Sun, 04/21/2013 - 23:44 — ledienduc
Tôi không hứng thú lắm khi viết về ngày 30/4 vì đã nhiều
năm nay, năm nào cũng viết, nhưng những bài viết thường chỉ mang đến cho tôi
những nỗi buồn hơn là những ký ức khó quên.
Cái buổi hôm ấy, khi mọi người trong nhà tù Hoả Lò khấp
khởi vui mừng "chiến thắng" khi được giám thị thông báo, thì tôi đau
xót, im lặng và hụt hẫng. Tôi vẫn hy vọng sau khi ra tù, sẽ tìm cách trốn vào
Nam để sống. Với cái lý lịch ở tù, sự tồn tại của tôi trong chế độ xã hội chủ
nghĩa (XHCN) chắc chắn sẽ vô cùng nan giải.
Tôi đã từng kín đáo hỏi thăm, tìm hiểu cách
"chạy" vào Nam từ một người bạn tù. Khó khăn nhất là đoạn từ sông Bến
Hải vào đến sông Hàn, Đà nẵng. Còn qua được sông Hàn thì mọi việc êm xuôi. Lúc
này tôi vẫn hy vọng bộ đội miền Bắc không tiến được vào sâu hơn nữa. Tôi không
nghĩ đến một cái "chiến thắng" nhanh chóng như vậy!
Thật chua xót. Tôi từng là anh chàng học sinh, biết được
đi nước ngoài du học nhưng vẫn rủ đám bạn bè trong lớp lấy máu viết thư xin đi
bộ đội. Ra chiến trường, dù có chết, với chúng tôi thật vô cùng ý nghĩa. Tôi đã
tận mắt trông thấy và tham gia cứu thương trong những trận dội bom của máy bay
Mỹ xuống làng mạc miền Bắc làm chết nhiều người. Chỉ với lòng căm thù đế quốc
Mỹ. Sôi sục ý chí trả nợ nước thù nhà.
Nhưng rồi dần dà tôi đã hiểu. Đây là
chiến tranh. Một cuộc chiến tranh khốc liệt, tắm máu, huynh đệ tương tàn, cho
việc nhuộm đỏ toàn đất nước của Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), một cuộc chiến
ý thức hệ, rõ ràng và nhất quán. Mỹ và miền Nam đã phải nỗ lực ngăn chặn và bảo
vệ tự do.
Năm 1954, Việt Nam chia hai. Việt Nam Cộng Hoà (VNCH) là
một quốc gia độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, là thành viên của Liên Hiệp Quốc. Miền
Nam sẽ thanh bình, phát triển và đi lên nếu như miền Bắc không gây chiến và phá
rối. Người ta có thể thống nhất đất nước bằng nhiều cách, không cần đổ máu,
không cần đến "bạo lực cách mạng", mà nước Đức là một ví dụ.
Nhưng để đánh chiếm miền Nam, miền Bắc có thể "đốt
cả dãy Trường Sơn", dồn cả dân tộc vào máu lửa, quyết tâm trở thành
"tiền đồn" của cả phe XHCN.
Hồ Chí Minh từng nói: “Từ khi Đảng Cộng sản Đông Dương thành lập, nhân dân Việt
Nam luôn hướng về Liên Xô, đất nước của Lênin vĩ đại, và coi Liên Xô là Tổ quốc
Cách Mạng, Tổ quốc thứ hai của mình”- (1959, HCM toàn tập, tập 11, trang
166).
Còn Lê Duẩn, trả
lời phỏng vấn BBC Việt Ngữ, Nguyễn Mạnh Cầm, cựu Bộ trưởng Ngoại giao
VIệt Nam đã nói: "Chính sách
này dựa trên nền tảng "một lý do quan trọng mà cố Tổng bí thư Lê Duẩn
có lần đã giải thích một cách đơn giản: Ta đánh là đánh cả cho Trung Quốc, cho
Liên Xô!".
