Luật
sư Trinh Nguyễn và đồng nghiệp
11/06/2014 11:55
(TNO)
Có rất nhiều công việc cần phải chuẩn bị cho một vụ kiện nhưng có thể chia
thành các phần chuẩn bị lớn. (1) Chuẩn bị chứng cứ và chiến lược tố tụng và sự
phối hợp nhân sự trong đội ngũ tác chiến (task force); (2) Nghiên cứu đối
phương và phản biện.
Trước tình hình Trung Quốc ngày càng đẩy căng thẳng
leo thang trên biển Đông, Việt Nam luôn thể hiện quyết tâm sẵn sàng khởi
kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế nếu Bắc Kinh vẫn không rút giàn khoan Hải
Dương-981 (Haiyang Shiyou-981) ra khỏi vùng biển Việt Nam.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã khẳng định Việt Nam
đang “cân nhắc các phương án để bảo vệ mình, kể cả phương án đấu tranh pháp lý,
theo luật pháp quốc tế”.
Thanh Niên Online xin giới
thiệu loạt bài của luật sư Trinh Nguyễn và đồng nghiệp, phân tích lý do tại sao
Việt Nam nên khởi kiện, những thách thức sẽ phải đương đầu cũng như những luận
cứ cần thiết cho vụ kiện này.
Kỳ 3: Chuẩn bị chứng cứ và phản biện
Như đã đề cập trong bài trước, có rất nhiều công việc
cần phải chuẩn bị cho một vụ
kiện nhưng có thể chia thành các phần chuẩn bị lớn. (1) Chuẩn bị chứng cứ
và chiến lược tố tụng và sự phối hợp nhân sự trong đội ngũ tác chiến (task
force); (2) Nghiên cứu đối phương và phản biện.
Đối với phần chuẩn bị chứng cứ khởi kiện, tôi nghĩ
các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam đã làm và đang làm, nay chỉ cần hệ thống
lại và nghiên cứu chọn lọc chứng cứ nào đủ thuyết phục
và mạnh mẽ phục vụ trực tiếp cho yêu cầu khởi kiện của
Việt Nam. Riêng phần chuẩn bị thứ 2 sẽ quyết định ít nhất 50% phần thắng của vụ
kiện.
Điều quan trọng là cần tổ chức ngay một đội tác chiến và
lựa chọn, phân công các chuyên gia trong đội tác chiến này để ưu việt hóa vai
trò của từng người phù hợp với chuyên môn của họ dưới sự điều khiển của một “nhạc
trưởng” có kinh nghiệm trong tranh tụng quốc tế bằng ngôn ngữ tiếng Anh và có bản
lĩnh cũng như có uy tín trong cộng đồng luật sư quốc tế.
Sự hỗ trợ của các hãng luật quốc tế/chuyên gia luật
quốc tế có kinh nghiệm và kỹ thuật tranh tụng là tối cần thiết đối với một vụ
kiện mang tính chất quốc tế như thế này. Đội tác chiến ấy không nhất thiết phải
là những ngừời mang quan điểm cùng chiều với nhau vì những quan điểm đa chiều sẽ
giúp ích trong việc tiến hành phản biện nội bộ để tìm ra điểm mạnh và yếu của đối
phương và tiên đoán lý lẽ mà bên kia sẽ vận dụng (Tôi muốn nhấn mạnh là phản biện
nội bộ chứ không phải phản biện trên truyền thông).
Tuy nhiên sau khi phản biện và thống nhất ý kiến thì
những thành viên trong đội tác chiến ấy phải đồng lòng, phối hợp và hướng về một
mục tiêu chung một cách nhịp nhàng theo sự điều phối của “nhạc trưởng”.
Việc nghiên cứu đối phương không chỉ về kỹ thuật của
họ mà còn về văn hóa của họ và về cách ứng xử của họ trong tranh tụng quốc tế
là công việc/nhiệm vụ cực kỳ quan trọng của đội tác chiến, quyết định sự
thành công của vụ kiện.
Khi một đội tác chiến như thế được thành lập thì những
tuyên bố ngoại giao nên được đồng nhất với các chiến lược pháp lý đã được bàn
thảo và thông qua giữa các thành viên trong đội.
Chứng
cứ khởi kiện
Nhiều bài báo đã mô tả khá chi tiết về một số chứng
cứ cụ thể.Tôi chỉ làm công việc tổng hợp một cách hệ thống các loại chứng cứ.
