Trọng
Thành
- RFI
Thứ tư 10 Tháng Tư 2013
Từ nhiều năm nay tình trạng lao động bất hợp pháp Việt
Nam tại Nga bị đối xử tàn tệ đã được truyền thông trong nước và quốc tế thường
xuyên theo dõi. Mới đây, vụ 15 phụ nữ bị lừa sang Nga được hứa là để đi bán
quán, để rồi sau đó bị buộc phải bán dâm, một lần nữa lại gióng lên hồi chuông
cảnh báo về số phận thê thảm của người lao động Việt tại Nga.
Tình trạng khổn khổ của lao động Việt Nam tại Nga là một
thực tế được chính các giới chức trong chính quyền Việt Nam thừa nhận. Báo chí
Việt Nam cho biết, trong một chuyến công cán của Ủy ban Kinh tế - Quốc hội Việt
Nam cách đây hai năm, ông Hà Văn Hiền, chủ tịch Ủy ban ghi nhận thực trạng « khổ
sai » của lao động Việt Nam tại Nga đã dường như không có
thay đổi gì so với thời gian trước. Tại Quốc hội Việt Nam vào hồi mùa hè năm
ngoái, bộ trưởng Lao động, Thương binh và Xã hội một lần nữa lại đứng trước các
chất vấn của dân biểu về cuộc sống tồi tệ của người lao động bất hợp pháp tại
Nga.
Về mặt chính thức, theo số liệu thống kê của Cục quản lý
lao động ngoài nước (Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Việt Nam) vào cuối năm
ngoái 2012 tại Nga, có khoảng 10.000 lao động Việt Nam làm việc, nhưng số lượng
lao động đăng ký với các tổ chức môi giới chính thức chỉ có khoảng trên 3.000
người. 7.000 người lao động khác vào Nga làm việc theo con đường « tự do
» (mà rất nhiều người trong đó sử dụng hộ chiếu du lịch để xuất cảnh sang Nga),
không đăng ký theo hợp đồng như quy định của Nhà nước Việt Nam. Trên thực tế,
theo một số ước đoán, số lượng lao động làm việc bất hợp pháp tại Nga cao hơn
con số kể trên rất nhiều, và có thể lên tới vài chục ngàn người.
Bên cạnh những người bị cưỡng bức nô lệ tình dục như
trường hợp 15 phụ nữ mới được phát giác, còn rất nhiều người lao động khác phải
làm việc, đặc biệt tại các xưởng may bất hợp pháp, còn gọi là « xưởng may
đen » trong các điều kiện hết sức tồi tệ, với giờ làm việc kéo dài từ 12-14
giờ/ngày, thậm chí đến 18 giờ/ngày, kể cả ngày nghỉ, điều kiện làm việc, ăn
uống, ở nghỉ tồi tệ, bị trả lương thấp hơn nhiều so với hợp đồng, thêm vào đó
còn phải chịu các hình thức hành hạ ngược đãi khác.
Đầu năm 2012, Luật phòng, chống mua bán người của Việt
Nam bắt đầu có hiệu lực. Kể từ đó đến nay, tình trạng của người lao động Việt
tại Nga, đặc biệt người lao động bất hợp pháp ra sao ?
Ngày 11/09/2012, tại một xưởng may đen ở Iegorievski, một
thành phố nhỏ nằm cách thủ đô Matxcơva khoảng hơn 100 km về phía đông nam, hỏa
hoạn đã bùng lên khiến 14 công nhân Việt Nam thiệt mạng. Nguyên nhân khiến các
nạn nhân không thể chạy thoát là do nhà xưởng bị khóa trái, một tình trạng
thường thấy ở các xưởng may đen.
Vào mùa hè năm ngoái, bùng lên vụ hơn 100 lao động, làm
thuê cho công ty Vinastar kêu cứu vì bị buộc phải làm việc trong điều kiện như
nô lệ khổ sai. Cục Cảnh sát hình sự Việt Nam đã tiến hành điều tra và khởi tố
vụ án mua bán người, cưỡng ép và bóc lột sức lao động này.
