Nguyễn Giang
bbcvietnamese.com
Cập nhật: 18:04 GMT -
thứ sáu, 28 tháng 2, 2014
Những diễn biến hiện nay ở Crimea không khỏi nhắc
lại cuộc chiến đẫm máu giữa thế kỷ 19 mà nhiều chi tiết còn đầy
tính thời sự để đánh giá tình hình quốc tế ngày nay.
Nhìn từ Anh và Pháp, Chiến
tranh Crimea (1853-1856) là cuộc chiến quốc tế lớn nhất giữa trận
Waterloo (1815) và Đại chiến Thế giới thứ nhất (1914-1918).
Chiến tranh Crimea cũng có
nhiều yếu tố như địa chính trị, nhu cầu thông thương hàng hải, tôn
giáo và mô hình thể chế khá giống ngày nay và để lại nhiều vết
thương sâu nặng cho các dân tộc nhỏ trong vùng.
Không chỉ địa chính trị
Năm 1853, Nga Hoàng Nicholas I
khi thấy đế quốc Ottoman suy yếu đã quyết định tranh thủ cơ hội chiếm
Moldova và Walachia trên sông Danube thuộc vùng châu Âu mà người Thổ Nhĩ
Kỳ làm chủ.
Điều này đã đụng chạm đến
quyền lợi của Áo muốn đảm bảo thông thương trên dòng Danube và khiến
Anh và Pháp phản ứng mạnh hơn Nga tưởng.
Sang năm 1854, chừng 1 triệu
liên quân Anh, Pháp, Áo, Ý, Thổ Nhĩ Kỳ đã phối hợp đánh Nga vốn có
Bulgaria và Serbia cùng theo Chính Thống giáo trợ giúp, với số quân
cả thẩy khoảng 700 nghìn.
Các xung đột diễn ra ở
nhiều vùng tại Nam Âu, Trung Cận Đông và cả trên biển Baltic nhưng chủ
yếu là ở bán đảo Crimea thuộc đế chế Nga với trận Sevastopol nổi
tiếng.
Phía liên quân đã gạt sang
một bên khác biệt tôn giáo: Anh Quốc theo Tin Lành, Pháp thời Napoleon
III theo Công giáo La Mã và Thổ Nhĩ Kỳ theo đạo Hồi, để chống lại
sự bành trướng của nước Nga theo Chính Thống giáo.
Theo cách nhìn từ Anh, binh
đoàn Scotland của Anh hồi đó đã tấn công cú quyết định ở Balaklava
ngày 24/10/1854, bẻ gãy ý chí chiến đấu của quân Nga, dẫn tới Hòa
ước Paris ký kết năm 1856, định lại một trật tự khu vực mới.
Lần đầu tiên, truyền thông
Anh, nhờ đường dây cáp nối thẳng từ Crimea qua Biển Đen, đã đọc tin
tức chiến sự hàng ngày trong một cuộc cách mạng về thông tin và
nghề báo.
Các tin xấu từ chiến
trường cũng khiến chính phủ của Lord Aberdeen ở London sụp đổ, đánh
dấu tác động trực tiếp của báo chí vào chính trường Anh.
Các trận chiến hải quân và
xung kích trên bộ vừa bằng súng, vừa bằng gươm giáo tại Chiến tranh
Crimea cũng khiến ngành quân khí châu Âu và nhiều loại súng và pháo
mới được cải thiện, có ảnh hưởng lớn tới cuộc nội chiến ở Mỹ
(1861-1865).
Điều thú vị là dù các huy
chương Thập giá Victoria của Anh được đúc ra từ nòng pháo bằng đồng
của quân Nga, trên thực tế đó là một khẩu pháo Nga lấy của nhà Thanh
bên Trung Hoa.
Trượt dần vào chiến tranh
Nhưng tổn thất về nhân mạng
quá lớn đa số do thương tật, bệnh dịch của các bên: chừng 1 triệu
quân Nga, 25 nghìn quân Anh, 100 nghìn quân Pháp, không kể quân Thổ Nhĩ
Kỳ, Ý, Áo...đã đặt ra nhiều vấn đề mang tính nhân đạo và cách thi
hành chiến tranh.
Anh Quốc ghi nhớ vai trò
của nữ y tá chiến trường Florence Nightingale và trẻ con ở trường học
Anh đến nay vẫn học tấm gương của ‘nữ anh hùng’ đã dẫn đầu các nhóm
quân y cứu chữa cho thương binh ở Crimea.
Dù sau cuộc chiến, Anh Quốc
có được chừng 30 năm mà các quyền lợi ở Cận Đông không bị Nga đe
dọa, sự tham chiến của quân Anh vào một nơi xa xôi đã không đến từ
tính toán chiến lược nào cả, mà chỉ do tình thế đưa đẩy và phản
ứng thời đoạn của chính giới London, khiến người ta không khỏi lo
ngại về sự can dự vào Ukraine ngày nay của châu Âu.
Nước Pháp của Hoàng đế
Napoleon III, kẻ cho pháo thuyền đánh Việt Nam ngay sau đó (1858), đã
giành vị thế thượng phong ở châu Âu sau trận chiến Crimea nhưng không
lâu sau đã bị ngay quân Phổ thách thức.
Châu Âu học được bài học
lớn về Chiến tranh Crimea rằng xung khắc đôi khi chỉ mang tính danh dự
giữa các bậc vua chúa đã gây ra thương vong lớn cho quân sỹ, làm nhiều
dân tộc lầm than, và châu Âu trở thành bất ổn trong nhiều thập niên.
Nga cũng biết tham vọng
bành trướng lãnh thổ thường thất bại khi phải đối mặt với nhiều
nước một lúc.
