Geoff
A.Dye
Đào
Anh Dũng dịch
viet-studies 25-3-2014
Trích
đoạn, từ cuốn "Cuộc tranh đua của thế kỷ: Kỷ
nguyên cạnh tranh mới với Trung Quốc, và cách để Mỹ chiến thắng"
("The Contest of
the Century: The New Era of Competition with China--and How America Can Win") của Geoff
A.Dyer.
Đào Anh Dũng dịch, theo: http://www.viet-studies.info/kinhte/LineWithNineDashes_Dyer.htm
---------------------------
Nếu như sự kiện chìm tàu Cheonan gây ra nhiều quan
ngại sâu sắc cho khu vực Đông-Bắc Á đối với Trung Quốc, thì tín hiệu đánh động
khu vực Đông-Nam Á lại đến từ nơi bình thường hơn: Uỷ ban của Liên Hợp Quốc về
Ranh giới Thềm lục địa.
Năm 2009, cơ quan còn khá xa lạ này của Liên Hợp
Quốc đã đặt ra hạn chót mà các nước trong khu vực phải nộp Hồ sơ quốc gia về
ranh giới ngoài Thềm lục địa tại biển Nam Trung Hoa cùng rất nhiều bãi đá, đảo
nhỏ và bãi cạn của nó. Biển Nam Trung Hoa có một danh sách đồ sộ và phức tạp
các nước tuyên bố chủ quyền ở đó. Trung Quốc, Đài Loan và Việt Nam tuyên bố chủ
quyền đối với hầu khắp vùng biển và đảo; Philippines, Brunei và Malaysia đều
chỉ tuyên bố chủ quyền đối với một phần nhỏ. Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật
Biển đem lại một bộ khung cho hoạt động lập pháp quốc tế để phân xử các tranh
chấp như vậy, một thủ tục xử theo án lệ với ngôn ngữ luật chính xác nhằm hạ
nhiệt những phản ứng đầy cảm tính. Tuy nhiên trong trường hợp biển Nam Trung
Hoa thì kết quả hoàn toàn trái lại. Sau khi Việt Nam và Malaysia ra tuyên bố
chung, Trung Quốc đã rất giận dữ. Bắc Kinh cũng có thông điệp riêng, khẳng
định: "Trung Quốc có chủ quyền không thể tranh cãi trên các đảo ở biển Nam
Trung Hoa và các vùng nước liền kề." Bên cạnh thông điệp ngoại giao bằng
ngôn từ, Bắc Kinh còn gắn kèm một bản đồ khu vực này, ở đó tuyên bố chủ quyền
của Trung Quốc được đánh dấu bởi một đường gồm 9 đoạn.
Bản đồ "đường 9 đoạn" không phải mới: nó
được vẽ lần đầu tiên vào những năm 1920 bởi các nhà bản đồ học Trung Quốc, và
được sử dụng như là bản đồ bán chính thức vào năm 1947 dưới thời Tưởng Giới
Thạch - nhà lãnh đạo Quốc Dân đảng, trước khi những người Cộng Sản giành được
chính quyền. Nhưng đây là lần đầu tiên nó được sử dụng trong một tuyên bố chính
thức của Trung Quốc tại một diễn đàn quốc tế. Và đối với nhiều quốc gia
Đông-Nam Á, nó là dấu hiệu cho sự ngạo mạn mới của Trung Quốc. Trông giống chữ
U lớn, "đường 9 đoạn" bắt đầu từ bờ biển Tây-Nam Trung Quốc, uốn lượn
xuống sát theo đường bờ biển Việt Nam, uốn cong qua vùng ven biển Malaysia và
Brunei, cuối cùng trở về đại lục Trung Quốc sau khi liếm sát vùng ven biển
Phillipines. Về phạm vi, nó chiếm gần như toàn bộ vùng biển Nam Trung Hoa,
ngoại trừ một dải hẹp bên cạnh đường bờ biển của các nước khác trong khu vực.
Trung Quốc nói bản đồ này là sự phản ánh "các quyền lịch sử" của họ
do đã kiêm soát các đảo khác nhau trong vài thế kỷ. Người Trung Quốc đôi khi
bảo rằng bản đồ hình chữ U trông giống "lưỡi bò"; một người (tôi)
mới gặp đã mô tả nó, ít hoa mỹ hơn một chút, như "dái thòng".