Nhiều nhân chứng cho thấy, những vụ việc kể trên chỉ là
phần nổi của tảng băng. Trong một cuộc trả lời phỏng vấn RFI, nhà báo Nguyễn
Minh Cần cho biết tại Nga có hàng nghìn xưởng may sử dụng lao động Việt Nam,
trong đó các xưởng « trắng » (tức xưởng hợp pháp) thì rất ít, mà đa số
là các xưởng bất hợp pháp, mà ở đó các công nhân thường bị bóc lột ghê gớm và
bị đối xử rất tàn tệ.
Đâu là phần trách nhiệm của các cơ quan hữu trách của
Việt Nam, từ đại sứ quán Việt Nam tại Nga, đến bộ Lao động, cũng như các cơ
quan phụ trách kiểm soát xuất cảnh... ?
Rõ ràng cho đến nay, mặc dầu chính quyền Việt Nam đã có
một động thái nhất định, thể hiện quyết tâm bài trừ nạn buôn người, đặc biệt
với việc thông qua bộ luật riêng về lĩnh vực này, nhưng theo nhiều người quan
sát, thực trạng của nạn buôn người sang Nga và tình trạng khổ ải của người lao
động tại Nga, đặc biệt những người lao động bất hợp pháp, dường như vẫn chưa có
chiều hướng thuyên giảm.
Trong tạp chí cộng đồng tuần này, chúng tôi xin chuyển
tới quý vị tiếng nói của ông Nguyễn Đình Thắng (Virginia – Hoa Kỳ), Giám đốc
BPSOS – đồng sáng lập viên Liên Minh CAMSA. CAMSA có tên đầy đủ là Liên Minh
Bài Trừ Nô Lệ Mới ở Á Châu, là tổ chức có nhiều nỗ lực trong việc bảo vệ người
lao động xuất khẩu Việt Nam làm việc tại nhiều quốc gia như Malaysia, Đài Loan…
Mới đây CAMSA đã có những tác động quan trọng trong việc giải cứu 7 phụ nữ trong số 15 người bị bắt làm mãi dâm hồi
tháng 3/2013 vừa rồi.
Cùng với tiến sĩ Nguyễn Đình Thắng, khách mời của tạp chí
tuần này còn có bà Danh Hui (từ Houston), chị ruột của cô Huỳnh Thị Bé Sương,
là một trong 7 phụ nữ vừa được giải cứu, đã được hồi hương về Việt Nam. Ngày mai 11/04, bà Danh Hui sẽ
ra trình bày trước Quốc hội Hoa Kỳ về vụ 15 phụ nữ Việt Nam bị ép bán dâm tại
Nga. Theo Liên minh CAMSA, thứ Sáu 05/04 vừa qua dân biểu Ed Royce, Chủ
Tịch Uỷ Ban Đối Ngoại của Hạ Viện Hoa Kỳ, đã chuyển cho Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ
tài liệu của Liên Minh CAMSA về tình trạng buôn người ở Việt Nam, trong đó có
hồ sơ của 15 nạn nhân kể trên.
Bên cạnh đó, từ Việt Nam, ông Đào Công Hải, Cục phó Cục
Lao động ngoài nước lưu ý với công chúng về một số quy định chủ yếu của luật
pháp Việt Nam trong lĩnh vực xuất khẩu lao động.
RFI : Nhiều người lo
ngại về tình trạng người lao động Việt Nam bất hợp pháp tại Nga bị ngược đãi và
bị bóc lột. Xin ông cho biết nhận định của ông về vấn đề này.
