Clip mang tên “Sự trăn trở của một kẻ lười biếng”
đang gây sốc và lan truyền với tốc độ chóng mặt trên cộng đồng mạng.
Một bạn trẻ được giới thiệu là học sinh lớp 12 đã
bóc trần nhiều vấn đề nhức nhối gan ruột của nền giáo dục hiện tại qua bài diễn
thuyết đặc biệt dài hơn 1 tiếng khá dí dỏm, hình tượng và thu hút.
-------------------------
Mình thấy khả năng hùng biện của cậu bé là rất đặc biệt.
Chắc chắn đây là một tài năng hùng biện, hi hi
-------------------------------
1) Phần 1: "Học kiến thức cơ bản đến lớp 9 là
đủ"!
Trước hết không có gì gọi là mới mẻ khi
than vãn kiến thức thừa ở THPT hiện nay. Những kiến thức đó rất bổ ích nhưng nó
cần ở với mỗi mức độ nào của mỗi người thì lại là một vấn đề khác. Con người ta
sinh ra là khác nhau, tại sao tất cả lại phát triển theo cùng một hướng giống
nhau? Phải chăng chúng ta đang quy quá nhiều kiến thức vào hai chữ "cơ
bản".
Nếu mỗi người hỏi tôi kiến thức học đến lớp
mấy thì là "cơ bản", với tôi mỗi lớp đều có kiến thức cơ bản riêng
nhưng song hành với chúng lại có quá nhiều kiến thức không cơ bản chút nào.
Nếu có người hỏi tôi lớp mấy là đủ, tôi trả
lời lớp 9 là đủ. Vì sao lại là lớp 9 vì tôi tin rằng tuổi 14, 15 xác định được
mục tiêu nghề nghiệp của mình. Có người muốn làm lập trình viên, đầu bếp nhà
hàng, giám đốc ngân hàng, thiết kế thời trang, thậm chí Bộ trưởng Bộ Giáo dục,
đâu phải nghề nào cũng cần biết đến phương trình chuyển động? Một kỹ sư vật lý
liệu có cần phân tích hình tượng nghệ thuật trong một bài văn hay không? Một
nhà văn có cần biết phương trình của một loạt các phản ứng hóa học?
Với vốn hiểu biết hèn mọn của mình, tôi
không tin có một nghề nào cần đến toàn bộ kiến thức THPT. Giáo viên hay giáo sư
cũng đi theo một vài kiến thức chuyên môn của mình, kiến thức liên ngành rộng
đến đâu cũng tùy vào tầm của mỗi người. Vậy mà học sinh lại phải đáp ứng bài
tập, bài học của hơn một chục môn học thì phải làm thế nào?
Biết nhiều thì cũng tốt thôi nhưng để làm
gì? Làm bài tập, làm kiểm tra, làm bài thi, thi đỗ rồi thì làm gì với chúng
nữa? Nếu không làm được gì có ích cho bản thân thì cuối cùng anh học để làm gì?
Đánh giá nhau không quan trọng là anh biết được bao nhiêu, mà là anh làm được
bao nhiêu với những gì anh biết? Học về thuyết lượng tử ánh sáng mà không lắp
được bóng đèn thì học làm gì? Học về phương pháp lai phân tích, quy luật di
truyền mà trồng một cái cây không lớn nổi thì học làm gì?
Kiến thức chỉ có ích khi áp dụng vào thực
tiễn, dù là lao động trí óc hay lao động chân tay. Học thì phải đi đôi với
hành, có hành thì mới có hứng, không đủ điều kiện mà học thì chỉ có hạn.
Học phải có mục đích, mỗi bài học phải tỏ
rõ được vai trò của nó đối với 100% học sinh. Cho đến bây giờ tôi nhớ, không có
một giáo viên nào đề cập được đến mục đích thực dụng của môn học đó. Họ chỉ
nói, hãy học đi, không đủ trưởng thành nên phải học tiếp, tiếp, tiếp mới chọn
được con đường cho mình. Nếu cho rằng đây là một giai đoạn lựa chọn cho tương
lai thì tại sao điểm số là một gánh nặng đòi hỏi phải cân bằng tất cả các môn?
