Friday, 12 April 2013

NHÂN NGÀY 30-4 : NÓI VỀ DANH NGHĨA CHỦ QUYỀN CỦA QUỐC GIA VIỆT NAM TẠI HOÀNG SA & TRƯỜNG SA QUA VIỆC KẾ THỪA (Trương Nhân Tuấn)




Jeudi 11 Avril 2013

Trước những hành vi thể hiện quyền chủ quyền của TQ tại biển Đông, toàn bộ khu vực biển chung quanh Hoàng Sa và vùng biển phía bắc Trường Sa lần hồi trở thành việc « trong nhà » của TQ, thay vì một vấn đề quốc tế. Hiện nay TQ cho phép tổ chức du lịch các đảo HS, cùng lúc đuổi, bắn các tàu đánh cá của VN không cho phép đến gần khu vực. Nhưng phản kháng chiếu lệ của VN không có hiệu quả, trong lâu dài tính hợp pháp các hành vi « effectivité » của Trung Quốc được khẳng định.

Gần đây Phi đã mở mặt trận pháp lý với TQ tại Scarborough và Trường Sa. Hành động này sẽ làm sáng tỏ những đòi hỏi của TQ đồng thời khẳng định « các quyền » của Phi tại các « chủ thể » tranh chấp. VN có lợi trong việc kiện tụng này. Tại HS, VN cần có động thái tương tự. VN có thể vịn nhiều lý do khác nhau, ngoài tranh chấp chủ quyền, còn có quan điểm đối nghịch của hai bên về thềm lục địa, về cột nước, về quyền khai thác tài nguyên (như đánh cá)… VN cần xúc tiến việc « pháp lý hóa » những lãnh vực tranh chấp ở Hoàng Sa nhằm tạo thế chủ động« khoanh vùng tranh chấp ».

Muốn làm việc này VN phải có một cơ sở pháp lý vững chắc về chủ quyền của VN tại HS. Trong bài viết ở đâyở đây, tác giả đã vạch ra những kẻ hở trong hồ sơ pháp lý của VN. Trong một thời gian dài 3 thập niên, nước VNDCCH, tức quốc gia tiền nhiệm của quốc gia Việt Nam hiện nay, đã có những hành vi, minh thị và ám thị, từ bỏ chủ quyền của VN tại HS và TS. Bài viết này, nhân cận kề 38 năm ngày đánh dấu sụp đổ Sài Gòn 30-4-1975, trình bày một mảng khác của Công pháp quốc tế, các vấn đề về « kế thừa » và « tính liên tục quốc gia ». Đây cũng là các yếu tố pháp lý mà VN cần tuân thủ.

Cần khẳng định : không có danh nghĩa chủ quyền pháp lý hỗ trợ, VN không thể bảo vệ TS nếu chỉ dựa vào sức mạnh quân sự. Nguy cơ mất trắng biển Đông là có thật.

Lấy lại HS là thiên nan vạn nan nhưng hạn chế những tai hại của HS là việc làm có thể. Ít nhứt VN phải chứng minh « quyền lịch sử » và sự liên tục quốc gia – cho dầu trên danh nghĩa - ở nơi này bằng cách cho thấy quốc gia VN hiện tại và các quốc gia tiền nhiệm chưa bao giờ có ý định từ bỏ nó.

I.

«Kế thừa quốc gia» [i] và «liên tục quốc gia» là những khái niệm thuộc Quốc tế công pháp. «Kế thừa» quốc gia là sự thay thế một quốc gia bởi một quốc gia khác ở các quan hệ quốc tế, về những vấn đề liên quan đến lãnh thổ. Nói đến «liên tục quốc gia» là nói đến tính pháp nhân của một quốc gia có luôn được tồn tại (trước các định chế quốc tế), bất chấp những thay đổi về lãnh thổ, dân số, hệ thống chính trị-pháp lý và quốc hiệu hay không.

Việc kế thừa quốc gia được đặt ra trong những tình huống :
1/ quốc gia giải thể,
2/ chuyển nhượng, tức chuyển giao vùng lãnh thổ của quốc gia này cho một quốc gia khác,
3/ ly khai, tức một lãnh thổ tách rời tự thành lập một quốc gia khác và
4/ những trường hợp thống nhất của hai hay nhiều quốc gia.

Kế thừa quốc gia là thủ tục pháp lý nhằm tái xác định, hay phủ định, trách nhiệm của quốc gia kế thừa đối với vùng lãnh thổ mới, cũng như hiệu lực các kết ước, hay các tuyên bố của nhà nước tiền nhiệm đã thể hiện trước các định chế quốc tế, hay đối với các quốc gia khác.