Ông Nguyễn Đình Thắng : Tình trạng này là rất phổ biến và rất trầm trọng, bởi vì theo chúng tôi
biết được và nắm được hồ sơ trong tay, thì không chỉ có một hoặc hai vụ buôn
người, mà nó còn hàng loạt ở bên Nga. Những người Việt mà phần lớn ở thôn quê,
những vùng xa, vùng sâu, được hứa hẹn là sang bên Nga, hoặc là qua con đường ký
hợp đồng với các công ty môi giới, được chính thức hoạt động ở Việt Nam, hoặc
qua những người, gọi là « cò », tức là đi qua con đường chiếu khán du
lịch, không phải là (hộ chiếu đi) lao động. Và khi đi sang bên đó, bất luận là
đi con đường nào, họ cũng gặp phải thực tế là không như được hứa hẹn trước đây.
Thực ra là phải làm việc quần quật, 15 tiếng, 16 tiếng, có khi 18 tiếng đồng
hồ/ngày mà không được trả lương. Vì khi sang đến nơi, thì những người chủ sử
dụng lao động lập tức tuyên bố rằng, những người công nhân như vậy là nợ nần
chồng chất. Họ cứ đặt ra các khoản nợ tùy tiện, và bắt công nhân phải làm việc
quần quật, mà vẫn không trả hết nợ. Đó là những khoản « nợ miệng » mà do
chủ nhân đặt định ra. Chủ nhân đây lại là những người Việt làm chủ, thứ nhất là
hàng loạt xưởng may dệt ở bên Nga, mà chúng tôi gọi, và người dân cũng thường
gọi là các « xưởng đen », tức là làm lậu. Thứ hai là các xưởng lo về đấu
thầu những công trình xây dựng. Và thứ ba là những phụ nữ trẻ bị đưa vào những
ổ chứa mãi dâm.
RFI : Thưa ông, xin
ông cho biết thêm về vụ giải cứu nhóm 15 phụ nữ bị bắt làm mãi dâm, mà Liên
minh CAMSA đã góp phần tích cực.
Ông Nguyễn Đình Thắng : Ổ mãi dâm này là một ổ hoạt động lâu đời nhất ở Nga, do người Việt làm
chủ, và có vẻ như là mạnh mẽ nhất. Bởi vì, có những sự bao che từ trong tòa đại
sứ Việt Nam ở Nga. Điểm thứ hai, mà chúng tôi muốn trình bày là, tất cả các nạn
nhân trong đường dây buôn người này, đều được hứa hẹn ở Việt Nam được đưa đi
lao động, chứ họ đâu biết rằng sang bên Nga lại bị bán vào các ổ mãi dâm. Do
đó, cái vấn đề buôn mãi dâm và buôn lao động nó trùng với nhau rất nhiều. Điểm
thứ ba là chúng tôi đang cố gắng giải cứu nốt số 8 nạn nhân còn lại. Tổng cộng
là 15 nạn nhân, khi mà chúng tôi biết được tin về vụ này. Trước đó, cũng có một
vài nạn nhân, nhưng mà họ chạy thoát, hoặc họ bị quá nặng, gần như không sống
được nữa, và được thả ra, và họ đã về nước. Khi mà chúng tôi can thiệp thì còn
15 người. Ổ buôn người này họ thành tinh, thành cáo, họ rất lộng hành. Khi 4
nạn nhân chạy thoát được, trong đó có một nạn nhân hơn 4 năm trời bị giam giữ,
thì 4 người này gọi đến cho tòa đại sứ Việt Nam ở Nga để cầu cứu, thì cái vị
trả lời điện thoại, thay vì giải cứu, thì lại nói rằng không có gì cả, ai đưa
mấy cô đi, thì nói mấy người đó đưa mấy cô về, thì sau đó hai hôm bà chủ chứa
đã đưa xã hội đen đến để bắt cả 4 cô về lại, và đánh đập hàng ngày rất dã man. Có
người đến giờ này vẫn còn bị đau đầu.