Kiến thức SGK toàn lý thuyết thiếu thực
tiễn, nhiều chỗ mang tính chất hàn lâm mà đâu phải ai cũng đầy đủ năng lực và
niềm yêu thích. Quỹ thời gian thì không đủ, nhiều bạn trẻ thức thâu đêm học
bài, như thế chỉ tổn thọ chứ chẳng được cái lợi lộc gì. Giáo viên nào thông cảm
thì lại dạy cho có hình thức, học sinh như thế lại thiếu tôn trọng môn học, ảnh
hưởng đến tinh thần đối phó trong công việc. Làm như thế mà mong có một tương
lai sáng lạn. Thật là thê thảm!
Trong một cộng đồng đều có người giỏi ở
lĩnh vực này, người khá ở lĩnh vực kia, không cần đến một thế hệ con người biết
đầy đủ mọi điều. Chúng ta cộng hưởng với nhau để cùng phát triển một cách tốt
nhất. Không cần đến một thế hệ mà con người phải được đào tạo tất cả mọi thứ,
rồi đến khi nhiều người không biết mình sẽ làm các công việc gì, mong muốn đạt
được điều gì, mục đích sống trên đời là gì?
Đến khi vào đại học, tùy những trường khác
nhau, những kiến thức khác nhau, thứ mà chúng ta đã bỏ đến 3 năm trời nhồi nhét
lại dần trở nên vô nghĩa, lãng quên.
Vì sao quên? Không phải vì không bao giờ
dùng đến, không phải vì vượt quá dung lượng bộ nhớ cho phép, quên vì đa phần
học không phải mở mang hiểu biết mà lao vào chạy đua thành tích với các loại
cuộc thi. Mười hai năm học là 12 năm chạy đua với các kỳ thi bao gồm: Kiểm tra
miệng 15 phút, 45 phút, học kỳ 1, học kỳ 2, cuối năm, thi tốt nghiệp, thi
chuyển cấp, thi vào, thi ra, thi lên, thi xuống…
2) Phần 2: "Học để thi tạo ra thế hệ đối phó với mọi
thứ"
Mục đích cao cả của việc học là trang bị
cho người ta năng lượng sống thì bây giờ việc học biến dạng thành một mục tiêu
khác là: Học để thi; Học để kiểm tra; Học vì đơn giản ai cũng như thế. Học để
không bị tách rời số đông, làm theo số đông. Học để được an toàn. Học để có một
cái bằng, để người ta nhìn mình với con mắt bao dung hơn. Hay nói cách khác học
để đối phó với cuộc đời mà không có niềm đam mê. Học sinh cứ cắm đầu vào mà đối
phó, đó là học thụ động, tư duy thụ động chỉ có làm nô lệ mà thôi. Trong khi
chúng ta, theo cách mà người ta gọi là những chủ nhân tương lai của đất nước.
Chính nền giáo dục này đã tạo tiền đề cho
tính cách đối phó hoành hành. Cách học ở trường cũng chỉ là đối phó. Đối phó là
sự đặc trưng điển hình của sự bị động. Nó thể hiện vị thế bị động của cá thể
trước tác nhân không mong muốn. Đối phó tồn tại hai mặt có ích và có hại. Khi
nó giúp chúng ta sinh tồn, chống lại, chiến đấu với các mối đe dọa ở nhiều mặt,
kết quả mang lại cải thiện được cuộc sống của ta, đó là có ích. Nhưng sẽ có hại
khi nó trở thành bản chất, bạn đời chung thủy trong lối sống, nó biến ta thành
bị động trước mọi vấn đề của xã hội. Nếu không nhận thức được rõ nó rất dễ bị
chi phối.
Có lẽ ai cũng biết rằng cách mà chúng ta
đang học ở trường cũng chỉ là đối phó. Ở đây tôi không nói đến việc mang phao
vào trước mỗi giờ kiểm tra, bởi đó là điều hiển nhiên, tất yếu. Điều tôi muốn
hỏi những ai là học sinh: Nếu sáng mai không kiểm tra thì hôm nay bạn có học
không? Nếu mai được nghỉ mà ngày kia cũng chẳng kiểm tra môn gì thì bạn có mở
sách ra để học không? Nếu không có bất cứ một khái niệm nào trong thi cử, bạn
có mở sách ra để làm giàu cho bản thân mình không? Nếu có thì rất tốt, bởi cuộc
đời này cần đến những con người như bạn. Còn nếu không thì bạn cũng giống như
tôi và tuyệt đại đa số đều học để đối phó với các kỳ thi.