Vâng, hầu như tất cả mọi phương tiện cho cuộc chiến, sản
xuất, cũng như mọi nhu yếu phẩm cho đời sống, từ hạt gạo đến cây kim, sợi chỉ,
đều do Liên Xô, Trung Quốc và các nước khác trong hệ thống cộng sản đổ tiền vào
cung cấp. Nhưng vì "tất cả cho chiến trường", dân miền Bắc đã phải cam
chịu cuộc sống đói nghèo, thiếu thốn, dồn hết tinh thần và vật chất cho công
cuộc "giải phóng miền Nam".
Và miền Bắc đã "giải phóng" miền Nam. Ngày
30/4/1975.
Trong bài "Phản
nhân văn", nói về cuốn sách "Bên Thắng Cuộc" của nhà báo
Huy Đức, tờ Công an Nhân dân (CAND) viết:
"Đáng kinh ngạc nhất là Huy Đức “nhai lại” ý kiến
sai trái, xạo xược của Dương Thu Hương. Trước khi sang châu Âu sống lưu vong,
bà ta phun ra hàng loạt phát ngôn điên loạn, trong mớ hổ lốn, hồ đồ đó, có đoạn
nói rằng, ngày mới đặt chân đến Sài Gòn, bà ta đã choáng ngợp trước cuộc sống
tiện nghi ở miền Nam, khác rất xa với cuộc sống khó khăn ở miền Bắc: “Tôi đã
ngồi phệt xuống vỉa hè Sài Gòn khóc, tôi biết miền Nam đã giải phóng miền Bắc
chứ không phải ngược lại...”.
Giờ đây, Huy Đức lại bắt câu đó với hàm ý khen miền Nam
nhiều hàng hóa và đời sống sung túc hơn miền Bắc, tự do dân chủ hơn miền Bắc
nên đã “giải phóng” ngược lại miền Bắc! Về đoạn này, trên mạng có bài viết ký
tên “nhà văn Đông La” phân tích: “Cái nền văn minh mà Huy Đức thấy qua “mấy
chiếc xe đạp bóng lộn”, “cặp nhẫn vàng chóe”, “những chiếc máy Akai, radio
cassette” rồi “rạp chiếu bóng, nhạc viện và sân khấu ca nhạc”... đều có từ “925
tỷ USD” mà Mỹ đã chi cho cuộc chiến ở Việt Nam kèm theo 58.000 nhân mạng nữa để
rồi mất trắng trở về...”.
Không chỉ nhà văn Dương Thu Hương khóc mà sau ngày
"giải phóng", nhiều người khác đã vỡ mộng! Phải có tấm lòng thật nhân
văn mới hiểu rằng, tiếng khóc của Dương Thu Hương là thành thật và là sự cảnh
báo. Những thứ mà họ "giải phóng" và huỷ hoại thì chính họ chứ không
ai khác lại đã quay lại một thập niên sau đó.
925 tỷ USD đã Mỹ chi cho cuộc chiến ở Việt Nam. Vâng,
nhưng thử hỏi bao nhiêu tỷ USD mà Liên Xô, Trung Quốc và phe XHCN đã rót cho
miền Bắc kèm theo hàng triệu nhân mạng cũng ra đi không trở về?
Người miền Nam
không chỉ có "những chiếc xe đạp bóng lộn", "cặp nhẫn vàng
choé"... Việt Nam Cộng hoà (VNCH), trong 20 năm, tuy chưa có một nền dân
chủ hoàn toàn, phải đối mặt với tình trạng chiến tranh, nhưng đã có một nền
kinh tế đa dạng, một xã hội văn minh, một nền giáo dục kỷ cương đáng tự hào,
một tập quán sinh hoạt công cộng lịch lãm và tiến bộ. Những người gắn bó với
VNCH có lý do chính đáng để tiếc nuối. Những thứ này sau 1975 đã dần dần bị
băng hoại.