II.
Vấn đề « kế thừa » và tư cách pháp nhân của quốc gia Việt Nam sẽ bị đặt lại ở ba thời điểm : 1) Sau khi Nhật đầu hàng Đồng Minh tháng 8-1945, 2) sau khi hiệp định Genève 1954 được ký kết và 3) sau ngày Sài gòn sụp đổ 30-4-1975.

Các thời điểm này quan trọng vì VN có những thay đổi lớn lao về lãnh thổ và chế độ chính trị.

Vấn đề kế thừa và tính liên tục giữa các nhà nước VN từ thời nhà Nguyễn, thời Pháp thuộc, cho đến thời kỳ các quốc gia ở miền Nam dễ dàng chứng minh. Chỉ khó khăn nhận diện tư cách pháp nhân của quốc gia VN ở khoản thời gian Nhật chiếm VN (10-3-1945) cho đến khi Quốc gia Việt Nam được thành hình (1948). Khoảng thời gian này tuy ngắn nhưng quan trọng, cần làm sáng tỏ [ii] ,vì hiện hữu hai «quốc gia» Việt Nam : «Đế Quốc Việt Nam» và «Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa». Tư cách pháp nhân của hai quốc gia này không rõ rệt.

Sau khi Nhật « đảo chánh » Pháp, chủ quyền (toàn thể vùng Đông Dương) trước kia thuộc Pháp, lọt vào tay Nhật. Nhưng sau khi Nhật thua trận, theo qui định của phe chiến thắng là Đồng Minh tại Hội nghị Potsdam 1945, các vùng lãnh thổ mà Nhật đã chiếm đóng trước đó là trái phép, phải tuyên bố từ bỏ. Điều này có nghĩa, các chế độ chính trị do Nhật đặt ra tại các vùng lãnh thổ do Nhật chiếm trước đó là không có tư cách pháp lý (trường hợp Mãn Châu quốc với vua Phổ Nghi, hay VN với Bảo Đại v.v...). Các vùng lãnh thổ này sẽ do Đồng Minh quản lý và quyết định số phận (ngoại trừ các vùng lãnh thổ đã được giải quyết số phận trước).

VNDCCH được thành lập qua « cuộc Cách mạng tháng Tám ». Phe cộng sản VN do ông Hồ Chí Minh lãnh đạo cho rằng đã đánh Nhật, « giành chính quyền » từ tay Nhật.

Điều này không đúng. Nhật đầu hàng đã giao toàn bộ thẩm quyền của đế quốc tại các thuộc địa cho đại diện của Đồng Minh. Ông Hồ không thể « cướp chính quyền » từ tay Nhật vì không thể cướp cái mà Nhật không còn nữa.

VNDCCH không có « tư cách pháp nhân » của một quốc gia.

Hội nghị Potsdam 1945 giữa các nước Đồng Minh qui định cho quân đội Trung Hoa có trách nhiệm giải giới quân Nhật tại VN ở những vùng phía bắc vĩ tuyến 16, cho quân đội Anh có trách nhiệm giải giới quân Nhật tại VN ở vùng phía nam (vĩ tuyến 16). Sở dĩ không có mặt Pháp (dẫu rằng Pháp là một bên trong phe chiến thắng thuộc khối Đồng Minh) vì Hoa Kỳcó ý muốn trả lại độc lập cho tất cả các nước thuộc địa cũ.

Như thế, trong khoảng thời gian 1945-1948, VN không có đại diện chính thức, chủ quyền quốc gia VN do Đồng minh quản lý. Ta có thể quan niệm, Pháp [iii]  là đại diện của Đồng minh vào VN để thực thi tinh thần Hội nghị Potsdam. Tư cách pháp nhân của quốc gia VN có thể xem là không bị mất lại vào tay Pháp mà chỉ bị « ngưng đọng ».

III.

Ngày 27-5-1948 Quốc gia Việt Nam thành hình với Chính phủ Trung ương Lâm thời Việt Nam được thành lập do Nguyễn Văn Xuân làm thủ tướng, Bảo Đại làm « Hoàng Đế, Quốc trưởng ». Việc này dựa trên kết ước Elysée, ngày 8 tháng 3 năm 1949, giữa Tổng thống Vincent Auriol và Bảo Đại.

Nội dung kết ước Elysée có nhiều điều cần bàn cãi, nhưng điểm chính là Pháp công nhận VN «độc lập» và «thống nhứt» ba miền.