Sách Trắng mới nhất về quốc phòng của Trung Quốc
tuyên bố "chúng tôi sẽ không bao giờ tìm kiếm ngôi vị bá chú" - một
câu đã nhàm tai và là một trong những câu cửa miệng trong chính sách của Trung
Quốc. Song ở nhiều thủ đô khác của châu Á, nơi mà những tuyên bố về "các
quyền lịch sử" tất yếu sẽ nhắc họ nhớ lại vị trí lệ thuộc mà họ đã phải
chịu đựng trong suốt những thời đại trước đây của thế lực Trung Quốc, thì cái
phạm vi tuyệt đối, gây sốc của bản đồ Trung Quốc khiến họ cảm thấy rõ rệt một
nỗ lực giành lấy ngôi vị bá chủ. Một nhà ngoại giao Thái Lan tâm sự khi Trung
Quốc đưa ra bản đồ gồm "đường 9 đoạn": "Chúng ta có lẽ đã không
quá kinh ngạc đến vậy. Nhưng hãy nhìn mà xem, họ thật sự đang cố gắng tuyên bố
chủ quyền đối với hầu hết mọi thứ - điều đó thật đáng giật mình."
Một trong những hệ quả của 500 năm thống trị của hải
quân phương Tây ở châu Á là những cái tên được dùng phổ biến cho nhiều khu vực
đảo ở biển Nam Trung Hoa - bãi đá Mischief, bãi Macclesfield, đảo Woody, và bãi
cạn Scarborough. Khoảng 60 bãi đá ở biển Nam Trung Hoa được chia chủ yếu thành
hai nhóm: Quần đảo Hoàng Sa ở phía Bắc và Trường Sa xa hơn về phía Nam. Suốt
vài thập kỷ, các tranh chấp xem ai sở hữu những khu vực đảo này chỉ là sự kiện
bên lề ít được biết đến, ngay cả khi Trung Quốc và Việt Nam Cộng Hòa chiến
tranh chớp nhoáng giành nhau một số đảo vào năm 1974, kết quả là Trung Quốc
chiếm quyền kiểm soát Hoàng Sa, và lại chiến tranh vào năm 1988. Nhưng trong 5
năm gần đây, các tranh chấp ấy nhanh chóng trở thành một cơn bão thật sự của
nền địa-chính trị hiện đại. Biển Nam Trung Hoa là nơi mà những lo ngại của Mỹ
và Đông-Nam Á, về sự tăng cường quân sự của Trung Quốc, đã bắt đầu có sự tương
đồng. Về phía Mỹ, các tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc đã rung chuông báo động
mối de dọa trong dài hạn đối với trật tự trên biển của Mỹ. Còn về phía các nước
châu Á tuyên bố chủ quyền thì tranh chấp còn liên quan tới cả dầu, hải sản và
chủ nghĩa dân tộc mãnh liệt.
Bề ngoài có lẽ chỉ là vài miếng đất không đáng kể,
nhưng lợi ích kinh tế mà những đảo đang bị tranh chấp ở biển Nam Trung Hoa đem
lại có thể rất lớn. Ở Trung Quốc, biển Nam Trung Hoa đôi khi được gọi là
"Đại Khánh trên biển" - Đại Khánh vốn là một mỏ dầu được tìm thấy vào
những năm 1950 ở Đông-Bắc Trung Quốc, một cứu cánh cho nền kinh tế theo đường
lối Mao Trạch Đông trong thời kỳ đóng cửa kinh tế, và là thành phần chủ đạo
trong công tác tuyên truyền của Cộng Sản đảng về tự lực cánh sinh lao động chăm
chỉ. Các dự đoán của Trung Quốc ước tính có khoảng 213 tỷ thùng dầu ở biển Nam
Trung Hoa, không kém nhiều so với lượng dữ trự của Ả-Rập Xê-Út. Ứơc tính khác của
Trung Quốc cho rằng ở đó có đủ khí tự nhiên dùng trong 400 năm, với mức tiêu
thụ như hiện nay. (Một số dự đoán cá nhân thì đưa ra con số kém lạc quan hơn
nhiều - một phần vì nhiều lượng dầu là gần như không thể tái tạo - cho rằng
lượng dữ trữ khoảng 2,5 tỷ thùng). Nếu mỏ dầu tiềm năng là không đủ thì biển
vẫn đầy hải sản, làm tăng sức hút của nó đối với những tàu cá Trung Quốc và
Việt Nam, vốn đã thấy nguồn cung tại các vùng đánh bắt truyền thống gần bờ của
họ ngày càng suy giảm do đánh bắt quá tay, nên họ buộc phải tiến vào những khu
vực xa bờ hơn, những vùng nước tranh chấp. Trung Quốc là nhà tiêu thụ hải sản
lớn nhất thế giới (và là nhà xuất khẩu), hải sản cũng cung cấp một nửa lượng
protein trong bữa ăn hàng ngày của người Việt Nam. Đối với cả hai quốc gia,
đánh bắt hải sản là ngành công nghiệp có tầm quan trọng bị đánh giá thấp.
