì tôi về ngoài Bắc, nếu không thì xoay xở ở tạm trong này, chờ khi khác sẽ
liệu.
Còn về phương diện người mình, thì tôi thấy không có
gì đáng vui. Phe nọ đảng kia lăng-nhăng chẳng đâu vào đâu cả. Ai cũng nói vì
lòng ái-quốc, nhưng cái lòng ái-quốc của họ chỉ ở cửa miệng mà thôi, nhưng kỳ
thực là vì địa-vị và quyền-lợi, thành ra tranh giành nhau, nghi-kỵ nhau rồi
lăng-mã lẫn nhau. Tôi về đây chỉ gặp Thảo13, Hoè14 và Sâm15.
Tôi bảo Sâm nên tìm cách đoàn kết nhau thành khối, thì mới có thể đối phó với
người ta được. Sâm cũng cho ý kiến ấy là phải. Song một độ thấy bẵng đi, không
đến gặp tôi, rồi bất thình-lình xuất hiện ra Mặt trận quốc gia16, mà
không cho tôi biết. Mãi mấy hôm nay mới đến nói rằng vì sự đi lại khó khăn, nên
không kịp nói cho tôi biết việc ấy. Tôi bảo hắn rằng : Việc ông làm đó, là việc
nên làm, nhưng trước hết phải xếp đặt cho chu-đáo, phải có đủ các cơ-quan tuyên
truyền và bênh-vực việc làm của mình. Nhất là phải giao-thông với Mặt trận
kháng chiến17, họ [tr2] có đồng ý, thì việc ông làm hoạ may
mới có hiệu-quả. Nay việc chưa xếp đặt ra gì cả mà ông đã vội-vàng xướng xuất
ra như thế, tôi e khó thành được. Hắn nói : Việc đã trót rồi, đã ném lao thì
phải theo lao.
Tôi thấy tình thế có nhiều nỗi khó khăn quá, mà minh
thì thân cô thế cô, không làm gì được, cho nên chỉ giữ cái dịa vị bàng-quan mà
thôi, thật là:
身 在 南 蕃 無 所 預
心 懐 百 憂 復 千 慮
(Thân tại Nam phiên vô sở dự,
Tâm hoài bách ưu phục thiên lự.
= Thân ở cõi Nam không tham dự việc chính trị,
Lòng đã ôm trăm mối lo lắng lại thêm nghìn điều ưu
lự)
Tôi vẫn biết việc chống với Pháp chỉ có V.M. mới làm
nổi, nhưng vì chỉ tiếc họ quá thiên về chủ-nghĩa cọng-sản quá. Họ chỉ có một
mục-đích là thi hành chủ nghĩa của họ, họ dùng đủ phương diện để đưa người ta
vào cái chòng của họ. Sự hành-động của họ ở bên ta cũng như bọn cọng sản đã
dùng ở bên Tàu và ở các nước khác, đều theo một lối đúng nhau như hệt. Họ không
cần quốc-gia, không cần đạo-đức, nhưng có nhiều người tin ở nghĩa quốc-gia, thì
họ lợi dụng cái nghĩa quốc-gia để đạt cái chủ-nghĩa của họ. Lừa dối xảo-quyệt
đủ đường, cho nên người ta dễ mắc lừa lắm.
Nay V.M. đứng vào cái địa-vị chống Pháp, tất là có
cái thanh-thế rất mạnh. Nếu họ biết đổi cái thái-độ hung tàn bạo ngược đi, và
tìm cách thu dụng các đảng phái khác, để lập thành một khối, không khuynh hướng
hẳn về Cọng sản, thì có cơ thành công được, nhưng bảo con chó sói trở nên
con cừu, thì có thể được không? Dù sao, đối với viêc nước mình, V.M phải
chịu cái tiếng 功 之 首 罪 之 魁(Công chi thủ tội chi khôi
= Công đứng đầu mà tội cũng đứng đầu). Đó là ý kiến riêng của tôi, còn các
ông nghĩ thế nào tôi không biết.