Còn “mấy chiếc xe đạp bóng lộn”, “cặp nhẫn vàng
chóe”, “những chiếc máy Akai, radio cassette”, tất tật mọi thứ của miền Nam sau
ngày 30/04/1975, muốn hay không muốn, chúng vẫn trùng trùng nối nhau ra Bắc.
Tôi vẫn nhớ cuối năm 1975, hình ảnh ở khu tập thể quân đội số 3B đường Ông Ích
Khiêm. Cứ tối đến, hàng xóm quây quần, xúm xít ngồi xem phim qua chiếc Motorola
của gia đình mang từ trong Nam ra. Máy truyền hình ở miền Bắc lúc đó là cả nột
tài sản lớn.
Bài báo CAND viết tiếp:
"Cũng cần phải nhắc lại rằng: từ số tiền khổng lồ
đó, Mỹ đã đổi ra 7,5 triệu lít chất độc da cam/dioxin; 7,85 triệu tấn bom đạn
để rải xuống Việt Nam, giết chết khoảng 4 triệu người, gây thương tật cho hàng
triệu người khác, nhất là những đứa trẻ nạn nhân của chất độc da cam/dioxin;
tàn phá hàng ngàn thành phố, thị xã, làng mạc, trường học, bệnh viện, cơ sở tôn
giáo...
Thế nhưng Huy Đức, Dương Thu Hương và một vài “nhà dân
chủ” mới được “bơm”, cố tình không hiểu điều đó, họ tôn thờ tiện nghi vật chất
hơn phẩm giá và lòng tự trọng của một dân tộc, sùng bái “bơ”, “sữa”... hơn
xương máu của những người con dân đất Việt đã ngã xuống để có độc lập, tự do
hôm nay!".
Tôi không nghĩ rằng, "số tiền khổng lồ đó, Mỹ đổi
ra 7, 85 triệu tấn bom đạn, để giết chết khoảng 4 triệu người và thương
tật cho hàng triệu người khác". Cái chết của khoảng 4 triệu người và
thương tật của hàng triệu người khác có sự can dự của cả hàng triệu tấn đạn
dược của Liên Xô, Trung Quốc. Cuộc tổng tấn công của Việt Cộng trong Tết
Mậu Thân 1968, những cuộc pháo kích, đánh mìn, nổ bom vào các chợ, trường học,
rạp hát... Cuối cùng, đây là con số của cả cuộc chiến. Chiến tranh, bên nào
cũng đều phải sử dụng đến súng đạn.
Còn "7,5 triệu lít chất độc da cam/dioxin" diệt
cỏ, phát quang của Mỹ không nhắm vào dân thường mà nhắm vào nơi ẩn trú của Việt
Cộng. Có thể nó để lại
di hại cho môi trường nhưng không quá bị thổi phồng như bộ máy tuyên truyền của
cộng sản. Tôi đã vào sống trong Nam và đi nhiều nơi, ở đâu cũng thấy màu xanh
cây lá. Những đám rừng bị chất độc da cam xa lắc lơ đâu đó tôi không có cơ hội
nhìn thấy. Còn nạn phá rừng giờ đây khủng khiếp hơn nhiều. Bọn cơ hội bắt tay
với các quan chức cộng sản phá rừng, lấy gỗ làm giàu, mà Trầm Bê hay Cường Đô
La là những ví dụ. Thực phẩm độc hại mà dân Việt dùng hôm nay, chủ yếu từ Trung
Quốc, công khai huỷ diệt nòi giống Việt, làm cho bệnh ung thư của Việt Nam ở vị
trí cao nhất thế giới và mỗi năm chết khoảng 75 ngàn người,
man rợ và bi thảm hơn nhiều. Người ta cứ thích nhớ mãi cái đã qua đi gần 40 năm
mà cho phép mình "quên" hiện tại trước mặt!