Trận Crimea chấm dứt thời
lãnh đạo của Nga Hoàng Nicholas I (1796-1855) và dưới thời vị kế
nhiệm Alexander II, các nỗ lực cải tổ quân đội và giải phóng nông nô
phần nào thay đổi xã hội Nga nhưng nhiều vấn đề khác lại nảy sinh.
Nga không còn hạm đội Biển
Đen, mất quyền kiểm soát đường biển xuống phía Nam và chuyển bạo
lực vào nội địa.
Năm 1863, người Ba Lan khởi
nghĩa đòi độc lập và bị Nga đàn áp đẫm máu.
Nga Hoàng Alexander II dù
tăng quyền tự trị cho người Phần Lan ở phía Bắc đã thanh lọc chủng
tộc tại vùng Caucasus với dân Hồi giáo, giết chết hàng trăm nghìn
người, gồm cả dân Tatar ở Crimea, tính đến năm 1864.
Một hệ quả khác của Chiến
tranh Crimea là cuộc chiến của các bộ tộc miền núi Chechnya chống
lại Nga mà dư âm còn đến ngày nay.
Bản thân Alexander II bị ám
sát chết năm 1881 trong làn sóng sôi sục vùng lên của các tầng lớp
xã hội Nga.
Hai vị kế nhiệm, Alexander
III và Nicholas II đều dựa vào mật vụ Okhrana để đàn áp nội bộ nhưng
đến năm 1905 thì Nga nổ ra thời kỳ cách mạng liên tiếp tới tận năm
1917.
Crimea - một biểu tượng
Crimea trở thành biểu tượng
của sự chia rẽ, các vết thương lịch sử chưa lành, những cuộc hòa
đàm của đại cường định đoạn số phận của các dân tộc nhỏ hơn.
Crimea từ xa xưa luôn là
vùng đất tranh chấp của nhiều giống người, từ người Hy Lạp cổ đại
đến các nhóm dân Trung Đông, Nga và Cận Đông.
Người Tatar theo Hồi giáo
từng có vương quốc ở đây trong nhiều thế kỷ – tên Crimea đến từ tiếng
Tatar ‘Qirim’ chỉ các vách núi đâm thẳng xuống biển – nhưng thù hằn
cũng đến từ lịch sử quân Tatar chuyên bắt người Nga và Ukraine làm nô
lệ bán sang Trung Đông.
Trong Thế chiến II,
phát-xít Đức chiếm Crimea của Liên Xô và lập ra chính quyền ủng hộ
thiểu số Tatar, điều khiến họ bị Stalin trả thù sau này.
Sau Thế chiến, chính tại
khu nghỉ mát Yalta ở Crimea, Joseph Stalin đã hội đàm với Winston
Churchill và Franklin Roosevelt, hoạch định bàn cờ quốc tế từ Âu sang
Á.
Với các dân tộc Đông Âu,
Yalta là biểu tượng của sự chia cắt và mất mát: Ba Lan mất 1/3 lãnh
thổ cho Liên Xô, Ukraine mất nhiều vùng đất cho Nga, Moldavia, còn
Hungary mất quá nửa quốc gia cho các vùng Moscow tạo thành Tiệp Khắc,
Romania, và Đức mất nhiều thành phố phía Đông cho nước Ba Lan cộng
sản.
Sau Thế chiến, người Tatar
chịu đau khổ nhất vì Stalin bắt toàn bộ dân tộc này đầy sang Trung Á
và họ chỉ được trở về Crimea sau khi Liên Xô tan rã, nay chiếm chừng
12% dân số tổng số hơn 2 triệu người mà đa số là người Nga (58%), sau
đến người Ukraine (25%).
Trong các cuộc đầy ải có tổ chức của Liên Xô, ước tính trên 600
nghìn người Tatar đã thiệt mạng.
Điều này giải thích vì sao
hiện nay, người Tatar ủng hộ chính phủ Kiev và không muốn sự ảnh
hưởng của Nga ở Crimea.
Bên cạnh đó, cuộc thảm sát hơn 2 triệu
người Armenia theo Thiên Chúa Giáo bởi bàn tay của quân Thổ Nhĩ
Kỳ năm 1915 vì trả thù họ theo người Nga góp phần làm nên bức tranh
đầy máu và nước mắt trong vùng.
Không ai nói tình hình hiện
nay tại Crimea sẽ dẫn tới một cuộc chiến toàn diện nhưng cũng khó
quên tính biểu tượng của bán đảo nằm giữa Biển Đen và Biển Azov ở
vùng đất lại đang biến động.
Sau Chiến tranh Lạnh, một
số nhà quan sát đã coi khu vực Âu Á (Eurasia) là nơi có các cuộc
‘xung đột bị đóng băng’ và chưa được giải quyết xong, mà lần gần
nhất bùng lên khi Nga đưa quân vào Gruzia năm 2008.
Chiến tranh nếu xảy ra sẽ
có thể giải quyết được các quyền lợi địa chính trị, sắp đặt lại
các vùng ảnh hưởng, nhưng nhìn từ góc độ con người, có thể trích lời Florence
Nightingale về nỗi đau chiến tranh bà chứng kiến ở Crimea như sau:
"Điều khủng khiếp của chiến tranh là
thứ không ai có thể hình dung ra. Đó không phải là vết thương chảy
máu, là cơn sốt, cái nóng ngột ngạt hay đói rét mà là sự độc địa,
tàn ác như cơn say, là sự mất nhân phẩm, hỗn loạn ở phía bị khuất
phục, là sự cao ngạo, tàn độc, ích kỷ ở phía kẻ chiến
thắng..."
Câu hỏi là các xung đột quanh Crimea có đang tan băng?
No comments:
Post a Comment