Khi mà những xích mích đã gia tăng trong vài năm gần
đây, Trung Quốc quả quyết rằng các quốc gia khác chính là nguyên nhân, và họ
đưa ra một chút bằng chứng khẳng định điều ấy. Bắc Kinh phẫn nộ trước việc
Malaysia và Việt Nam gửi báo cáo chung tới Liên Hợp Quốc, mà Trung Quốc coi đấy
là bằng chứng rằng các nước khác đang kết bè chống lại nó. Các quan chức Trung
Quốc lớn tiếng phản đối quan điểm cho rằng Trung Quốc là nước duy nhất không có
quyền khai thác tài nguyên dầu ở biển Nam Trung Hoa. "Có tới 700 giếng dầu
tại những khu vực mà chúng tôi tin là của chúng tôi, vậy mà người ta lại lên án
sự cương quyết của chúng tôi" - một quan chức Trung Quốc nói với tôi như
vậy. Họ cũng lưu ý tới sự tăng cường hạ tầng tại các vùng đảo bị kiểm soát bởi
các quốc gia khác, đặc biệt là Việt Nam tại Trường Sa - nơi Việt Nam kiểm soát
29 vùng đảo. Bắc Kinh cũng khăng khăng rằng nỗ lực của Washington can dự vào
tranh chấp đã tiếp thêm động lực cho Việt Nam và Phillipines để đối đầu với
Trung Quốc. Nhiều người Trung Quốc chắc chắn rằng Mỹ đang chống lại họ tại biển
Nam Trung Hoa. "Trung Quốc không phải nước khơi mào những vấn đề này và
còn lâu mới là thủ phạm gây ra tổn hại" - ông Thôi Thiên Khải, cựu Thứ
trưởng Bộ Ngoại giao, trở thành Đại sứ Trung Quốc tại Mỹ từ năm 2013, nói -
"thay vào đó, Trung Quốc là một nạn nhân bị buộc phải chịu những tổn
hại."
Những nước tuyên bố chủ quyền khác lại kể câu chuyện
rất khác. Họ nói tới sự hiện diện hải quân của Trung Quốc tuy gia tăng từ từ
nhưng có tính quyết định tại khu vực trong suốt một thập kỷ gần đây, tới sự
tăng cường có chủ đích các căn cứ quân sự trên một số đảo mà Trung Quốc kiểm
soát, là một phần của quá trình ngấm ngầm khẳng định chủ quyền. Các hình ảnh vệ
tinh về đảo Woody (tiếng Việt: Phú Lâm, tiếng Trung: Yongxing) thuộc Hoàng Sa
đã chứng minh điều ấy. Đảo nhỏ này cách 200 dặm về phía Nam căn cứ tàu ngầm tại
Hải Nam. Nó không có dân bản địa cũng như nguồn cấp nước tự nhiên, song chỉ vài
năm gần đây nó trở thành một thành trì quân sự được gia cố vững chắc. Một cổng
chính vừa được xây dựng tại một khu vực đã được nạo vét. Đồng thời, phần đất
liền được mở rộng để làm một đường băng cho các máy bay quân sự: các hình ảnh
vệ tinh cho thấy một dải đất hẹp dài gần gấp hai lần so với đảo. Có một dải đất
hẹp khác cho thấy con đường dài 1 dặm nối giữa đảo với một bãi nhỏ khác - mà
bây giờ được dùng làm trung tâm kiểm soát các hoạt động hải quân trong khu vực.
Năm 2012, Bắc Kinh tuyên bố rằng thị trấn chính của đảo, tức Tam Sa, trở thành
đơn vị hành chính chính thức. Có một tòa nhà chính quyền địa phương với tường
được sơn trắng, với những chiếc cột cao theo phong cách tân-cổ điển và một mái
vòm lớn, trông giống phiên bản thu nhỏ của Capitol ở Mỹ. Vào ngày nó được tuyên
bố thành đơn vị hành chính chính thức, một quan chức nông nghiệp địa phương,
tên là Xiao Jie, đến từ Hải Nam đã được gửi tới thị trấn bằng chuyến tàu 20 giờ
để đảm nhiệm cương vị lãnh đạo. "Không có đất trồng trọt ở đây" - ông
ấy nói trên cương vị mới - "mục tiêu chủ yếu là bảo vệ chủ quyền trên biển
của quốc gia".