Quốc gia Việt Nam của của Bảo Đại đã được quốc tế công nhận rộng rãi [iv] . Năm 1951, nhờ sự ủng hộ của hoa Kỳ, Quốc gia Việt Nam được nhìn nhận là một nước độc lập, có tuyên bố chiến tranh với Nhật, tham gia Hội nghị San Francisco để ký hòa ước với Nhật. Nhật đã cam kết bồi thường chiến tranh cho VN (qua một số công trình xây dựng).

Các việc này khẳng định tư cách pháp nhân của Quốc gia Việt Nam trên trường quốc tế. Điều quan trọng, nhân dịp Hội nghị ông Trần Văn Hữu, nguyên thủ tướng kiêm bộ trưởng bộ ngoại giao, đã tuyên bố trước Hội nghị chủ quyền lâu đời của VN tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã bị Nhật chiếm đóng trái phép trong thời kỳ chiến tranh. Ông thay mặt quốc gia Việt Nam tuyên bố quyết định thâu hồi hai vùng lãnh thổ này về lại quốc gia Việt Nam. Tuyên bố này không gặp phản đối của nước nào nào tại hội nghị.

Tại Hoàng Sa và Trường Sa, chủ quyền của VN là liên tục, mang tính kế thừa. Vấn đề kế thừa và tính liên tục quốc gia đã thể hiện xuyên suốt các thời kỳ : nhà Nguyễn – thuộc Pháp – thuộc Nhật (tháng 3-1945 – tháng 8-1945) – Đồng Minh quản lý (tháng 8-1945 – tháng 5-1948) – Quốc gia Việt Nam.

Nhà nước Phong kiến VN đã khám phá, khai thác tài nguyên và hành sử chủ quyền trên các đảo thuộc hai quần đảo này từ thế kỷ 18, lúc chưa có đế quốc nào bén mãng tới. Đến thời Pháp thuộc, nhà nước bảo hộ Pháp đã thay mặt VN long trọng tuyên bố trước cộng đồng quốc tế việc sát nhập các đảo HS, sau đó các đảo TS vào lãnh thổ VN. Tại hội nghị San Francisco 1951, Quốc gia Việt Nam đã tái khẳng định chủ quyền này trước cộng đồng quốc tế.

Cho đến ngày 30-4-1975, VN vẫn giữ được danh nghĩa chủ quyền ở Hoàng Sa (de jure) và Trường Sa, mặc dầu HS bị TQ xâm lăng năm 1974.

IV.

Ở miền Bắc, từ tháng 12-1946 đến tháng 7 năm 1954 là khoảng thời gian gọi là « chín năm kháng chiến », hay còn gọi là « cuộc chiến Đông dương lần thứ nhứt ». Chính phủ của ông Hồ tuyên bố « tiêu thổ kháng chiến », phá bỏ thành thị, làng xã, rút vào rừng thành lập các khu kháng chiến. Chính phủ của ông Hồ trở thành một «chính phủ kháng chiến » thực sự với ý nghĩa của nó.

Hoạt động của « chính phủ kháng chiến» không có điều nào đáng ghi nhận, cho đến khi Hồng quân của Mao Trạch Đông chiến thắng phe Quốc dân đảng do Tưởng Giới Thạch lãnh đạo. Vấn đề kháng chiến chống Pháp của Việt Minh đi vào khúc quanh thuận lợi vì được sự trợ giúp tận tình của CSTQ.

Cuối cùng « kháng chiến thành công », Pháp thua Việt Minh ở trận Điện Biên Phủ, phải ký hiệp định Genève tháng 7 năm 1954. Chính phủ VNDCCH do ông Hồ lãnh đạo vì vậy lấy được một nửa đất nước, tính từ vĩ tuyến 17.

Chính phủ VNDCCH là một chính phủ hiện hữu trên thực tế (de facto), được khối cộng sản công nhận. Quốc gia Việt Nam, do chính phủ VNDCCH đại diện, quan niệm Việt Nam là một quốc gia duy nhứt, thống nhứt ba miền Bắc, Trung, Nam, theo như qui định của hiệp định Genève 1954. Việc phân chia đất nước chỉ là tạm thời. VNDCCH không có đại diện nào tại các định chế quốc tế thuộc LHQ. Điều đáng ghi nhận là VNDCCH tuyên bố đoạn tuyệt với quá khứ của các nhà nước phong kiến và thực dân. VNDCCH là một quốc gia « mới », lãnh thổ có là do chiếm được, không do kế thừa. Điều ghi nhận khác, ngày 14-9-1958, nhà nước VNDCCH có viết công hàm nhìn nhận các tuyên bố về lãnh thổ và bề rộng lãnh hải của Trung Quốc, theo đó minh thị nhìn nhận chủ quyền của TQ tại HS và TS. Công hàm này là trở ngại pháp lý của nhà nước VN hôm nay trong hồ sơ HS và TS.