Sùng bái "bơ", "sữa" không ai hơn
những quan chức cộng sản, những "đại gia" đỏ phè phỡn với ô tô siêu
sang trọng, nhà lầu, người hầu kẻ hạ, con cái đi du học nước ngoài. XHCN không
thấy đâu, nhưng tư bản chủ nghĩa ngấm sâu vào từng sinh hoạt nhỏ nhất của giới
chức có quyền, của những ông "vua tập thể" trong triều đại phong
kiến-cộng sản quái thai này.
Tôi quen thân với ông Nguyễn Lương Thuật, một cựu sĩ quan
hải quân VNCH, cư ngụ ở Seattle, tiểu bang Washington. Chiều 29/4/1975 ông chỉ
huy một chiến hạm và đã tiếp nhận hàng trăm người leo lên tàu di tản khỏi Sài
Gòn., Ông đã đứng ngẩn ngơ nhìn con tàu xa dần bến bờ quê hương và thầm nghĩ,
thôi, dù sao cũng đã chấm dứt một cuộc chiến, những người cộng sản đã thắng,
đất nước thống nhất, mong rằng họ sẽ đưa đất nước phát triển, bình yên và dân
chúng được hạnh phúc. Ông đã chết năm 2007 vì ung thư và mang theo giấc mơ vô
cùng vị tha của mình xuống mồ.
Máu xương của những người con đất Việt đã ngã xuống, nước
nhà thống nhất, độc lập, nhưng hoàn toàn không có tự do. Người Việt phải bỏ
nước ra đi, tha phương cầu thực, sự chia rẽ vẫn nhức nhối. Đất nước nằm trong
tay một tập đoàn bao gồm các băng nhóm trục lợi. Quyền tự do của công dân bị
bóp nghẹt và đàn áp. Không có bầu cử tự do, không có báo chí tự do, cả một hệ
thống chính trị là một nhà tù vĩ đại giam cầm, khống chế dân tộc.
Những người đã từng dấn thân, bị tù đày cho chính thể hôm nay đã phải thất
vọng. Có lẽ câu nói của ông Huỳnh Nhật Tấn, cựu Phó giám đốc Trường Đảng tỉnh
Lâm Đồng, mang tính đại diện nhất: "Tôi có lỗi với dân tộc. Chính cái hăng hái, nhiệt huyết
của tôi đã góp phần dựng nên chế độ độc tài hiện nay, đã vô tình đem lại sự đau
khổ hiện nay".
Cầm quyền 38 năm, và còn tiếp tục 39, rồi 40 năm và có
thể sẽ lâu hơn, ĐCSVN đã chứng tỏ là một tập đoàn phản động, phản bội, chạy
theo đồng tiền bất chấp lợi ích và chủ quyền lãnh thổ của đất nước. Nhân dân,
những người đã bỏ xương máu để có nhà nước hôm nay, trở thành kẻ nô lệ, bị lừa
gạt và sống trong sợ hãi của sự đàn áp, bị u mê bởi những trò mị dân "mua
thần bán thánh", hoặc bị lên đồng điên khùng bằng những chất kích hoạt
khác. Đất nước là tổng thể của một bức tranh ô hợp, lạc loạn, kẻ có địa vị giàu
có cứ tiếp tục giàu có thêm, kẻ bần cùng vật lộn với miếng ăn hàng ngày, phó
mặc sự đời, kỷ cương phép nước và các giá trị đạo đức của xã hội đảo lộn.
38 năm "giải phóng" thực sự trở thành 38 năm
kinh hoàng của thời kỳ phong kiến-tư bản man sơ, hoang dã với mỹ từ "kinh
tế thị trường định hướng XHCN". Vâng, chỉ mới "định hướng" thôi,
còn tiến về đâu không biết. 38 năm đi hoài, đi loanh quanh, đi mãi về một nơi
mà chẳng bao giờ biết nó là cái gì cả, có tồn tại hay không.
© 2013 Lê Diễn Đức - RFA Blog
No comments:
Post a Comment