Chúng ta đều tạo điều kiện cho tính đối phó
được ký sinh trong nhân cách, trong lối sống của mình. Như một cơn mưa dầm thấm
lâu và nếu nặng hơn thì cả đời cũng sẽ chỉ làm hời hợt cho qua, không bao giờ
toàn tâm, toàn sức với công việc được giao. Thật đáng sợ nếu một ngày kia ta
lại đối phó với chính lĩnh vực mà mình đam mê, từng yêu thích. Nhưng xét cho
cùng thì biết làm sao được. Đó là hậu quả của kiểm tra liên miên, kiến thức
nặng nề và đặc biệt là những đòi hỏi về điểm số của cả gia đình và nhà trường.
Nhìn mặt ai cũng sáng sủa thế thôi, nhưng
thực sự giáo dục đã biến học sinh thành những con lừa lười biếng và dối trá,
phải đánh, phải thúc, phải ép mới chịu đi. Sẽ như thế nào khi đây là viễn cảnh
của những con người sẽ phục vụ đất nước trong tương lai? Vì khi đó chúng ta
không đối phó với giáo viên, với nội quy mà chúng ta đối phó với tất cả mọi
thứ.
Người ta vẫn hay nói “học thì ấm vào thân”,
không thể phủ nhận câu này. “Ấm” là cảm giác có thực khi sau rất nhiều ngày bạn
giải được một bài toán, cảm giác vui vui, ấm áp lan tỏa. Bạn cảm thấy thoải mái
với môn học này hơn, những ý niệm về sự đáng ghét chắc không còn, bạn khoái chí
với bản thân mình, với môn học. Nhưng rốt cục, cảm giác ấm áp đó xuất phát từ đâu?
Nguồn gốc sâu xa của nó là cảm giác bạn được an toàn trước mỗi bài kiểm tra,
trước mỗi kỳ thi. Nó khác với sự hưng phấn mà chúng ta có được khi đánh được
một bản nhạc yêu thích. Cái sự ấm áp đó như là chỉ là túp lều bé con để bao bọc
cho mình trước sự khắc nghiệt trên hòn đảo mà ta ghét cay, ghét đắng. Thế thì
đó là gì nếu không là một biểu hiện khác của sự đối phó. Trừ khi môn học đó trở
thành niềm đam mê yêu thích của bạn. Có lẽ nhiều người không còn thấy khác biệt
giữa điều mình muốn đạt được so với cảm giác làm được điều người ta muốn mình
phải làm được.
3) Phần 3: Ôi bằng cấp, điểm số, bệnh thành tích!
Thi cử là cái gì mà con người ta phải đối
phó với nó? Trong tình huống buộc phải đối mặt thì chúng ta lại đối phó. Thi cử
là bắt buộc, không thi thì làm sao có điểm, làm sao có bằng, không thì thì làm
sao vào trường, ra trường, làm sao có thể thi tiếp? Bản chất của cuộc thi là
tìm ra ai là người chiến thắng, cuộc tranh đua của những người cùng chung một
niềm đam mê, khát khao khẳng định bản thân, khát khao được về đích với vị trí
thứ nhất. Còn thi cử trong học hành ngày nay là xem ai có thể vuốt mồ hôi mà
thở phào nhẹ nhõm. Một đằng hoàn toàn chủ động, một đằng hoàn toàn bị động.
Vậy ý nghĩa của giáo dục có phải là đẩy con
em vào sự căng thẳng, mệt mỏi sau mỗi kỳ thi, mỗi ngày lên lớp? Thay vì học
sinh hào hứng giơ tay đóng góp thì thực tế học sinh chỉ sung sướng khi được
thông báo nghỉ học. Người ta chào đón, hào hứng để tham gia các cuộc thi khác
bao nhiêu thì học sinh lại phát ớn trước mỗi kỳ thi bắt đầu bấy nhiêu. Tại sao
chúng ta lại sợ nó đến vậy? Điểm số là nguyên nhân! Điểm số là khái niệm đầy
bất cập. Trước hết ta tạm chấp nhận nó như một chiếc thước minh bạch và sáng
suốt để đo trình độ của con người (tạm chấp nhận thôi nhé). Ta chấp nhận nó đại
diện cho lý tính, tài giỏi thì điểm cao, dốt nát thì điểm thấp, trắng đen rạch
ròi. Nhưng không, để phủ nhận cho chính lý tính đó, thì từ trước đến nay điểm
số luôn dính dáng phần nào đến cảm tính, nó có thể được nâng lên nâng xuống,
được trừ một, được cộng hai, là công cụ bày để tỏ tình thương hoặc bày tỏ lòng
từ bi, hay thậm chí để đem ra dọa nhau. Điểm cao cũng có thể đạt được bằng gian
lận mà thôi.