V.

Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam được khai sinh ngày 20-12-1960, theo nghị quyết của Đại hội đảng toàn quốc lần thứ ba của đảng CSVN (lúc đó là đảng Lao Động), do bộ Chính trị đảng CSVN và Trung ương cục miền Nam lãnh đạo. Vì vậy thực thể chính trị này và VNDCCH có quan hệ mật thiết.

Mục tiêu của MT là :« đoàn kết các tầng lớp nhân dân, đảng phái, đoàn thể, tôn giáo và nhân sĩ yêu nước không phân biệt xu hướng chính trị để đấu tranh lật đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và tập đoàn Ngô Đình Diệm, tay sai của Mỹ, để thực hiện độc lập, dân chủ, hòa bình, trung lập tiến tới hòa bình thống nhứt tổ quốc. »

Cuộc tổng tấn công tết Mậu Thân 1968, thực hiện theo một nghị quyết khác của đảng CSVN, là một thành công chính trị lớn lao. Thế giới qua cuộc tấn công này biết được sự hiện hữu của MTGPMN. Chính phủ Cách mạng Lâm thời được thành lập ngày 8-6-1969, dĩ nhiên được VNDCCH cùng các nước trong khối cộng sản công nhận.

Sự hiện hữu của CPCMLT ảnh hưởng đến tính chính thống của chính phủ VNCH trước các định chế quốc tế, làm yếu đi tư thế đại diện một nước Việt Nam duy nhứt.

CPCMLT được nhìn nhận là một thực thể chính trị có tư cách pháp nhân. Bốn bên Mỹ, CS miền Bắc, VNCH và CPCMLT ký kết hiệp định Paris 1972. HK bắt đầu rút quân khỏi miền Nam đồng thời ngưng viện trợ quân sự cho VNCH. 30-4-1975 VNCH sụp đổ.

Nhưng cho đến khi sụp đổ,VNCH vẫn là đại diện duy nhứt cho quốc gia Việt Nam tại các tổ chức quốc tế.

VI.

Ngày 30-4-1975, nhà nước VNCH sụp đổ, chính quyền mất vào tay Chính phủ cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam (CHMNVN). Chính phủ mới tuyên bố kế thừa VNCH tại các định chế quốc tế thuộc LHQ [v] . Việc kế thừa thể hiện dễ dàng qua việc thay đổi «tên nước» VNCH thành CHMNVN.

Nhưng về vấn đề kế thừa lãnh thổ, không thấy chính phủ CMLT tuyên bố lời nào về chủ quyền của HS và TS. Trong khi việc phải lên tiếng khẳng định chủ quyền là một điều bắt buộc khi quốc gia có thay đổi chính thể do biến động chính trị (do đảo chánh, cách mạng…), hay một quốc gia mới được khai sinh (do thống nhất hai quốc gia hay hai vùng lãnh thổ, quốc gia ly khai…).

Quốc tế cần phải biết thái độ của chính phủ mới về chủ quyền của các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Việc lên tiếng không chỉ là cần thiết mà còn là bắt buộc, nếu VN muốn khẳng định chủ quyền ở hai quần đảo này.

Về vấn đề HS, CPCMLT có lên tiếng một lần duy nhứt trong khoảng thời gian TQ xâm lăng Hoàng Sa của VN (tháng giêng 1974), nội dung yêu cầu tranh chấp cần được giải quyết theo đàm phán. Phía VNDCCH thì im lặng trong khi phía Liên Xô lên tiếng phản đối.

Thái độ « im lặng  [vi]  » của CPCMLT ở vấn đề HS và TS không gây ngạc nhiên, vì đó cũng là thái độ của VNDCCH từ khi lập quốc (2-9-1949) cho đến cuối thập niên 70. VN chỉ lên tiếng sau khi có bất đồng với TQ.

Vấn đề kế thừa về lãnh thổ (HS và TS) do vậy không đặt ra. Cuộc chiến 54-75 được phía CPCMLT gọi là cuộc chiến « giải phóng », tức cuộc chiến đánh đổ (phủ nhận) chính  phủ tiền nhiệm. CHCMLT xem chính phủ tiền nhiệm là « ngụy », là « quân bán nước », « làm tay sai của quân cướp nước » (tức đế quốc Mỹ). Do đó không thể có vấn đề « kế thừa » lãnh thổ.

Làm thế nào có việc kế thừa « bọn cướp nước và bè lũ bán nước » ? mà chỉ có vấn đề « giải phóng », « đánh cho Mỹ cút, ngụy nhào », chiếm lại đất đai và giành lại dân chúng. Một số đảo ở TS đã được thể hiện như thế (de facto).