Sau đó, do sự lên tiếng rất mạnh của thân nhân của một số
cô ở tại Hoa Kỳ và Canada, thì bên ổ buôn người thấy bị động rồi, thì thả một
số. Tính đến giờ này, 7 nạn nhân đã về nước. Nhưng mà 8 nạn nhân còn lại, thì
biệt vô âm tín. Gia đình cũng không liên lạc được nữa. Chúng tôi đang làm việc
với cảnh sát Liên bang Nga để truy tầm, thứ nhất là các nạn nhân để giải cứu,
thứ hai là thủ phạm để bắt giữ và truy tố.
Tiếp theo đây là tiếng nói của bà Danh Huy, chị ruột cô
Huỳnh Thị Bé Sương, một trong 7 người vừa được giải cứu khỏi ổ mãi dâm, và đã
hồi hương.
Bà Danh Hui : Bốn em trốn
thoát được, thì liên hệ với gia đình, gọi cho tôi, gọi cho tòa đại sứ Việt Nam
ở Nga cầu cứu, thì khi nhận được tin, tôi đã nhờ đến văn phòng BPSOS (mà ông
Nguyễn Đình Thắng là giám đốc điều hành), để tìm cách cứu giúp các em. Theo như
tôi được biết, qua một người bạn giới thiệu, thì văn phòng BPSOS đứng ra để
giải cứu các nạn nhân. Không lâu sau, các em bị bọn buôn người bắt lại.
Sau đó, văn phòng BPSOS đã làm lớn chuyện, và nhờ đến dân
biểu Al Green và bên Bộ Ngoại giao của Mỹ. Bộ Ngoại giao lên tiếng làm lớn
chuyện đến báo chí truyền thông của Mỹ. Báo chí truyền thông làm lớn chuyện,
thì lúc đó, các em mới được thả về, mà bé Hương là người đầu tiên được thả về.
Còn lại là 8 em vẫn bị giam giữ bên Nga, vẫn bị bắt làm nô lệ tình dục. Mong
sắp tới đây, tôi sẽ sang Washington DC, tôi sẽ vào Quốc hội Hoa Kỳ để có buổi
họp điều trần và nhờ các vị lãnh đạo lên tiếng để giải cứu cho 8 em nạn nhân
còn lại, thì tôi cũng mong rằng buổi họp sẽ được thành công.
RFI : Thưa tiến sĩ
Nguyễn Đình Thắng, xin ông cho biết thêm về tình trạng chị em phụ nữ Việt Nam
sang Nga bị đưa vào các ổ chứa mãi dâm.
Ông Nguyễn Đình Thắng : Thực sự là có rất đông những chị em phụ nữ rất trẻ được đưa sang Nga,
theo diện du lịch. Nếu như ai có giờ đứng ở phi trường của thủ đô Matxcơva, có
thể thấy những đoàn chị em phụ nữ rất trẻ, có cô chỉ 18, 19 tuổi thôi, có khi
còn hơn. Trong trường hợp chúng tôi đang giải cứu, có một em chỉ có 16 tuổi.
Các cô này sang Nga thì làm gì ? Nếu như đi với chiếu khán du lịch, thì chỉ một
thời gian ngắn là mất hiệu lực, trở thành bất hợp pháp, không thể nào đi lao
động bằng chiếu khán du lịch được cả. Chúng tôi biết được có nhiều ổ mãi dâm,
chứ không phải chỉ là một.
Trở lại câu chuyện của 15 chị em phụ nữ, tòa đại sứ Việt
Nam muốn thực tâm hợp tác với lại cảnh sát Liên bang Nga để truy tầm thủ phạm
và các nạn nhân, thì rất dễ, bởi vì một nhân viên cũng tương đối cao cấp ở
trong tòa đại sứ lại là họ hàng thân thuộc với bà chủ chứa, họ liên lạc thường
xuyên. Nhưng mà (tòa đại
sứ) đã không có sự hợp tác. Và trở lại tình trạng chị em phụ nữ rất
đông, đã sang đến bên Nga, thì nếu như mà Nhà nước Việt Nam muốn ngăn chặn, thì cũng rất dễ.