Theo quan điểm riêng của tôi, chúng ta không nên bàn
sâu về chứng cứ trên mặt báo vì đây là phần kỹ thuật pháp lý và chiến lược cụ
thể của vụ kiện cần được bảo mật.
Từ các nguồn thông tin mà chúng tôi thu thập được,
các chứng cứ có thể được phân loại thành từng nhóm theo những tiêu chí nhất định,
bao gồm nhưng không giới hạn: chứng cứ xuất phát từ tư liệu lịch sử, chứng cứ
xuất phát từ pháp luật quốc tế, chứng cứ xuất phát từ những sự kiện đã xảy ra
trên thực tế…
1.
Chứng cứ lịch sử khẳng định chủ quyền của Việt Nam:
Đây là loại chứng cứ có giá trị chứng minh rất quan
trọng trong giải quyết tranh chấp chủ quyền bởi chúng đã được tạo lập khi tranh
chấp chưa phát sinh và hoàn toàn mang tính khách quan, bao gồm:
- Các bản đồ đã được vẽ trong các giai đoạn lịch sử
trước đó bởi người Việt Nam hoặc người nước ngoài;
- Các tài liệu bằng văn bản như: các nhật ký hải
trình của các hãng vận tải, các đoàn khảo sát;
- Các tài liệu do các nhà khoa học công bố tập thể
hoặc cá nhân, nhân danh nhà nước hoặc công bố độc lập;
- Các tài liệu của sử gia Việt Nam;
- Các tài liệu của các tác giả nước ngoài;
- Các văn bản pháp lý, các điều ước quốc tế đã được
hình thành trong suốt chiều dài lịch sử của Việt Nam cũng có giá trị chứng cứ lịch
sử rất quan trọng.
2.
Chứng cứ pháp lý xuất phát từ quy định của pháp luật quốc tế:
|
- Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển năm 1982
(UNCLOS): là văn bản pháp lý quốc tế hoàn chỉnh nhất về luật biển đến thời điểm
này và đã được nhiều quốc gia trên thế giới tham gia, kể cả Việt Nam và Trung
Quốc.
Theo tác giả Bành Quốc Tuấn, Nghiên cứu sinh Khoa Luật,
dại học Quốc Gia Hà Nội căn cứ vào quy định của UNCLOS, Việt Nam hoàn toàn có đầy
đủ cơ sở pháp lý để vạch đường biên giới trên biển theo khoảng cách chiều rộng
12 hải lý tính từ đường cơ sở cũng như xác định vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) rộng
200 hải lý tính từ đường cơ sở cũng như bác bỏ đường yêu sách chủ quyền hình chữ
U chiếm 80% diện tích biển Đông của Trung Quốc;
- Tuyên bố về ứng xử của các bên trên biển Đông
04/11/2002 (Declaration on the Conduct of parties in the South China Sea), thể
hiện sự đồng thuận về ý chí giữa các quốc gia trong khu vực về một giải pháp
cho tranh chấp biển Đông.
Theo đó, tại Điều 4 của DOC, các nước tham gia ký kết
DOC đã đồng thuận rằng các tranh chấp lãnh thổ sẽ được giải quyết bằng con đường
hoà bình theo những nguyên tắc được công nhận trên toàn thế giới của luật pháp
quốc tế trong đó có công ước luật biển 1982.
Chính Trung Quốc và Việt Nam đã cùng ký vào bản
tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC).
3.
Chứng cứ pháp lý xuất phát từ sự chiếm hữu thực tế
Sự chiếm hữu này đã được thực hiện trong quá trình lịch
sử lâu dài, thể hiện thông qua các chứng cứ lịch sử mà Việt Nam đã thể hiện, cụ
thể:
- Các tài liệu chứng minh Việt Nam đã liên tục khai
thác các tài nguyên khoáng sản trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của
Việt Nam;
- Các tài liệu chứng minh Việt Nam thực hiện quyền
quản lý hành chính đối với các quần đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam;
- Các tài liệu chứng minh ngư dân Việt Nam vẫn khai
thác nguồn lợi thủy hải sản từ các vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam dưới
sự hỗ trợ của các cơ quan có thẩm quyền trong bộ máy nhà nước Việt Nam;
- Các tài liệu chứng minh dân cư Việt Nam hiện đang
cư trú, sinh sống trên các quần đảo Việt Nam tuyên bố chủ quyền;
- Các tài liệu chứng minh sự phản ứng của Nhà nước
và nhân dân Việt Nam đối với hành động xâm phạm chủ quyền của các nước khác đối
với vùng biển đảo mà Việt Nam tuyên bố chủ quyền.