Các chính phủ ở Đông-Nam Á chỉ trích Bắc Kinh vì
thực hiện chiến lược "miệng nói tay làm". Nếu gặp dịp, Việt Nam và
Phillipines có thể kể vanh vách những biểu hiện của Trung Quốc mà họ coi là
hành động bắt nạt. Việt Nam chỉ ra rằng 2 trong số 9 đoạn ở bản đồ nổi tiếng
của Trung Quốc ấy là thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam theo luật quốc
tế, tức là vùng 200 dặm vượt quá đường cơ sở của một quốc gia theo luật quốc
tế. Năm 2007, Bắc Kinh gây áp lực buộc Exxon Mobile và vài công ty dầu khí nước
ngoài khác phải dừng các hoạt động khoan thăm dò tại vùng ven biển Việt Nam -
một sự kiện đôi khi được coi là khởi đầu cho giai đoạn xích mích hiện nay. Năm
2011, các tàu của chính phủ Trung Quốc đã cắt cáp của 2 tàu thăm dò dầu khí cho
Petro Việt Nam. Hai tháng sau, một tàu Phillipines đang nghiên cứu địa chấn
trong vùng biển tranh chấp đã bị 2 tàu của chính phủ Trung Quốc buộc phải rời
đi. Hàng năm, những nhà cầm quyền Trung Quốc đều tạm thời cấm đánh bắt hải sản
tại một số vùng ở biển Nam Trung Hoa, mà họ nói là để bảo vệ nguồn cung, song
quyết định ấy không được sự đồng thuận của các chính phủ khác. Cứ mỗi năm,
Trung Quốc lại bắt giữ hàng tá ngư dân vi phạm lệnh cấm đánh bắt đó.
Thật khó mà không nghĩ rằng đấy là một kế hoạch dài
hạn, có tính toán nhằm dần dần khẳng định quyền kiểm soát khu vực. Vậy nhưng,
cũng như nhiều biến động mà ở đấy sức mạnh to lớn bên trong Trung Quốc bắt đầu
bùng phát, còn một khía cạnh khác trong sự cương quyết mới đây của Trung Quốc
tại biển Nam Trung Hoa, đó là áp lực tích tụ từ bên dưới buộc phải họ phải mạnh
tay hơn. Hành xử của Trung Quốc tại biển Nam Trung Hoa là một trong những ví dụ
rõ ràng nhất cho thấy các nhóm lợi ích đua tranh nhau đã uốn nắn chính sách ngoại
giao như thế nào - sự phân chia quyền lực là điều mà giới lãnh đạo Trung Quốc
đã chứng kiến. Một loạt cơ quan khác nhau của chính phủ phải chịu trách nhiệm
chồng chéo nhau đối với những yếu tố góp phần khẳng định sự hiện diện của chính
phủ họ tại biển Nam Trung Hoa, và đôi khi họ tranh cãi nhau để chứng tỏ sự hiện
diện của mình. Người Trung Quốc nhanh chóng nhận ra điều này, và gọi các nhóm
khác nhau ấy là "9 con rồng" - một sự liên hệ với truyền thuyết cổ
xưa về một vua rồng có 9 đứa con, có thể bắt gặp ở vô vàn bức tranh tường
"khuấy động vùng biển".
Một trong những áp lực từ bên dưới đó đến từ các
chính quyền địa phương. Chính quyền đảo Hải Nam, nơi có căn cứ hải quân mới,
chịu trách nhiệm quản lý Trường Sa và Hoàng Sa, suốt 2 thập kỷ vừa qua đã thử
tổ chức những chuyến du lịch hạng sang tới các đảo như một phần kế hoạch phát
triển của riêng họ. Trong vài năm gần đây, sự ngăn cản của những nhà cầm quyền
tại trung ương đối với các hoạt động này đã giảm dần. Các hãng du lịch ở Hải
Nam giới thiệu với khách hàng những gói dịch vụ bơi lặn xa hoa tại Hoàng Sa, và
hiện nay có một cuộc đua thuyền giữa Hải Nam và Hoàng Sa. Những công ty dầu khí
lớn, thuộc các thành phần quyền lực nhất và liên kết chặt chẽ nhất của nền công
nghiệp do nhà nước sở hữu, cũng vừa ra sức vận động chính phủ tăng cường tuyên
bố chủ quyền tại khu vực. Năm 2012, CNOOC - một trong 3 công ty dầu khí lớn -
đã mời các công ty dầu khí nước ngoài cùng khai thác 9 mỏ dầu tại những khu vực
còn tranh chấp, mà một số mỏ dầu trong đó thuộc vùng đặc quyền kinh tế của Việt
Nam.