Làm sao mà mấy cô ở xa xôi, nhà nghèo, mà lại đi du lịch bên Nga để làm gì ?
Thành ra ở ngay tại phi trường ở Việt Nam là có thể ngăn chặn ngay. Nhưng đằng
này chuyện vẫn cứ xẩy ra, và chúng tôi e rằng, Nhà nước biết, nhưng lờ đi, bởi
vì có sự dính líu ở trong đó.
RFI : Xin tiến sĩ cho
biết những tổ chức, hiệp hội nào có những hỗ trợ trực tiếp và có hiệu quả đối
với những người Việt Nam ở trong tình trạng bị ngược đãi như vậy.
Ông Nguyễn Đình Thắng : Ở bên Nga, hiện nay tình hình rất khó khăn, bởi vì chúng tôi có liên lạc
với bên Nga thường xuyên để tìm các tổ chức giúp đỡ, thì cho đến nay, hầu như
không có tổ chức dân sự nào của Nga nào cả, ngoại trừ một số nhà thờ Công giáo
hoặc là Tin Lành, họ có thể giúp đỡ chỗ này, chỗ kia một tý. Không có chương
trình nào có quy củ, hoặc quy mô cả, mà do đó mà nạn nhân ở bên Nga, dù có được
giải cứu, cũng rất khó khăn. Chúng tôi có làm việc với Ủy ban điều tra của
chính quyền Liên bang Nga, nhưng mà họ cũng chỉ tìm cách giải cứu thôi, và họ
cũng không nói được tiếng Việt, do đó nhiều khi việc giải cứu của họ cũng bị
chậm lại rất nhiều. Nhiều khi cũng bị hỏng chuyện.
Trong vụ 15 chị em phụ nữ mà chúng tôi vừa mới trình bầy,
có một lần cảnh sát Liên bang Nga đã đến gõ cửa, nhưng gõ sai cửa, chỉ cách mấy
căn thôi, thành ra thủ phạm đã biết được, bị động, nên đã chạy mất. Đó là cái
khó khăn của chúng tôi hiện nay. Nên không chi bằng là phòng bệnh hơn là chữa
bệnh.
Thành ra, nếu như người ở trong nước biết được những
phương thức, những thông tin để đoán biết được đâu là nguy cơ có thể bị buôn
người, thì chớ có bước chân vào, để bị sa cơ lỡ vận, có thể không giải cứu
được, và có thể khi giải cứu được rồi, thì cái tổn thương có thể di hại đến cả
đời mình. Có những người mà chúng tôi đã liên lạc được, hoặc đã liên lạc với
chúng tôi, sau 5 năm bị giam giữ, mới trốn thoát ra được, nhưng chỉ vài ngày
sau, đã bặt vô âm tín, rất có thể đã bị bắt lại, và cũng có thể đã bị thủ tiêu.
RFI : Từ khi luật
phòng, chống buôn người của Việt Nam có hiệu lực từ đầu năm 2012, tình hình lao
động người Việt ở Nga từ đó đến nay có chiều hướng ra sao ?
Ông Nguyễn Đình Thắng : Chúng tôi thấy rằng, trước hết, khi ban hành luật thì đó là một bước đáng
khuyến khích, tuy nhiên, điều quan trọng là có chấp hành, thi hành luật hay
không. Cho đến giờ này, chúng tôi chưa thấy có dấu hiệu gì là có thực tâm thi
hành luật phòng và chống buôn người, nhắm vào trọng tâm của nạn buôn người : Đó
là chương trình xuất khẩu lao động của Nhà nước Việt Nam. Và thứ hai là mở cửa
cho tất cả các tổ chức tư nhân của người dân ở trong nước được nhập cuộc, đặc
biệt trong vấn đề phòng ngừa.