Có
bị “bắt bài” nếu khởi kiện?
Hiện tại, những chứng cứ mà mọi người truyền tay
nhau đọc trên mặt báo chỉ cho người đọc hiểu một cách khái quát về các cơ sở
pháp lý của mỗi bên.
Muốn biết được các chứng cứ đó có thể được dùng như
thế nào và dùng trong giai đoạn nào thì phải nghiên cứu và xem xét rất cẩn thận
về hình thức và nội dung của các chứng cứ đó.
Việc có thể bị “bắt bài” hay không còn phụ thuộc
ở chiến thuật khi khởi kiện, yêu cầu khởi kiện, chứng cứ nào cần đưa trước, học
thuyết (doctrine) nào cần viện dẫn, điều ước nào cần được đưa vào để khẳng định
yêu cầu khởi kiện của mình.
Và nhất là cần phải biết yêu cầu khởi kiện của mình
cụ thể là gì và tập trung vào chứng minh cho yêu cầu đó. Có những lý luận không
cần phải đưa ra từ đầu mà chỉ cần chuẩn bị lý lẽ để phản biện khi đối phương
đưa ra.
Ví dụ, nếu yêu cầu khởi kiện là muốn được cơ quan
tài phán tuyên bố Việt Nam có chủ quyền lãnh thổ trên quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa, thì chúng ta phải dùng những bằng chứng về các sự kiện lịch sử để chứng
minh cho việc chúng ta đã thụ đắc lãnh thổ đó như thế nào và theo học thuyết
nào.
Các chuyên gia công pháp quốc tế đã bàn nhiều đến
các học thuyết này cũng như các chứng cứ có thể được dùng để chứng minh. Tôi không
muốn lặp lại mà chỉ muốn nhấn mạnh rằng việc lựa chọn áp dụng học thuyết nào thụ
đắc lãnh thổ nào phải tương quan với những bằng chứng chúng ta đang có và chứng
minh được.
Ngoài ra, trong quá trình lựa chọn học thuyết phù hợp
và chứng cứ, còn phải đánh giá xem những chứng cứấy đủ mạnh mẽ không và có thể
bị phản bác ở khía cạnh nào.
Trở lại ví dụ về yêu cầu tuyên bố chủ quyền nhà nước
đối với một lãnh thổ, khi một lãnh thổ được phát hiện bởi một quốc gia, sự phát
hiện đó chưa đủ để xác định chủ quyền của quốc gia phát hiện mà còn cần phải có
sự chiếm hữu thực sự, tức có dân của một nước ở và cơ quan hành chính của nước
đó được thiết lập, đồng thời chính quyền của nước đó luôn thể hiện ý chí chiếm
hữu và bảo vệ lãnh thổ đó.
Do đó, nếu một quốc gia chỉ chứng minh được rằng sử
sách hay những tài liệu địa lý ghi nhận /thể hiện rằng họ biết đến vùng đất đó
như một kiến thức chung chung thì không thể khẳng định được quốc gia ấy có chủ
quyền lãnh thổ. Ngoài ra, sư chiếm hữu đó không thể được tiến hành bằng bạo lực.
Khi đó, bên còn lại của vụ kiện có thể sẽ cố gắng chứng
minh ngược lại rằng mặc dù một quốc gia đã chiếm hữu lãnh thổ nhưng có thể đã từ
bỏ nó và do đó không thể làm ngược lại những gìđã tuyên bố.
Trong trường hợp đó, họ sẽ phải trưng ra những chứng
cứ và các văn bản cụ thể chứng minh cho lập luận đó của họ. Lúc bấy giờ, Bên khởi
kiện có thể phản biện sau khi xem xét giá trị pháp lý của các dẫn chứng tài liệu
mà bên kia đưa ra.
Để xem xét một tài liệu có giá trị pháp lý hay không
thì cần phải xem tài liệu/văn bản đó được phát hành bởi người có thẩm quyền hay
không. Có khi một văn bản pháp lý được ban hành bởi một người có chức năng đứng
đầu nội các, nhưng không đương nhiên có hiệu lực vì để quyết định một vấn đề
như vậy cần phải có trưng cầu dân ý và cần phải đáp ứng một số điều kiện theo
Hiến pháp.