Ngay cả trong những cơ quan trực thuộc chính phủ
Trung Quốc đang quản lý các hoạt động tại khu vực, thì cũng có các nhóm lợi ích
đua tranh nhau. Cục quản lý Nghề cá chịu trách nhiệm điều phối hoạt động đánh
bắt tại những vùng nước của Trung Quốc, nhưng cơ quan Gíam sát Hàng hải Trung
Quốc cũng tiến hành các hoạt động thực thi luật pháp trong khu vực. Như bất cứ
cơ quan tốt nào khác, họ đều cố thể hiện tầm quan trọng của mình để có thêm
ngân sách, vốn đã phình ra nhanh chóng trong vài năm gần đây. Họ thậm chí còn
có một câu cửa miệng để biện minh cho những chức năng đôi khi lẫn lộn và chồng
chéo của mình: "Hãy chộp lấy những gì bạn có thể chộp được trên biển, rồi
sau đó hãy phân chia trách nhiệm giữa các cơ quan". Bộ Nông nghiệp, nơi
chịu trách nhiệm về nghề cá, quản lý một hệ thống khen thưởng cho các cá nhân,
những người "mạnh mẽ và dũng cảm trong việc bảo vệ chủ quyền của Trung
Quốc": còn các quan chức thì được thưởng vì đã đuổi nhiều tàu thuyền nước
ngoài ra khỏi những vùng nước mà Trung Quốc tuyên bố chủ quyền. Với hàng tá tàu
và máy bay trong tay, các cơ quan này cũng có vai trò trong việc mở rộng phạm
vi tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc. Trong khi việc sử dụng hải quân có thể bị
coi là một động thái gây phẫn nộ, thì các tàu thực thi luật pháp lại có thể
hiện thực hóa tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc một cách ít trực diện hơn.
Còn 2 yếu tố khác đằng sau nỗi lo ngại sâu sắc của
khu vực Đông-Nam Á. Không chỉ có sự gia tăng tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc
làm dấy lên lo ngại trong khu vực, mà còn có sự mập mờ của nó. Chẳng ai biết rõ
mình đang đối mặt với vấn đề gì. Ngay cả khi bản đồ "đường 9 đoạn" đã
tồn tại suốt vài thập kỷ, thì Trung Quốc cũng chưa bao giờ thực sự xác định
lãnh thổ theo bản đồ ấy. Có những lúc, các quan chức Bộ Ngoại giao cố làm dịu
các lo ngại, bằng cách nói rằng những tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc chỉ áp
dụng với các vùng đảo và vùng đất bên trong đường 9 đoạn thôi. Một tuyên bố như
thế sẽ vẫn kéo theo một loạt tranh chấp khó khăn, dù phạm vi ít hơn nhiều so
với việc tuyên bố chủ quyền đối với toàn bộ khu vực trên bản đồ. Thế nhưng có
những lúc khác, các quan chức và các nhà phân tích Trung Quốc lại nói rằng
"quyền sở hữu" lịch sử đối với biển Nam Trung Hoa đem lại cho họ
những độc quyền đối với mọi thứ bên trong đường 9 đoạn. Những người khác lại đề
xuất rằng khu vực bên trong đường 9 đoạn là một phần trong "các vùng nước
chủ quyền" của Trung Quốc. Bành Quang Khiêm, một tướng lĩnh diều hâu cao
cấp của Giải phóng quân Nhân dân Trung Hoa, thì bảo rằng các vùng nước bên
trong "đường 9 đoạn" là "vùng đất màu xanh... của Trung
Quốc" và là một khu vực "thuộc sở hữu" của Trung Quốc. Nỗ lực
của CNOOC thực hiện các hợp đồng dầu khí bên trong các vùng nước tranh chấp và
các lệnh cấm đánh bắt mà Trung Quốc áp đặt đã cho thấy quan điểm chính thức là
rất khác quan điểm do Bộ Ngoại giao đưa ra. Sự mập mờ ấy có thể bộc lộ vài
điều. Có thể là sự linh hoạt trong quan điểm của Trung Quốc, được điều chỉnh
sau các cuộc đàm phán. Nhưng cũng có thể là Trung Quốc đang thử theo cả hai con
đường: những nhà ngoại giao kiên định với các tuyên bố chủ quyền phạm vi hẹp,
trong khi hành động thực tế lại nhắm tới một phạm vi bao quát hơn nhiều.