Chúng tôi lấy một ví dụ điển hình là chúng tôi đã công bố
và gửi về trong nước, bằng những con đường khác nhau, một danh sách 60 công ty
môi giới xuất khẩu lao động được Nhà nước cho phép hoạt động và đã dính dự vào
những vụ buôn người, mà chúng tôi đã can thiệp và giải cứu. Cho đến ngày hôm
nay, chưa một công ty nào bị điều tra, chứ đừng nói là bị truy tố. Không những
như vậy, mà khoảng trên 10 công ty trong khoảng 2, 3 năm vừa qua, đã được tuyên
dương là "hoạt động xuất sắc", và trong đó không ít công ty
quốc doanh.
Cho nên chúng tôi thấy rằng, Nhà nước ra luật, nhưng
không thi hành luật, thì nó lại cũng « đâu vào đó » mà thôi. Không những
vậy, đầu năm 2012, chính bộ Lao động, Thương binh và Xã hội lại ra một cái lệnh
cho tất cả các công ty môi giới là phải kiểm soát công nhân chặt chẽ hơn, không
để công nhân liên lạc với các tổ chức ngoài chính phủ, phi chính phủ ở ngoại
quốc để làm lớn chuyện lên. Một đằng là nói muốn bảo vệ công nhân, muốn chống
buôn người, đằng khác lại ngấm ngầm ra lệnh cho các công ty môi giới đưa người
đi phải kiểm soát, ngăn chặn công nhân không được liên lạc với lại quốc tế để
cầu cứu. Thì chúng tôi thấy rằng, tiền hậu bất nhất trong chính sách của Nhà
nước Việt Nam hiện nay.
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn ban Việt ngữ đài RFI.
Chúng tôi thấy rằng, trong nỗ lực ngăn chặn đường dây buôn người Việt, từ Việt
Nam đến các nơi, các quốc gia khác nhau, thì cái vấn đề truyền thông đại chúng
rất cần thiết, bởi vì phòng bệnh hơn chữa bệnh. Nếu thông tin về trong nước
được rộng rãi, để mọi người dân cẩn trọng hơn trước quyết định sang Nga bằng
đường chính thức, hoặc đường đi du lịch - không chính thức -, cũng phải xét
lại, thì như vậy sẽ giảm bớt số nạn nhân cần giải cứu. Và thứ hai, những trường
hợp nào đã trở thành nạn nhân, thì thân nhân biết được có thể liên lạc với các
tổ chức quốc tế, trong đó có liên minh CAMSA của chúng tôi, để tìm cách này
cách kia mà giải cứu. Do đó chúng tôi vô cùng trân quý và cảm ơn chương trình
ngày hôm nay.
RFI xin chân thành cảm ơn ông Nguyễn Đình Thắng, ông Đào
Công Hải và bà Danh Hui đã dành thời gian cho tạp chí hôm nay.
Nghe
(04:03) : Ông Đào Công Hải 10/04/2013
Một số
quy định của luật Việt Nam về xuất khẩu lao động
Về
vấn đề lao động xuất khẩu Việt Nam, ông Đào Công Hải, phó Cục trưởng Cục Lao
động ngoài nước, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội cho biết :
Ông
Đào Công Hải :
Việt Nam đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, thì chúng tôi có
bộ luật số 72 (Luật số 72/2006/QH11 của Quốc hội : Luật người lao động Việt
Nam đi làm việc ở nước ngoài). Bộ luật này nói rằng có bốn phương thức đi
làm việc ở nước ngoài. Phương thức thứ nhất là các doanh nghiệp Việt Nam được
cấp giấy phép đi làm việc ở nước ngoài, thì hiện nay có 175 doanh nghiệp có
giấy phép. Phương thức thứ hai là bất kể công ty nào ở Việt Nam, tham gia triển
khai dự án ở nước ngoài, hoặc trúng thầu thực hiện một công trình ở nước ngoài,
thì công ty đó có quyền mang lao động đi làm việc ở nước ngoài để thực hiện
công việc ở nước ngoài. Phương thức thứ ba là công ty nước ngoài hợp tác liên
doanh, liên kết với công ty của Việt Nam, thì công ty ở Việt Nam có quyền đưa
lao động đi để thực tập, nâng cao tay nghề ở công ty nước ngoài. Và phương thức
thứ tư là bất kể công dân Việt Nam nào mà đủ về ngoại ngữ, về kỹ năng nghề, về
kinh nghiệm làm việc, có thể giao kết hợp đồng với ông chủ nước ngoài, thì đấy
là phương thức hợp đồng cá nhân.