Vậy chiếc thước này đã mất đi tính chất thứ
nhất, đó là minh bạch. IQ chỉ là một phần nhỏ để đánh giá cá nhân, bài kiểm tra
phụ thuộc vào tâm trạng và vốn hiểu biết tức thời của người chấm. Vậy thì cớ gì
mà điểm số giữ được tính sáng suốt của nó? Điểm số bản thân nó đã là công cụ để
phân loại con người, hiển nhiên sẽ phát sinh sự bất bình đẳng, sự tự phụ, tự ti,
tị nạnh, cạnh khóe. Đó là điều không đáng có ở bất kỳ đâu, đặc biệt là bậc Tiểu
học.
Tóm lại là nó không minh bạch, không sáng
suốt, không có gì tốt đẹp. Chúng ta cuống cả lên để chạy theo một giá trị hão
mà tưởng rằng là đang khẳng định bản thân mình. Nếu lúc nào cũng lăn tăn ba thứ
điểm cao thấp thì có lẽ cuộc sống sẽ luẩn quẩn trong những thứ vô vị.
Bệnh thành tích ở đâu mà ra? Sẽ không có
bệnh thành tích nếu chúng ta không biến bằng cấp thành tiêu chuẩn của quy chế
để xét tuyển. Muốn không như thế ta phải cắt bỏ cái gốc, cái rễ, tức là căn
bệnh thành tích. Muốn cai nghiện đương nhiên phải ngừng cung cấp thuốc cho con
nghiện, người ta đánh giá nhau chủ yếu qua bằng cấp mà không phải qua năng lực.
Đó không chỉ là tâm lý chung mà còn là quy định chính thức ở nhiều nơi.
Xét trong một ngành nghề, một cơ quan, chỉ
có những thằng ngu mới không biết thằng nào là thằng giỏi. Một người tài giỏi
khi đứng ở vị trí lãnh đạo sẽ biết dùng góc quan sát và năng lực của chính bản
thân để đánh giá năng lực của người khác. Còn một thằng ngu sẽ phải dựa dẫm vào
địa vị, bằng cấp, học hàm để mà tuyển dụng nhau. Vậy thì chúng ta còn tiếp tay
cho những thằng ngu mà làm cái gì? Hay chúng ta lại muốn tiếp tay cho những
thằng tham ô, hối lộ?
Không muốn có bệnh thành tích, chúng ta
phải cắt bỏ bệnh thành tích, với tư tưởng đó xét trong phạm vi nhà trường thành
tích chính là điểm số. Đừng tạo ra những điểm số. Đi học mà không có điểm nghe
có vẻ điên rồ, với tôi điểm số có cũng được nhưng đừng quan trọng hóa nó. Điểm
số thực chất chỉ là kết quả của một bài kiểm tra mà ở trường, ngoài môn thể
dục, bài kiểm tra là tập hợp định nghĩa những câu hỏi có tính hệ thống. Những
câu hỏi này đặt ra có sẵn đáp án, câu trả lời cố định để tính điểm.
Như vậy điểm số chỉ thể hiện năng lực ghi
nhớ những cái đã được học mà không nói lên được những năng lực khác, thậm chí
không kiểm chứng được việc anh có hiểu những gì mà anh nhớ hay không. Vì điểm
số người ta sẽ tìm ra nhanh nhất câu trả lời có sẵn vào bài kiểm tra bao gồm
các hình thức học tủ, học vẹt, gian lận. Làm như thế này không hề mang tính
nghiên cứu và sáng tạo. Nó đã và đang xảy ra ở hầu hết các môn trong trường
học. Thậm chí những môn khoa học tự nhiên, tưởng như nó đòi hỏi tư duy logic
rất cao nhưng cũng phải thuộc lòng các công thức để áp dụng giải bài tập.
Không muốn làm bài tập cuối cùng lại bị
đánh giá là yếu kém về tư duy, thế thì quá mỉa mai và không đời nào tôi ủng hộ.