Còn một vấn đề về tầm vóc nữa. Khi làm việc với
Trung Quốc, những quốc gia khác ít cảm thấy sự bình đẳng về chủ quyền, mà phần
nhiều thì cứ như là họ buộc phải ngồi cạnh một con voi lớn có thể đập bẹp họ.
Sự khác biệt rất lớn về tầm vóc ấy khiến cho những động thái của Trung Quốc
dường như nguy hiểm đối với các hàng xóm hơn những gì mà Bắc Kinh nhận thức.
Những nước tuyên bố chủ quyền của Đông-Nam Á muốn thảo luận đa phương về các
tuyên bố chủ quyền khác nhau, với niềm tin rằng chỉ có thảo luận đa phương mới
cho phép họ nói chuyện một cách bình đẳng. Vì sợ hãi các quốc gia khác sẽ liên
minh nhờ đó, Trung Quốc kiên quyết rằng từng quốc gia nên làm việc theo cơ chế
song phương. Đối với những nước nhỏ hơn, sự kiên quyết đàm phán song phương của
Trung Quốc giống như một kiểu bắt nạt. Một chính khách cấp cao tới từ một nước
Đông-Nam Á nói: "Quan điểm của Trung Quốc là 'vấn đề không phải tính đúng
đắn trong tuyên bố chủ quyền của chúng tôi; nếu chúng tôi nói đó là của chúng
tôi thì có nghĩa rằng đó là của chúng tôi'".
Để có quan hệ tốt với Trung Quốc, thì những phản ứng
dữ dội trong khu vực trước thái độ của Trung Quốc tại biển Nam Trung Hoa dường
như vừa được một cú hích nhẹ từ sự xoay trục linh hoạt của Mỹ. Nếu như có một
khu vực mà Washington vẫn chiếm ưu thế mang tính quyết định so với Bắc Kinh,
thì nó ở trong nghệ thuật hắc ám của truyền thông mật báo. Tháng Ba năm 2009,
Jeff Bader - giám đốc phụ trách khu vực châu Á của Hội đồng An ninh Quốc gia,
và James Steinberg - Thứ trưởng Ngoại giao, đã tới Bắc Kinh để tham gia một
loạt cuộc họp với những người đồng cấp phía Trung Quốc. Biển Nam Trung Hoa là một
trong những đề tài được chú trọng trong các cuộc họp. Vài tuần sau, báo New
York Times đăng một câu chuyện nói rằng Trung Quốc giờ đây coi biển Nam Trung
Hoa là một "lợi ích cốt lõi".
Trong ngoại giao, những câu chữ ngắn ngủi có thể
mang theo sức mạnh to lớn. Trong ngôn ngữ mã hóa của nền ngoại giao Trung Quốc,
hai từ này vô cùng quan trọng. Các "lợi ích cốt lõi" khác là Đài Loan
và Tây Tạng, những nơi mà đảng Cộng Sản Trung Quốc sẽ dời cả những ngọn núi để
giành lấy sự thống trị. Việc mô tả biển Nam Trung Hoa bằng các câu chữ như vậy
thật sự đã cho thấy một sự tăng cường căn bản, một dấu hiệu rằng Trung Quốc
không bao giờ nhân nhượng hay đàm phán. Các quan chức Trung Quốc thực tế đã thể
hiện tâm thế không nhân nhượng trong suốt những cuộc họp, đưa ra vài bài giảng
về các quyền của họ tại biển Nam Trung Hoa. Thế mà Jeff Bader và James
Steinberg vẫn quả quyết rằng công thức "các lợi ích cốt lõi" dễ gây
bùng nổ ấy không bao giờ được sử dụng trong những cuộc họp của họ - dù chính
điều này còn gây tranh cãi - cả từ phía các thuộc cấp của ông Dai lẫn từ phía
một số thành viên trong đoàn đại biểu Mỹ. ("Hillary dường như vừa dọn dẹp
lại bộ nhớ của mình" - một quan chức Mỹ chua cay như vậy). Tuy nhiên, dù
nguồn gốc của cụm từ "lợi ích cốt lõi" có là gì thì Trung Quốc cũng
đã bị rơi vào thế khó. Chính phủ Trung Quốc không thể xác nhận lời tuyên bố mà
lại không gây phẫn nộ cho khu vực Đông-Nam Á. Nhưng chẳng ai trong số họ có thể
chính thức phủ nhận câu chuyện, vì sợ vấp phải sự chỉ trích của những người dân
tộc chủ nghĩa rằng họ đã yếu đuối. Thay vào đó, Bắc Kinh im lặng gắm nhấm nỗi
đau.