Khi tôi ở Hương- cảng, ông Cousseau có cho tôi biết
tin ông Oánh18 bị Tây giết, tôi thương ông Oánh quá, có làm bài
tuyệt- cú gửi về, nhờ ông đem điếu ông ấy:
Khóc bạn Nguyễn Băng Hồ
Đất khách mơ - màng những thở - than,
Mảng tin bác bị lũ hung tàn.
Ngắn dài giọt lệ lòng thương bạn,
Căm giận quân thù đã tím gan.
Ông Oánh sinh thời là một người trung hậu ngay
chính, ở đời này thật là ít có. Chẳng may vì duyên nghiệp mà phải cái nạn tai
bay vạ gió. Thôi [tr3] thì cũng là một cách ông ấy trả nợ nước.
Tôi muôn nhờ ông một tí việc, khi tôi đi, tôi còn
một bản đánh máy tập Vũ trụ đại quân19 gửi ông
Oánh, nhờ ông thử hỏi nhà ông Oánh xem tập ấy có còn nữa không. Nếu còn, thì
ông làm ơn giữ lấy cho tôi, kẻo công trình mất mấy năm trời mà mất đi, thì tiếc
quá.
Nhờ ông nói với Khiêm, nhờ hắn đến qua chỗ nhà tôi ở
Nhà Rượu20, xem có ai coi giữ cái nhà đã bị đốt21 đó
không. Nếu có người coi, thì nhờ Khiêm thử vào trong nhà xem những sách vở có
còn gì nữa, thì nhờ hắn nhặt đem về giữ lấy cho tôi. Còn cái nhà bên cạnh mà
không hư hỏng lắm thì nhờ hắn xem có thể chữa sửa được không. Giá có thể chữa
lại it nhiều rồi cho người ta tạm thuê để lấy tiền và cốt nhất là khi nào tôi
có về được, mong còn có chỗ che sương che nắng.(Việc này không cần nữa, vì tôi đã gặp Khiêm ở đây rồi.)22
Ông có biết tin ông Bùi Kỷ23 bây giờ ở
đâu không. Tôi về đây không có tin tức gì về đường nhà ông Bảng cả.
Nhà tôi và Chương24 đều có lời chúc ông
bà được mạnh khoẻ. Tôi có lời thăm ông Hiền, Khiêm và Hoè và tất cả các bạn.
Ông Hoè hôm ra Hà-nội có đến gặp tôi, nhưng vội quá, không viết được thư. Bây
giờ ông Hoè ở đâu và làm gì?
Sau này ông có gửi thư cho tôi, nên để chờ khi nào
có người chắc chắn vào đây, đưa đến cho tôi thì hơn. Không nên gửi người không
được chắc chắn.
Nay kính thư
Trần Trọng Kim [tr4]
Chú
thích :
1. 8/5/1947 : ngày viết thư. Một cơn gió bụi có
ghi việc Cao uỷ Pháp là Bollaert ra Bắc : “ngày 8/5 mấy hôm trước khi ông
Bollaert ra Bắc, ông Didier Michel hẹn đến gặp tôi”. Bức thư có lẽ được cụ Trần
nhờ Didier Michel gửi hộ.
2. Ông Hãn: Chỉ Hoàng Xuân Hãn, nguyên Bộ trưởng bộ
giáo dục và Mỹ thuật của chính quyền Trần Trọng Kim trước Cách mạng tháng 8.
Năm 1947 Hoàng Xuân Hãn còn đang ở Hà Nội.
3. Phan văn Giáo: Dược sĩ, chủ hiệu thuốc lớn ở
Thanh Hoá, là nhà Tư sản nổi tiếng có tư tưởng thân Pháp. Bị bắt trong Cách
mạng tháng 8, sau được thả ra. Sau năm 1945 tiến hành nhiều cuộc vận động để
khôi phục chính thể quân chủ ở miền Nam.