Quốc gia tên gọ «Việt Nam Cộng Hòa» là một quốc gia bị giải thể. Tư cách pháp nhân VNCH bị xóa bỏ, không có thừa kế.

VII.

Cho đến 30-4-1975, VNDCCH vẫn không xin gia nhập vào bất kỳ các định chế quốc tế nào để giữ nguyên tắc « một quốc gia Việt Nam duy nhứt », theo qui định của hiệp định Genève 1954 (cũng như theo nội dung hiến pháp).

Nguyên tắc này chỉ bị hủy bỏ khi VNDCCH quyết định xin gia nhập O.M.S như là « một thành viên chính thức » vào ngày 10 tháng 4 năm 1975. Việc này được đại hội O.M.S chấp nhận ngày 7-5-1975.

Như thế từ ngày 9-5-1975 hiện hữu hai quốc gia Việt Nam trên trường quốc tế, được quốc tế nhìn nhận : VNDCCH và CHMNVN. Việc thống nhứt đất nước như thế là thống nhứt giữa hai quốc gia.

Ngày 2-7-1976 hai nước VNDCCH và CHMNVN hiệp thương thống nhứt đất nước. Từ nay quốc gia VN chỉ có một : Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

Câu hỏi đặt ra : Quốc gia CHXHCNVN đã kế thừa chủ quyền của VN tại HS và TS của các quốc gia tiền nhiệm như thế nào ?

Như đã viết, VNDCCH chủ trương có hai nước Việt Nam sau 30-4-1975, qua việc VNDCCH xin gia nhập các định chế quốc tế. Quyết định gia nhập của nước VNDCCH vào các định chế quốc tế là khẳng định tư cách một nước Việt Nam khác.

Sau khi thống nhứt đất nước, đại diện của Việt Nam tại các định chế quốc tế là đại diện của nước VNDCCH vừa mới gia nhập trước đó. Tính liên tục quốc gia đã được xácđịnh : từ VNDCCH chuyển sang CHXHCNVN.

Nước CHXHCNVN là một quốc gia VN mới. Đoạn tuyệt với mọi nhà nước thực dân, phong kiến, hay chính quyền Ngụy ở Sài Gòn. Lãnh thổ của nước CHXHCNVN là lãnh thổ chiếm được từ tay Pháp (1954) và Mỹ, Ngụy (1975), không phải là lãnh thổ kế thừa.

Tinh liên tục quốc gia đã được thể hiện : di sản của VNDCCH được chuyển sang CHXHCNVN. Chính quyền CHXHCNVN kế thừa di sản của chính phủ VNDCCH. Việc này càng rõ rệt hơn khi ta nhận thấy đảng lãnh đạo nhà nước VNDCCH trước kia và đảng lãnh đạo nhà nước CHXHCNVN hôm nay là một : đảng CSVN.

Vấn đề kế thừa chính phủ CMLT cũng không đặt ra. Những người lãnh đạo chính phủ này cũng là nhân sự đảng CSVN. Tức cả hai nước VNDCCH và CHMNVN, nhân sự lãnh đạo đều nằm trong một đảng. Cả hai thực thể chính trị, có tư cách pháp nhân, thật ra chỉ do một đảng lãnh đạo.

Việc kế thừa sẽ đặt lại các vấn đề về bang giao quốc tế. Nước CHXHCNVN, kế thừa VNDCCH, có nghĩa vụ tôn trọng những kết ước, những tuyên bố đơn phương về một vấn đề quốc tế... của nhà nước tiền nhiệm VNDCCH.

Quan điểm của CHXHCNVN về HS và TS là quan điểm của VNCH. Bạch thư công bố 1979 cho thấy việc này. Quan điểm này mâu thuẩn với quan điểm quốc gia tiền nhiệm VNDCCH.

Trên quan điểm pháp lý, CHXHCNVN không thể kế thừa cùng lúc hai quan điểm đối nghịch thuộc về hai quốc gia tiền nhiệm (CVDCCH và VNCH, nếu xem VNCH là quốc gia tiền nhiệm).

VIII.