Nếu câu chuyện "lợi ích cốt lõi" bị cường
điệu hóa, thì đó là loại cường điệu mà cả khu vực đều tin ngay lập tức, vì nó
có vẻ ăn khớp với hành xử thực tế của Trung Quốc. Thuật hùng biện của
Washington, kể từ năm 2010, thỉnh thoảng dựa vào những khẩu hiệu vụng về cùng
với dòng chữ "Mỹ đang quay lại" ở châu Á. Song câu chuyện thực sự lại
là cánh cửa mở chờ đón Washington bước vào một khu vực mà ở đó sự lo ngại Trung
Quốc đang lên nhanh. Ở Phillipines chẳng hạn, đã có sự phấn khích rộng khắp khi
Hải quân Mỹ bị buộc phải rời khỏi căn cứ của nó tại vịnh Subic năm 1992, còn
những nhà lãnh đạo kiểu Gloria Arroyo đã chào đón Trung Quốc như một
"người anh cả". Nhưng các tàu chiến của Mỹ giờ đây đang quay lại với
tần suất lớn chưa từng thấy, còn tổng thống mới của Phillipines, ông Benito
Aquino đã tuyên bố năm 2012: "Chúng ta cần đoàn kết chống lại những hành
động tấn công từ phía Trung Quốc".
Về cơ bản, Trung Quốc đã bắt đầu phải hứng chịu tai
hại từ sự bất nhất căn bản trong chiến lược của họ. Vào giai đoạn tốt nhất
trong 2 thập kỷ, Bắc Kinh đã theo đuổi hai mục tiêu riêng biệt. Họ có một chiến
lược quân sự cố gắng đẩy lui dần Mỹ về phía Thái Bình Dương và giành quyền kiểm
soát lớn hơn tại các vùng biển gần Đại lục. Đồng thời, họ có hoạt động ngoại
giao dồn dập nhằm ngăn cản các hàng xóm tạo thành một liên minh cô lập nó. Thế
nhưng họ điều chỉnh hai mục tiêu không ăn khớp nhịp nhàng. Họ càng chống Mỹ và
càng gia tăng tuyên bố về lãnh thổ thì họ càng khiến khu vực thêm chào đón
Washington. Trung Quốc đã gặp hết trở ngại này đến trở ngại khác về chiến lược.
Rốt cuộc lại làm vững mạnh thêm những đồng minh trụ cột của Mỹ ở Đông-Bắc Á.
Đồng thời, hành xử của Trung Quốc ở biển Nam Trung Hoa tạo điều kiện cho Mỹ gắn
bó hơn với các quốc gia Đông-Nam Á. Shi Yinhong, học giả Trung Quốc và là người
hâm mộ Otto von Bismarck, nói một cách buồn bã: "Chúng tôi thu được toàn
những kết quả trái với những gì mong đợi".
Kinh nghiệm của Mỹ trong thế kỷ 19 cho thấy phạm vi
mà chiến lược của Trung Quốc nhắm tới là sai lầm. Suốt gần 2 thế kỷ, Mỹ đã
tuyên bố sở hữu một khu vực và đã cố gắng ngăn những thế lực lớn khác không thể
áp đặt ảnh hưởng mang tính quyết định ở Tây Bán Cầu. Một nhà ngoại giao Trung
Quốc từng dè dặt đặt vấn đề: "Tại sao chúng ta không có học thuyết Monroe
của riêng mình?". Ông ấy nhanh chóng tự kiểm duyệt, vì Trung Quốc không
thừa nhận bất kỳ sự tự tin nào như vậy, nhưng không quá khó hiểu tâm trạng chán
chường đằng sau câu hỏi ấy. Với một số người Trung Quốc, Mỹ sử dụng tiêu chuẩn
kép khi cách ra sức ngăn cản Trung Quốc có được cùng loại ảnh hưởng mà Mỹ đang
lợi dụng ở sân sau của mình. Việc so sánh quan điểm hướng tới các vùng biển gần
Đại lục của Trung Quốc với học thuyết Monroe đã từng bị coi là một cái gì đó
ngạo mạn. Nhưng khi những tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc thêm phần cứng rắn
thì phép so sánh lại bắt đầu tỏ ra hợp lý. Những cái gọi là "đường 9
đoạn" và các tuyên bố về "những quyền lịch sử" là gì nếu không
phải lời khẳng định cho một ý thức sở hữu và quyền hành thống trị khu vực nào
đó? Thế nhưng một lịch sử rất khác đằng sau học thuyết Monroe đã cho thấy rõ sự
bất đồng căn bản giữa cái nhìn của Trung Quốc về chính mình với cái nhìn của
nhiều quốc gia châu Á về Trung Quốc. Sức mạnh hải quân Mỹ từ những năm 1890
chắc chắn là một yếu tố cho phép Washington mở rộng quyền lực của mình, song
không phải yếu tố duy nhất. Một yếu tố khác quan trọng không kém là sự chào đón
hào phóng mà Mỹ có được ở phần lớn khu vực Mỹ La-tinh cũng vào thời gian đó.