4. Ngài : Chỉ vua Bảo Đại - Vĩnh Thuỵ, lúc này đã
thoái vị. Sau được chính quyền cách mạng cử đi công cán Trung Quốc, thì ở lại
không về và sang ở Hương Cảng. (Trần Trọng Kim; Phạm Khắc Hoè, sđd)
5. Bên ấy : Khi Cách mạng tháng 8 nổ ra thì Trần
Trọng Kim đang ở Huế. Bảo Đại thoái vị, ông về ở làng Tại Thế gần thôn Vĩ Dạ,
đóng cửa đọc sách không ra ngoài. Đầu năm 1946 thì về Hà Nội, không tham gia
việc gì nữa. Sau khi Bảo Đại đi sang Trung Quốc, rồi ở lại không về. Cuối tháng
5/1946, quân Tầu Tưởng rút dần về nước. Tháng 6/1946, Trần Trọng Kim theo một
số người của Quốc Dân đảng sang Trung Quốc tìm bắt liên lạc với Bảo Đại, và gặp
nhau ở Hương Cảng.
6. Cousseau : Quan cai trị, từng làm Công sứ ở nhiều
tỉnh tại Bắc Kỳ, là người móc nối dàn xếp đưa Bảo Đại từ Hương Cảng về nước để
thành lập chính phủ theo ý người Pháp. (Phạm Khắc Hoè. sđd)
7. D’argenlieu : Cao uỷ Pháp tại Đông Dương lúc bấy
giờ. Năm 1947 thì về nước cho Bollaert sang thay. (sđd)
8. Trần Trọng Kim, sđd, tr166, 167...
9. hôm 6 tháng 2 tây : ngày Trần Trọng Kim về đến
Sài Gòn. Một cơn gió bụi có ghi : “ngày 5 đến Sài Gòn, nhưng đến sáng
mùng 6 mới lên bờ.”
10. ông Hiền : Luật sư Vũ Văn Hiền, từng tham gia
Nội các của chính quyền Trần Trọng Kim, giữ chức Bộ trưởng bộ Tài chính. Bị
quân Pháp bắt giữ sau ngày toàn quốc kháng chiến năm 1946 ở Hà Nội cùng với Phạm
Khắc Hoè, Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Xuân Chữ, ... sau được thả ra. (Phạm Khắc Hoè,
sđd)
11. Khiêm : Có thể là Phạm Duy Khiêm, người cùng
tham gia với Trần Trọng Kim soạn sách “Việt Nam văn phạm”.
12. Trần Trọng Kim lúc này đã không còn giá trị.
Người Pháp muốn tách ông ra khỏi Bảo Đại để không thể gây ảnh hưởng, cản trở ý
đồ thành lập một chính phủ theo ý muốn của người Pháp.
13. Thảo : Luật sư Trịnh Đình Thảo (1901-1986), luật
sư toà Thượng thẩm Sài Gòn, là một luật sư rất có uy tín, thường đứng ra bảo vệ
quyền lợi của nhân dân lao động cấp dưới, từng tham gia Nội các của chính quyền
Trần Trọng Kim, giữ chức Bộ trưởng bộ Tư pháp, Phó chủ tịch hội đồng cố vấn
chính phủ lâm thời miền Nam Việt Nam. Sau ra chiến khu tham gia thành lập Liên
minh các lực lượng dân tộc dân chủ hoà bình Việt Nam, đi nhiều nước vận động
chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam, Uỷ viên trung ương mặt trận tổ quốc, Đại
biểu quốc hội.