Như vậy, khuyết điểm lớn về pháp lý của quốc gia VN hiện nay là đã kế thừa di sản của VNDCCH. Công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng cùng các động thái khác của nhà nước VNDCCH trong nhiều thời kỳ đã củng cố chủ quyền của TQ tại HS và TS. Nhiều người hiện nay cố tìm cách diễn giải nội dung công hàm 1958 nhằm hạn chế hiệu lực của nó nhưng đều không thuyết phục. Công hàm 1958 là một tuyên bố đơn phương, có hiệu lực ở phạm vi quốc tế. Người ta không thể hóa giải hiệu lực một văn bản quốc tế bằng các điều luật quốc gia. Cũng không thể diễn giải theo lối « người ta không thể cho cái mà người ta không có ». Nguyên tắc « quốc gia Việt Nam duy nhứt » theo qui định của hiệp định Genève không cho phép nói vậy. Bên nào cũng có trách nhiệm như nhau trong việc bảo vệ đất nước. Cũng không thể yêu cầu nhà nước « giải thích » nội dung công hàm. Nhà nước CHXHCNVN đã lên tiếng về nội dung công hàm này. Ông Phạm Văn Đồng, tác giả công hàm, sau đó là ông Nguyễn Mạnh Cầm nguyên bộ trưởng bộ ngoại giao, cũng đã giải thích nội dung.

Chỉ có phương án kế thừa VNCH (và đoạn tuyệt với di sản VNDCCH) mới có thể giúp quốc gia Việt Nam thể hiện tính liên tục của quốc gia VN tại HS và TS. Việc kế thừa đáng lẽ là quá trình hòa giải dân tộc, lý ra phải được thực hiện từ  lâu, với một trình tự pháp lý được xác định rõ rệt qua một bộ luật về hòa giải quốc gia.

Kế thừa thế nào ?

IX.
Nhà nước CSVN bỏ tên nước, đặt lại tên nước, thí dụ : Cộng Hòa Việt Nam, thay đổi quốc kỳ, quốc ca, hiến pháp…thay đổi tất cả những gì dính líu đến VNDCCH và CHXHCNVN để lập một nền cộng hòa mới, tổ chức bầu cử tự do, lập chính quyền thực sự của dân, do dân và vì dân ; đoạn tuyệt với quá khứ sai lầm của VNDCCH.

Nhà nước mới, trên nền tảng dân chủ, thảo luận về một bộ luật « hòa giải dân tộc », trong đó qui định phương cách phục hồi danh dự cũng như việc đền bồi xứng đáng cho các thành phần quân nhân công chức VNCH nạn nhân của chính sách học tập cải tạo. Lập ra điều luật cấm sử dụng tiếng « ngụy » đối với những người thuộc chế độ cũ. Đền bồi cho các nạn nhân do cải tạo công thuơng nghiệp, đánh tư sản mại bản, kinh tế mới ; làm luật phục hồi danh dự (cho người quá vãng) và đền bồi tương xứng cho nạn nhân của cộng sản như vụ Cải Cách Ruộng Đất, Nhân Văn Giai Phẩm, vụ án « xét lại chống đảng » v.v… Nếu những người này đã mất thì đề bồi cho con cháu của họ.Cho tu bổ các nghĩa trang liệt sĩ, không phân biệt nam bắc, dân tộc kinh, thuợng, không phân biệt cuộc chiến 1975, 1979 hay cuộc chiến với Kampuchia v.v…

Đứng trên quan điểm đó, một nước VN mới, dân chủ, hoàn toàn đủ tư cách và tính chính thống, long trọng tuyên bố trước cộng đồng thế giới kế thừa di sản VNCH. Như thế VN khẳng định chủ quyền tại HS và TS, từ đó làm căn bản giải quyết các tranh chấp chủ quyền HS và TS bằng một trọng tài quốc tế.

Trên tinh thần đó, với sự hưởng ứng của toàn khối dân tộc, VN sẽ đứng ở thế mạnh, hay ở thế không ai có thể bắt nạt, toàn dân một lòng chắc chắn đủ khả năng để tự bảo vệ lãnh thổ và lãnh hải của tổ tiên để lại.

Dự án thay đổi hiến pháp 1992 hiện nay có thể là một dịp để bày tỏ thiện chí hòa giải và kế thừa.



[i]  « Quốc gia – l’Etat » được cấu thành do ba yếu tố : 1) người dân, 2) lãnh thổ và 3) một chính phủ. Việc « công nhận quốc gia » là quan trọng trong quan hệ quốc tế, vì nó xác định sự hiện hữu (tư cách pháp nhân) một quốc gia trên sân khấu quốc tế. Thủ tục công nhận thể hiện bằng việc« thiết lập bang giao », qua các việc trao đổi lãnh sự, ký kết các hiệp ước, hay bằng một tuyên bố đơn phương giữa các quốc gia. Việc công nhận quốc gia là các bên chấp nhận các yếu tố đặc thù về công dân, về lãnh thổ và vềchính phủ của các bên. Việc công nhận có thể mang tính pháp lý « de jure », tức công nhận quốc gia như là chủ thể duy nhứt, bình đẳng về độc lập và chủ quyền trước Công pháp quốc tế. Hoặc « de facto », một hình thức công nhận tạm thời cho những quốc gia đang thành hình.