Hơn nữa, tùy vào Hiến pháp của từng giai đoạn, người
đứng đầu Chính phủ có thể có quyền hành ở một vấn đề này nhưng lại không có quyền
hành ở vấn đề khác.
Về
văn bản của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng
Trung Quốc đã sử dụng văn bản do cố Thủ tướng Phạm
Văn Đồng ban hành năm 1958, viện dẫn rằng đó là việc từ bỏ chủ quyền, do đó
không có quyền làm ngược lại những điều đã tuyên bố (theo học thuyết Estoppel).
Đã có nhiều học giả phân tích về điều kiện để thuyết
Estoppel được áp dụng. Tuy nhiên, trước khi sử dụng những lập luận loại
trừ việc áp dụng học thuyết Estoppel, ta nên xem xét xem văn bản của cố Thủ tướng
nước VNDCCH có phải là một tuyên bố từ bỏ chủ quyền của quốc gia đối với quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa hay không.
Ở đây tôi không muốn lạm bàn đến chuyên môn khác, chỉ
muốn nói đến khía cạnh kỹ thuật pháp lý và logic pháp lý mà thôi.
Nếu Trung Quốc cho rằng bằng văn bản của cố Thủ tướng
Phạm Văn Đồng, Việt Nam đã từ bỏ chủ quyền, xét về mặt logic, họ đã nghiễm
nhiên công nhận ta có chủ quyền nên mới có chuyện từ bỏ.
Tôi thấy thay vì lý luận rằng “ta chưa thể từ bỏ cái
mà ta chưa có vì lãnh thổ Trường Sa, Hoàng Sa vào thời điểm đó chưa thuộc về
VNDCCH”, tại sao ta không đặt ngược vấn đề rằng nếu ta đã có chủ quyền vào thời
điểm đó theo lý luận của Trung Quốc (đồng nhất với điều 2 của Hiến pháp 1946:
“Việt Nam là một khối thống nhất”) thì khi đó việc từ bỏ chủ quyền là một việc
liên quan đến vận mệnh quốc gia.
(Trên thực tế, sau khi nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam ra đời và thụ đắc lãnh thổ trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa,
sau năm 1975, nhà nước CHXHCN Việt Nam đã có những tuyên bố khẳng định chủ quyền
và có những hành động bảo vệ chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa).
Điều 32 Hiến pháp 1946 đã quy định: “những việc quan
hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết, nếu hai phần ba tổng số
nghị viên đồng ý. Cách thức phúc quyết sẽ do luật định”.
Vậy, vào thời điểm đó những việc bàn về chuyện từ bỏ
chủ quyền lãnh thổ đã được nghị viện đưa ra nhân dân phúc quyết chưa? Nếu chưa
thì văn bản ấy không có hiệu lực vì đã vượt quyền (theo học thuyết ultra
vires).
Hơn nữa, vào thời điểm ký văn bản này, Chính phủ nước
VNDCCH bao gồm Chủ tịch nước, Phó chủ tịch nước và Nội các đứng đầu là Thủ tướng
(Điều 44 Hiến pháp). Như vậy, để văn bản này có giá trị như một văn bản có tính
ràng buộc cao nhất của nhà nước cần phải xác định rằng văn bản ấy đã được ký và
phê duyệt bởi những người có thẩm quyền chưa?
Nói một cách dễ hiểu, điều này có thể ví với việc một
phó chủ tịch HĐQT hay một thành viên HĐQT đóng dấu ký tên một văn bản nhưng những
vấn đề được nêu trong văn bản này thuộc thẩm quyền quyết định của cổ đông mà đã
không được hội nghị cổ đông thông qua. Như vậy, đó là một văn bản "utra
vires", tức vượt quyền, và bản thân một văn bản vượt quyền thì không có hiệu
lực.
Ngoài ra còn phải xét tính hình thức và nội dung của
văn bản của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Tôi dùng từ "văn bản" là bởi
vì chưa có gì khẳng định đây là công hàm hay công thư hay chỉ là thư của cá
nhân cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi cho Tổng lý phía Trung Quốc.
Điều này chưa được khẳng định trừ khi chúng ta có thể
nghiên cứu một cách thấu đáo hình thức và nội dung văn bản này cũng như bối cảnh
ra đời của văn bản và Hiến pháp tại thời điểm đó. Khi đó mới có thể xác định được
giá trị pháp lý của văn bản và chuẩn bị cho việc phản biện.