Để
quản lý được, thì với ba phương thức đầu, khi các công ty có hợp đồng, thì phải
đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước về vấn đề này. Đó là Cục quản lý lao động
ngoài nước. Còn phương thức thứ tư là cá nhân phải đăng ký với Sở Lao động,
Thương binh và Xã hội, khi người ta cư trú ở đâu, thì đăng ký tại đó.
Như
vậy là chúng tôi quản lý lao động đi làm việc nước ngoài theo bộ luật 72, dựa
theo hợp đồng có thời hạn. Còn tất cả công dân của Việt Nam xuất cảnh ra nước
ngoài thì bây giờ theo luật xuất nhập cảnh rồi, hoàn toàn tự do được đi thôi.
Còn có những trường hợp như đi theo du lịch, thăm thân… mà ở lại làm việc là
bất hợp pháp so với quy định của nước sở tại. Bởi vì không có « work permit
» (giấy phép lao động), không có visa cư trú, thì đó là vi phạm. Cho nên các
trường hợp, khi mà công dân tự ý đi, tự ý ở lại, thì sai với quy định của nước
sở tại, thì đó là bộ luật 72 của chúng tôi đã điều chỉnh rõ như vậy.
RFI : Thưa ông, còn
trường hợp những người có hợp đồng, rồi sang bên kia thì bị phá hợp đồng, rồi
bị chủ bắt phải làm việc trong những điều kiện rất khó khăn, nhưng không biết
kêu ai. Trong thời gian vừa qua, cũng có nhiều tiếng kêu cứu trong chuyện này,
điển hình là trường hợp công ty Vinastar hồi năm ngoái. Từ đó đến nay, thì đối
với tình trạng các lao động, thoạt tiên là hợp pháp, sau đó bị biến thành bất
hợp pháp, thì phía chính quyền Việt Nam có phản ứng như thế nào ?
Ông
Đào Công Hải
: Bất kể lao động nào đi làm việc ở nước ngoài là trên cơ sở hợp đồng rõ ràng.
Mà người lao động, trước khi đi, theo quy định, thì công ty phái cử ở tại Việt
Nam phải có đào tạo tiếng, đào tạo về kỹ năng nghề, giáo dục định hướng, có
nghĩa là cung cấp cho người lao động biết được phong tục, tập quán, văn hóa của
nước sở tại, để họ có thời gian ổn định cuộc sống và đi vào làm việc nhanh
nhất. Thế thì, nếu có trường hợp mà một công ty ở Việt Nam đưa đi, thì phải
khẳng định xem là có hợp đồng không. Nếu không có hợp đồng, thì đó là quyền của
công dân, người ta tự ý đi, tự ý ở lại, thì sang bên kia rồi, trở thành công
dân không có « work permit », không có visa cư trú ở nước ngoài, hết hạn
visa là rất nguy hiểm, không được luật pháp của nước sở tại bảo hộ. Cho nên,
trong trường hợp đó, chúng tôi cũng đề nghị là họ phải liên hệ với đại diện
ngoại giao của Việt Nam đóng tại nước sở tại nơi họ cư trú, để được hỗ trợ, để
được bảo vệ quyền công dân của Việt Nam, thì luật pháp quy định rất rõ như vậy.
Một số tin bài liên quan
No comments:
Post a Comment