Một khi đã có điểm người ta chỉ học vì điểm. Hãy để cuộc đời cho điểm mỗi cá
nhân, nâng tất cả lên cao rồi sẽ biết ai là người có đôi cánh.
Năng lực rất đa dạng, có bao nhiêu hoạt
động thì có bấy nhiêu năng lực. Nói chung muốn đánh giá hãy nhìn sự tồn tại của
mỗi cá nhân và ảnh hưởng của sự tồn tại ấy đến xã hội và môi trường xung quanh.
Ảnh hưởng đó là gì, là công việc, là giá trị sản phẩm họ tạo ra. Sản phẩm có
ảnh hưởng lớn là có giá trị cao, không có ảnh hưởng là đồ vô dụng. Những thứ có
giá trị ảnh hưởng không bao giờ là những thứ có sẵn bày ra như đáp án trong bài
kiểm tra"
4) Phần 4: "Người vô đạo đức thì tạt axit, tấn công
bằng bom nguyên tử"
Một con người có thể nói là được cấu thành
bởi 2 yếu tố: Tri thức và đạo đức. Nhà trường phải là cái nôi trau dồi cả về
tri thức và đạo đức đối với học sinh. Bàn về đạo đức, thực ra không thể đổ lỗi
hết cho gia đình khi một đứa trẻ tỏ ra vô lễ. Trẻ em không có quyền chọn cha
mẹ, may thì được nhờ, rủi thành chịu, cha mẹ không tốt, không dạy được con, nhà
trường phải là nơi làm điều đó. Trong gia đình những thứ tình cảm như tình mẫu
tử, tình phụ tử ta đều tìm thấy được ở những động vật bậc thấp. Nhà trường phải
là nơi giúp các em thành người. Đạo đức rất quan trọng.
Nếu tri thức là một cỗ xe thì đạo đức là
vô-lăng, nếu tri thức là chiến mã thì đạo đức là dây cương. Với đạo đức, tri
thức sẽ hướng thiện. Một người không có tri thức cùng lắm là gây hại một cách
vô ý. Một người không có đạo đức thì cố ý hại người khác thì tạt axit, thì tấn
công bằng bom nguyên tử.
Nền tảng đạo đức được hình thành rất sớm từ
những năm tháng đầu đời, nó có khuynh hướng trở thành bản chất cố định, khó
thay đổi. Chính vì vậy, phải giáo dục cho học sinh về đạo đức, số phận con
người.
Nhà trường có 1000 học sinh, 1000 số phận
khác nhau, số phận cá nhân sẽ quyết định số phận của cả một dân tộc. Một đứa
trẻ hư chứng tỏ nhà trường thất bại, nhà trường thất bại chứng tỏ cả dân tộc
thất bại.
Việt Nam đứng thứ 13 trong số những nước vô
cảm nhất thế giới. Tôi không quan tâm đến những lời ngụy biện để phủ nhận con
số đó, một thực tế văn hóa đạo đức xuống cấp đến mức nào cũng chẳng cần kể ra.
Chúng ta hô hào báo chí đủ các kiểu nhưng hầu như không có kết quả nào ra hồn.
Tất cả đều có nguyên nhân khởi phát từ giáo dục.
Bắt đầu mỗi năm học mới luôn có một cái bản
mà giáo viên đọc cho học sinh chép vào vở, đó là nội quy nhà trường. Nội quy
nhà trường luôn có mối quan hệ chuẩn mực văn hóa cơ bản, như là giữ gìn vệ sinh
chung. Nhưng không nhiều người làm được đó vì mối quan tâm của người đi dạy và
đi học vẫn là điểm số. Mặt khác nội quy thuộc về luật pháp, luật pháp đứng đằng
sau đạo đức, khi nào đạo đức không thể cứu vớt được nữa thì luật pháp mới can
thiệp.
Chúng ta lại cứ thích kỷ luật và cấm đoán
nhiều hơn là cảm hóa. Nhìn thẳng mà nói, môn Giáo dục công dân từ lâu đã là môn
kém coi trọng nhất trong bảng điểm, việc học nó chỉ mang tính hình thức và đối
phó. Tôi nói không phải ủng hộ môn này sẽ thành trọng tâm để mà chúng ta thi
đua nhau, như vậy sẽ chỉ khiến cho học sinh khổ thêm. Điều quan trọng cần nhìn
rõ là có học chăm như thế nào đi chăng nữa cũng không bao giờ là đủ. Cách học
của đạo đức không giống tri thức. Nếu tri thức chỉ đọc hiểu qua lý trí thì đạo
đức biểu lộ qua trái tim. Để hình thành một con người đạo đức, không thể việc
chỉ bắt người ta đọc ê a những đạo lý, những phần ghi nhớ cuối bài, không thể
hiểu qua lý thuyết suông hay 10 phẩy trung bình môn. Tất cả những thứ đó không
có liên quan đến tiêu chí đạo đức trong con người ta, mà chỉ có nguy cơ biến họ
thành những kẻ đạo đức giả.