Khi xét đến bối cảnh và thời điểm ra đời của “văn bản”,
tôi cho rằng trong mối quan hệ giữa Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và nước CHND
Trung Hoa lúc ấy, văn bản ấy có thể xem là mộtvăn bản mang tính chất ngoại
giao, ủng hộ/tán thànhmột nội dung trong những nội dung của bản tuyên bố ngày 4
tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước CHND Trung Hoa.
Đó là tán thành quyết định về hải phận 12 hải lý, chứ
không tán thành toàn bộ nội dung bản tuyên bố trên của Trung Quốc, trong đó có
tuyên bố liên quan đên quần đảo Tây Sa và Nam Sa(Cách mà Trung Quốc gọi Hoàng
Sa và Trường Sa của Việt Nam).
Như vậy, lập luận phản biện của Việt Nam về vấn đề
có thể chia làm 2 bước: (1) xét về hình thức và bối cảnh, văn bản của Thủ tướng
Phạm Văn Đồng không phải là một phát ngôn độc lập của Việt Nam liên quan đến quẩn
đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Đây chỉ là một văn bản có tính chất ngoai giao, hay
một sự tán thành/ủng hộ ngoại giao, một sự tán thành của VNDCCH về một trong
nhiều nội dung của bản tuyên bố ngày 04/9/1958 của nước CHND Trung Hoa. Điều
quan trọng hơn, văn bản đó của Cố Thủ tướng của nước VNDCCH tuyệt nhiên không đề
cập đến“Tây Sa và Nam Sa”.
(2) Nếu phía Trung Quốc khăng khăng cho rằng văn bản
này là một tuyên bố từ bỏ chủ quyền của Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa, thì “chủ quyền”
là một vấn đề liên quan đến vận mệnh quốc gia và theo Hiến pháp 1946 của
VNDCCH, thì việc này phải được phúc quyết, khi đó sẽ vận dụng học thuyết ultra
vires để phản biện.
Ngoài yêu cầu tuyên bố chủ quyền lãnh thổ của Việt
Nam với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Việt Nam còn có thể cân nhắc những yêu
cầu khởi kiện khác mà tôi thấy không nên nêu chi tiết trên báo chí, ví dụ như
yêu cầu tuyên bố việc Trung Quốc vi phạm chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam.
Trong trường hợp đó, cần xâu chuỗi các sự kiện đã xảy
ra trong quá khứ đến sự kiện gần đây nhất là việc hạ đặt giàn khoan Hải
Dương-981(Haiyang Shiyou-981) trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam (EEZ).
Song song với các yêu cầu khởi kiện liên quan đến vấn
đề chủ quyền, tuỳ thuộc vào các chứng cứ đã được thu thập, và phương pháp thu
thập chứng cứ, Việt Nam có thể yêu cầu tuyên bố việc Trung Quốc đã dùng vũ lực
làm phương hại đến công dân Việt nam đang hành nghề, khai thác hợp pháp trên
vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Chính phủ Việt Nam cũng cần tích cực hỗ trợ các hiệp
hội nghề cá thu thập chứng cứ để khi thời cơ đến có thể khởi kiện Trung Quốc
trong việc đâm tàu cá Việt Nam, làm thuỷ thủ tàu Việt Nam bị rơi xuống biển mà
không thả phao cứu theo đúng những hành xử quốc tế trên biển trong đó, tại Điều
5 của DOC mà Trung Quốc đã ký ngày 04/11/2002 rằng các bên phải đối xử công bằng
và nhân đạo đối với tất cả mọi người đang gặp hiểm nguy hoặc tai hoạ trên vùng
biển.
Chọn
cơ quan tài phán nào?
Đã có nhiều bài báo phân tích chi tiết vể việc chọn
cơ quan tài phán nào và dựa trên điều khoản nào. Tôi cho rằng đây là một khía cạnh
chuyên môn sẽ được giải quyết bởi các chuyên gia pháp lý sau khi phân tích thẩm
quyền của các Tòa và khả năng Việt Nam thỏa mãn các yêu cầu của cơ quan tài
phán này.
Tùy thuộc vào yêu cầu khởi kiện của Việt Nam và sau
khi đánh giá chứng cứ, chúng ta có thể xem xét sự phù hợp của một số cơ quan tài
phán.
Luật
sư Trinh Nguyễn và đồng nghiệp
---------------
Kỳ
1: Thời cơ có tiếng nói chính thức thông qua cơ quan tài phán quốc tế
No comments:
Post a Comment