« Quốc gia », theo qui ước của Công pháp quốc tế, là thực thể pháp nhân duy nhứt, bất khả phân. Đại diện quốc gia ở Liên hiệp quốc và các định chế quốc tế thuộc thẩm quyền của LHQ chỉ có một. Trường hợp quốc gia bị phân chia (có hai vùng lãnh thổ khác biệt, có hai nhóm dân chúng khác biệt mặc dầu có cùng quốc tịch, do hai chính phủ khác biệt lãnh đạo), chỉ có một vùng lãnh thổ duy nhứt được phép đại diện cho quốc gia ở LHQ (và các định chế quốc tế khác thuộc LHQ). Thí dụ : quốc gia Việt Nam sau hiệp định Genève 1954 là một « quốc gia duy nhứt », bị chia cắt thành hai vùng lãnh thổ : Việt Nam Cộng Hòa ởmiền Nam và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ở miền Bắc. Không bên nào được nhìn nhận là đại diện chính thức quốc gia VN tại LHQ. Tuy nhiên, ở các định chế quốc tếthuộc LHQ, đại diện chính thức cho quốc gia VN là VNCH.

[ii]   Ngày 10 tháng 3 năm 1945 Nhật đảo chánh Pháp, chiếm Đông Dương. Đại diện Nhật Hoàng tiếp xúc với ông Bảo Đại đề nghị trả lại độc lập cho VN. Ngày 12 tháng 3 năm 1945 Bảo Đại tuyên bố VN độc lập, lấy quốc hiệu là « Đế Quốc Việt Nam », bãi bỏ các hiệp ước bảo hộ đã ký trước đây với Pháp. Ngày 17-4-1945 chính phủ Trần Trọng Kim thành lập. Nhưng chỉ vài tháng sau, 16 tháng 8 năm 1945, Nhật tuyên bố đầu hàng Đồng Minh. Ngày 19 tháng 8 năm 1945 Mặt trận Việt Minh làm « cách mạng». Một chính phủ « lâm thời » được Hồ Chí Minh thành lập tại Hà Nội. Ngày 25 tháng 8 Bảo Đại giao ấn, kiếm cho Trần Huy Liệu, đại diện Ủy ban giải phóng, tuyên bố thoái vị. Quốc gia gọi là « Đế Quốc Việt Nam » kết thúc và quốc gia « Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa » ra đời.

[iii]  Việc quân Đồng minh vào VN giải giới quân Nhật không được thực hiện theo tinh thần của Hội Nghi Potsdam 1945.

Bởi vì, tại Nam Kỳ (Cochinchine) là« nhượng địa » của Pháp, do VN nhượng cho Pháp qua các hòa ước 1862, 1874… vì thế Anh nhượng lại cho Pháp công việc giải giới quân Nhật có thể với hậu ý trả lại vùng đất này về cho Pháp.

Trong khi ở phía bắc, quân Trung Hoa của Tưởng Giới Thạch vào VN chỉ sau « cách mạng tháng tám » vài ngày. Mục tiêu của họ là « giải giới quân Nhật » và trao trả chính quyền lại cho người đại diện nhân dân VN, theo tinh thần của Hội nghị Potsdam. Quân Trung Hoa vào VN tước khí giới của Việt Minh, giao chính quyền cho các đảng phái (VNQDD, DV, VNCMDMH). Lo ngại mất quyền, Hồ Chí Minh hô hào« tuần lễ vàng », quyên góp vàng bạc trong dân để có phương tiện đút lót cho các tướng Trung Hoa là Tiêu Văn và Lư Hán. Nhờ việc « lo lót » này các vị tướng Tàu ngả về ủng hộ Hồ Chí Minh, làm áp lực lên các đảng phái khác, ép thành lập « Chính phủ Liên hiệp Lâm thời » ngày 25 tháng 12 năm 1945. Chính phủ này gồm có đại diện của các phe phái tại VN. Quốc hội cũng được tổ chức qua cuộc bầu cử ngày 6 tháng 1 năm 1946. Ngày 2 tháng 3, Quốc hội nhóm họp, tuyên bố « Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến » thành hình, do Hồ Chí Minh làm chủ tịch và Nguyễn Hải Thần làm phó chủ tịch.