Trong suy nghĩ của đại bộ phận hiện nay thì
“đầu tiên là tiền đâu”. Sống vì lợi ích bản thân, giữa xã hội sống đầy lý tính
này thì đạo đức chỉ là thứ gì đó mơ hồ và xa xỉn. Khi ta cho một thứ, lý chí
bảo rằng có nên không? Có nhận lại được điều gì không? Có được trả ơn không?
Chúng ta không tin rằng khi làm việc tốt sẽ được trả ơn và có được sự thanh
thản trong tâm hồn.
Chỉ có trải nghiệm mới khiến ta thực sự
hiểu đạo đức là gì. Vậy trách nhiệm cao cả của giáo viên là tìm ra con đường
dẫn đến trái tim của học sinh, khơi gợi tình thương yêu giữa con người với con
người, với con người và vạn vật, và thực sự có nhiều hơn một con đường như thế.
Các môn văn học, xã hội khác cũng là để nuôi dưỡng tâm hồn. Nhưng chúng ta
không làm được, học chỉ là miễn cưỡng, học thuộc lòng cả tiểu sử, cả một bài
dài. Các giá trị nhân văn rất khó đi vào lòng người khi chỉ nói suông, tự ca
như những con vẹt.
Thế hệ đi sau không thể bồi hổi nhớ lại ký
ức của thế hệ đi trước. Trách làm sao được khi giới trẻ chỉ nhìn thấy hàng
hiệu, xe tay ga, đâu biết được nước mắt của người mẹ già thời kháng chiến. Tâm
hồn sẽ càng mai một đi khi những giá trị rất đẹp lại bị mai một vì học thuộc
lòng một cách vô cảm. Bản sắc dân tộc cũng vì đó mà rơi vào hố đen.
Tất cả nguyên nhân cũng chỉ vì cắm đầu vào
những kỳ thi. Thầy giáo, cô giáo, những ngày đầu bước chân vào ngành sư phạm ai
cũng muốn được cống hiến, được đóng góp, có thiên lương cao đẹp. Nhưng rồi thời
gian lại trôi đi, cái lúc mà trời nắng chang chang, mồ hôi nhỏ giọt, lấy cái gì
mà làm động lực?
Tất cả sẽ mãi chỉ là viển vông khi lương
của giáo viên vẫn còn thấp như vậy. Mà lương lại là vấn đề của kinh tế, kinh tế
có vấn đề phần nhiều là do tham nhũng, những kể tham nhũng muốn đứng được ở vị
trí có thể tham nhũng ít nhất cũng phải trải qua 12 năm giáo dục. Vòng tuần
hoàn này cứ luẩn quẩn một cách thật ảm đạm, thảm hại.
Chúng ta học rất nhiều nhưng học rất ít về
con người. Trí thông minh của con người được chia làm 8 phần: ngôn ngữ, cảm
nhận không gian, âm nhạc, vận động cơ thể, tương tác giữa các cá nhân, cảm nhận
thiên nhiên, nội tâm, logic toán. Trong khi những môn trọng tâm như toán, lý,
hóa đều học chuẩn phải có trí thông minh logic toán. Để trở thành một người văn
minh, văn hóa phải có trí thông minh nội tâm, con người phải hiểu chính bản thân
con người để có sự tự vấn, giằng xé trong tâm can để vạch rõ đúng sai, thiện
ác, trụ vững trong một xã hội với phần đông là những kẻ vô văn hóa, vô đạo đức.
Càng hiểu rõ bản thân hơn ta càng có đề
kháng với những thói hư tật xấu ở đời mà cái đó ở trường không có ai dạy. SGK
chỉ quan tâm đến những con số và những con chữ. Cái khó của giáo dục không phải
làm sao để học sinh thi đỗ mà dạy sao cho học sinh nên người mới đúng.
No comments:
Post a Comment