14. Hoè : Phạm Khắc Hoè, giữ chức Đổng chưởng lý văn
phòng Ngự tiền của vua Bảo Đại. Sau này đi theo kháng chiến, bị Thực dân Pháp
bắt đưa về miền Nam dụ dỗ quay trở lại phục vụ Bảo Đại không thành, phải thả
ông ra ở Hà Nội, ông tìm cách trốn khỏi thành phố lên chiến khu, có viết tập
hồi ký “Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc”. Tập hồi ký này có nhắc
đến việc ngày 16/4/1947, Phạm Khắc Hoè có đến chào từ biệt Trần Trọng Kim trước
khi ra Hà Nội. Thư này viết sau khi Phạm Khắc Hoè đi Hà Nội gần một tháng
(8/5/1947). (Phạm Khắc Hoè, sđd)
15. Sâm : Nguyễn Văn Sâm, Chủ tịch hội ký giả Nam
Kỳ. Bị Thực dân Pháp an trí ở Sóc Trăng vì những hành động chống Pháp. Năm
1945, tham gia chính quyền Trần Trọng Kim, Hội viên hội đồng dự thảo Hiến pháp.
Sau được phái đi làm Khâm sứ Nam Kỳ để tiếp thu Nam Kỳ được Nhật trao trả, chưa
kịp thực hiện thì cách mạng tháng 8 bùng nổ. Là người tham gia thành lập Mặt
trận quốc gia Việt Nam ở miền Nam, là thủ lĩnh đảng Việt Nam quốc dân độc lập,
ông bị ám sát chết cuối năm 1947. (Nguyễn Quang Thắng, sđd)
16. Mặt trận quốc gia : Ngày 17-2-1947, Nguyễn Hải
Thần, ông Nguyễn Tường Tam cùng một số nhân sĩ đã tiếp xúc với Bảo Đại và đã
thành lập một Mặt Trận mệnh danh là Mặt Trận Quốc Gia nhóm tại Hương Cảng gồm:
Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Dân Chủ Xã Hội Đảng,
Việt Nam Quốc Gia Thanh Niên Đoàn có mục đích lợi dụng Bảo Đại để tranh thủ độc
lập nhưng Bảo Đại cũng như các nhà thực dân khác không chịu được sự "khó
tính" của Mặt trận này nên đã gạt khéo Mặt trận ra ngoài và sau này, Bảo
Đại về lập chính phủ chỉ có nhân viên của các nhóm tư bản và của đế quốc cộng
tác mà thôi. Với những thành phần "Nam kỳ quốc" và bọn tay chân của
đế quốc, Pháp tạo ra các chiêu bài độc lập, tính đánh lừa dân chúng Việt Nam
nhưng đã thất bại. Nguyễn Văn Sâm chắc cũng tham gia trong mặt trận này.
17. Mặt trận kháng chiến : Chỉ Mặt trận kháng chiến
của nhân dân miền Nam (?)
18. ông Oánh : Tức Nguyễn Quang Oánh (1888-1946),
anh ruột Nguyễn Văn Ngọc (hiệu Ôn Như). Làm Thanh tra các trường Sơ học, Hội
viên hội đồng cải cách giáo dục của chính quyền Trần Trọng Kim, từng cùng Trần
Trọng Kim và Bùi Kỷ biên soạn sách Tiểu học Việt Nam văn phạm giáo khoa thư.
Toàn quốc kháng chiến, ông bị giặc Pháp ập vào nhà bắn chết ngày 22/12/1946.
(Trần Văn Giáp, sđd); Nguyễn Băng Hồ : Chỉ tên hiệu của ông Nguyễn Quang Oánh
là Băng Hồ.