Đáng lẽ thực thể VNDCCH với Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến có tư cách pháp nhân vì thực thể này sinh ra từ ý nguyện của phe Đồng Minh : trao trả nền độc lập VN cho đại diện của nhân dân VN. Nhưng việc Pháp « đi đêm » với Tưởng Giới Thạch, đề nghị trao đổi quyền lợi trả miền bắc lại cho Pháp. Vấn đề tồi tệ thêm khi ông Hồ bắt được tin này, lén liên lạc với Pháp để tìm thỏa ước, mục đích dĩ nhiên là để được xem là đại diện chính thức của VN (nhằm loại các địch thủ chính trị khác như VNQDD, DV…). Ngày 28-2-1946 Pháp và Trung Hoa ký kết ước Trùng Khánh thì ngày 6 tháng 3 ông Hồ cũng ký với Pháp một hiệp ước gọi là « hiệp ước sơ bộ ».Theo đó Pháp công nhận VN là một nước «tự do » nằm trong Liên bang Đông dương và Liên hiệp Pháp.

Hiệp ước sơ bộ không hề nói một nước Việt Nam độc lập mà chỉ nói một nước « Việt Nam tự do » thuộc« Liên bang Đông dương » và khối « Liên hiệp Pháp ». Tức ông Hồ chấp nhận « quốc gia » Việt Nam, thực ra là « tiểu bang » hay « xứ », do chính phủ ông lãnh đạo, nằm trong Liên bang Đông Dương, có qui chế pháp lý tương đương với xứ Bắc Kỳ.

Việc này cũng kết liễu tính chính thống của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.

Sau khi bị chỉ trích « rước Pháp vào VN », ông Hồ cố gắng thay đổi thực tế này qua các hội nghị tại Đà Lạt và Fontainebleau, nhưng đều thất bại. Chính phủ của ông Hồ rút khỏi Hà Nội và bước vào cuộc kháng chiến, bắt đầu từ tháng 12 năm 1946. Ông Bảo Đại phê ông Hồ rằng : « Sau thất vọng ở Fontainebleau, (Việt Minh) chỉ còn giữ được uy tín bằng cách đưa cả nước vào biển máu. »

[iv]   Quốc gia Việt Nam được chấp thuận là đại diện của nước Việt Nam duy nhứt (và thống nhứt ba miền), gia nhập vào các tổ chức quốc tế như sau : Tổ chức Y tế Quốc Tế (l'Organisation mondiale de la Santé - O.M.S.), Tổ chức Lao động Quốc tế (l'Organisation internationale du Travail - O.I.T.), Tổ chức của Liên Hiệp Quốc về Lương thực và Nông nghiệp (l'Organisation des Nations Unies pour l'alimentation et l'agriculture - F.A.O.), Tổ chức của Liên Hiệp Quốc về Giáo dục, Khoa học và Văn hóa (l'Organisation des Nations Unies pour l'éducation, la science et la culture - U.N.E.S.C.O.), Liên hiệp Quốc tế về Viễn Thông (l'Union internationale des Télécommunications - U.I.T), Liên hiệp Bưu chính Thế giới (l'Union postale universelle - U.P.V.)…

[v]   Bộ trưởng bộ Ngoại giao của Chính phủ Cách mạng Lâm thời là bà Nguyễn Thị Bình. Sau khi VNCH sụp đổ, bà Bình đã có những động thái hướng đến các tổ chức quốc tế nhằm kế thừa danh nghĩa của VNCH đại diện cho quốc gia Việt Nam. Ngày 7-5-1975, một điện tín từ Bộ ngoại giao của Cộng hòa Miền Nam Việt Nam đã gởi đến O.M.S, cùng lúc với các định chế quốc tế khác, nội dung tóm lược như sau :
« Chính phủ Cộng hòa Miền Nam VN thông báo đã kiểm soát hoàn toàn lãnh thổ Việt Nam. Chế độ cũ ở Sài Gòn đã sụp đổ. Chính phủ Cách Mạng lâm thời là người duy nhứt có thẩm quyền, thực sự đại diện dân chúng miền Nam, có tính chính thống để đại diện miền Nam Việt Nam tại O.M.S cũng như các định chế quốc tế khác. »

Việc « kế thừa »VNCH của CPCMLT tại các định chế quốc tế không gặp khó khăn, chỉ đơn giản là việc « đổi tên nước », tại UNESCO vào tháng 7 -1975, U.I.T vào tháng 2 năm 1976.

  [vi]   Theo thông lệ quốc tế, người ta thường xem việc một quốc gia giữ yên lặng trước một động thái của một quốc gia khác là không có ý kiến (hay mặc nhiên đồng thuận) về động thái đó.

Publié par Nhan Tuan Truong à 09:40





No comments:

Post a Comment

View My Stats