Học thuyết Monroe không được áp dụng ở bán cầu không chào đón nó: tại nhiều
vùng của Mỹ La-tinh, nó được hoan nghênh.
Khi Brazil đăng cai Hội nghị hợp tác xuyên-Mỹ lần
thứ ba vào năm 1906, thì nhân vật chủ đạo là Elihu Root, Bộ trưởng Ngoại giao
dưới thời Teddy Roosevelt, đang công du khắp khu vực Mỹ La-tinh để giải thích
những tác động của học thuyết Monroe. Elihu Root đã được chào đón nồng nhiệt,
vì nhiều chính phủ Nam Mỹ thấy rằng học thuyết Monroe không phải sự áp đặt của
thế lực Mỹ mà là sự bảo đảm cho họ độc lập khỏi sự cai trị của thực dân châu
Âu. Sự tin tưởng vào Washington lớn tới mức những người Brazil đổi tên tòa nhà
diễn ra hội nghị thành Palacio Monroe - cái tên vẫn được giữ khi tòa nhà trở
thành trụ sở vĩnh viễn của Thượng viện. Joaquim Nabuco, một trong những người
Brazil nhiều ảnh hưởng nhất thời đại vì vai trò trong công cuộc xóa bỏ chế độ
nô lệ, đã vui mừng công bố rằng mình là một "người theo chủ nghĩa
Monroe". Ông ấy nói: "Đối với tôi, học thuyết Monroe có nghĩ rằng
chúng ta tự tách mình khỏi châu Âu một cách hoàn toàn và kiên quyết như mặt
trời với mặt trăng vậy". Tất nhiên, trong vài thập kỷ sau Chiến tranh Thế
giới thứ II, khi mà Mỹ tham gia lật đổ những chính phủ do dân bầu ra ở
Guatemala những năm 1950, ở Brazil những năm 1960, và ở Chile những năm 1970,
thì cái nhìn của khu vực về sự cần thiết có Mỹ đã thay đổi chóng mặt. Chủ nghĩa
chống-Mỹ nhanh chóng trở thành một phần của DNA chính trị khu vực Mỹ La-tinh.
Kể từ đó, nhiều chính phủ cố đẩy lùi Washington theo đúng cách mà các nước châu
Á hiện nay đang làm với Trung Quốc. Song thực tế thì tòa nhà Thượng viện Brazil
được đặt tên sau khi Monroe nhấn mạnh cái cách mà khu vực đó hiểu học thuyết
của ông ấy vào thời gian ấy.
Sự giận dữ tại châu Á, vốn đã bắt đầu thành hình từ
năm 2010, sẽ không dễ cho Trung Quốc có thể đảo ngược, ngay cả khi Trung Quốc
thử quay về một dạng "ngoại giao nụ cười" khác. Năm 2010 không phải
một ngọn lửa bùng lên giây lát trên chảo, mà nó cho thấy một sự thay đổi trật
tự chính trị dài hạn ở châu Á, trong đó nhiều chính phủ nhận thức rằng những
lợi ích của họ có điểm chung với những lợi ích của Washington. Trở ngại cho
Trung Quốc không phải tạm thời nếu nghiên cứu sâu hơn về hai quốc gia trọng yếu
tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương, hai quốc gia khác nhau rất nhiều về chính
trị, văn hóa và lịch sử, nhưng là hai quốc gia đang bộc lộ bản năng giống nhau
trước sự trỗi dậy của Trung Quốc: Australia và Việt Nam.
No comments:
Post a Comment