19. Vũ trụ đại quan : Một trong các công trình
nghiên cứu của Trần Trọng Kim. (Trần Văn Giáp, sđd)
20. Nhà Rượu : Trần Trọng Kim có nhà ở khu vực gần
Nhà máy Rượu Hà Nội (phố Nguyễn Công Trứ). Tức là căn nhà 41 phố Hàng Chuối
(Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi, Nxb.Vĩnh Sơn, S., 1969)
21. “Cái nhà của tôi ở phố nhà Rượu cũng bị quân
tự vệ đốt cháy. Thành ra bao nhiêu sách vở của tôi, có lắm quyển rất cổ rất
quý, tích trữ trong mấy chục năm, đều hoá ra tro tất cả. Tôi vẫn chưa hiểu vì
lẽ gì mà họ đốt nhà tôi, hoặc là vì đốt nhà bên cạnh mà cháy lây sang, hoặc vì
Việt Minh thấy tôi bỏ đi, họ giữ không được, họ cho lệnh đốt nhà cho bõ tức”.
Trần Trọng Kim, sđd.
22. Tác giả tự đánh dấu, và ghi chú sang bên cạnh
thư, nhắc việc này thôi vì đã nhờ được rồi.
23. Bùi Kỷ : Tức cụ Phó bảng Bùi Kỷ (1887-1960), Hội
viên hội đồng cải cách giáo dục của chính quyền Trần Trọng Kim, cùng Trần Trọng
Kim biên soạn nhiều tác phẩm : Truyện Thuý Kiều, Việt Nam văn phạm, Nho giáo.
Chủ tịch Hội văn hoá kháng chiến liên khu 3, uỷ viên Hội Liên Việt liên khu,
Chủ tịch hội hữu nghị Việt- Trung. (Trần Văn Giáp, sđd)
24. Chương: Tên người, lúc đầu tôi chỉ tra cứu được
1 người tên Chương là Luật sư Trần Văn Chương, từng tham gia Nội các của chính
quyền Trần Trọng Kim, giữ chức Bộ trưởng bộ Ngoại giao. Đến hôm 9.2.2014, bài
viết nhận được phản hồi từ bà Phạm Thị Lệ Hương, 1 Việt kiều Mỹ cung cấp thông
tin sửa sai cho, tên Chương là tên con gái cụ Trần Trọng Kim, tức bà
"Trần Thị Diệu
Chương, vì trong thư Cụ Kim thường kêu các Cụ ngang tuổi là Ông… mà không
nói tên trống không như thế này, vả lại Cụ viết “nhà tôi [tức
là vợ của Cụ] và Chương đều có lời chúc ông bà…” thì chắc chắn phải là người trong
gia đình Cụ. Con gái độc nhất của cụ tên là Trần Thị Diệu Chương, vẫn
còn sống ở Pháp, năm nay cỡ 90 hay trên 90 tuổi 1 chút (ngang
tuổi ông Bùi Diễm là con trai Cụ Bảng Bùi Kỷ là first cousin của bà Trần
Diệu Chương, vì Cụ Bùi Kỷ là anh của Cụ bà Trần Trọng Kim).] Sở
dĩ tôi dám quả quyết như thế này là vì tôi là người trong họ của Cụ bà Trần
Trọng Kim, nên tôi đọc thư của Cụ Kim viết cho Cụ Hoàng Xuân Hãn tôi hiểu
như thế. Tôi có hỏi thêm những người trong họ thì mấy nguời đó cũng nghĩ
như tôi viết cho anh ở trên." (trích thư phản hồi của bà Phạm).
Tôi xin sửa lại chú thích này theo ý kiến phản hồi của bà Phạm và xin trân
trọng cám ơn bà.
Thư
mục tham khảo
1.Lệ thần - Trần Trọng Kim, Một cơn gió bụi, Nxb
Vĩnh Sơn, S,. 1969
2. Phạm Khắc Hoè, Từ triều đình Huế đến chiến khu
Việt Bắc, H,.1986
3. Nguyễn Quang Thắng, Từ điển nhân vật lịch sử
Việt Nam. S,.1982
4. Trần Văn Giáp, Lược truyện các tác gia Hán Nôm
II. H.,1987
5. La Sơn Yên Hồ - Hoàng Xuân Hãn. Nxb GD,
H,. 1998 (2t)
Phụ lục ảnh nguyên bản:
No comments:
Post a Comment