Minh Diện
Thứ sáu, ngày 19 tháng tư năm 2013
Hôm kia một người bạn ở Sydney,
Úc, gửi Email cho tôi: “ Ông Lê Đông mất rồi. Trước lúc nhắm mắt, ông ấy muốn
tro cốt của mình được đưa về chôn tại làng Đồng Mùa”.
Tôi cảm thấy thương hại ông
Đông. Lần cuối cùng ông muốn trở về nơi chôn rau cắt rốn không biết có được
toại nguyện?
Lê Đông là người bà con với một
đồng nghiệp của tôi ở báo Tiền Phong. Năm 2009, khi tôi sang Sydney, Lê Đông tự
lái xe đón tôi ở sân bay, chở tôi về Kramatta, một khu phố có nhiều người Việt
sinh sống ở Sidney. Sau bữa cơm chiều, ông dẫn tôi đi xem nhà hát Opera , cầu
cảng Harbour Bridge và một vài cảnh đẹp, rồi tới quảng trường Tòa thị chính ,
xem buổi nhạc hội của thổ dân.
Giữa khu phố trung tâm, dưới
những tòa nhà hiện đại, thổ dân dựng lều bạt, đốt lửa trên quảng trường. Và
trong ánh hoàng hôn , những người đàn ông, đàn bà, trẻ già mặc áo quần sặc sỡ,
đội mũ lông trĩ, nhảy múa bên ánh lửa bập bùng. Họ hát vang những bài ca trữ
tình ca ngợi sự sống nảy mầm từ đá và cát ở miền Tây sa mạc Greet Victoria. Lê
Đông nhìn đăm đuối , như muốn hóa thân vào cuộc vui cùng những người thổ dân
đang ca múa. Lúc quay về, ông nói với tôi:
- Những thổ dân thường tụ tập
như vậy để nhắc nhở nhau nhớ nguồn gốc của mình ! Nhìn họ mỉnh càng nhớ quê
hương.
Buổi tối hôm ấy, Lê Đông và tôi
cùng mấy người bạn ngổi quanh chiếc bàn tròn, trong mái vòm lợp kính, trên sân
thượng, nhìn trời đêm mênh mông, rực rỡ, huyền ảo trên thành phố Sidney. Gió
biển phóng khoáng tràn vào lồng lộng, khiến chúng tôi nhớ Đà Nẵng, Nha Trang ,
Mũi Né của Việt Nam. Và thế là mấy anh em đồng hương , vừa nhâm nhi ly rượu
vang đỏ củaSydney , vừa nói chuyện quê nhà.
Ông Lê Đông tâm sự, dù đã hơn
sáu mươi năm xa quê và hơn ba mươi năm xa Tổ Quốc, ông vẫn nhớ làng Đồng Mùa,
bên dòng sông Châu Giang, huyện Bình Lục , Hà Nam , là nơi ông sinh ra và lớn
lên. Tôi chưa thấy ai nhớ rành rọt như ông. Những đường nét và đặc trưng của
cái làng Đồng Mùa mà tôi chưa một lần đặt chân tới , được ông tả chi li như
ngồi trước một bản sơ đồ.
Lê Đông kể:
- Quê tôi có con đường sỏi chạy
giữa làng , rồi chạy qua cánh đồng, ra thị trấn Vĩnh Trụ. Đứng trên đường làng,
nhìn hai bờ sông Châu Giang, lũy tre um tùm. Thình thoảng từng đàn cò trắng về
đậu trắng ngọn tre. Bên sông có những đầm sen rộng hàng chục mẫu. Mùa thu sen
trổ bông , từng đàn vịt trời, le le bơi lội, ban đêm vang tiếng chim bìm bịp
hòa với tiếng chim cuốc , nghe nao lòng. Tôi còn nhớ hai câu thơ của Nguyễn
Bính : “ Con chim nhỏ cũng mang hồn đất nước! Tiếng cuốc kêu nhỏ máu những đêm
ròng!”
Lê Đông lắc lư mái đầu bạc
trắng, ngâm hai câu thơ, mắt nhìn xa xăm. Khuôn mặt ông nặng trĩu nỗi buồn. Một
lúc sau ông kể tiếp:
- Tôi nhớ những mùa mưa lũ
tháng bảy, tháng tám, cá chép, cá trôi từ sông Châu Giang, từ đầm sen vượt lên
đồng đẻ trứng. Chúng quẫy đạp vùng vẫy bì bõm trong những ruộng lúa phơi màu .
Bọn trẻ chúng tôi soi đèn, mang nơm ra chụp , được những con chép vàng ươm ,
bụng đầy trứng. Mùa cá đẻ, chợ Đồng Mùa có phiên cá chép, cá trôi đầy sạp không
có người mua. Tháng 12, sen trong đầm tàn, cá rút xuống đầm. Bấy giờ trên cánh
đồng những ruộng cà, ruộng bí, rau diếp, su hào, bắp cải lên xanh ngút ngát.
Những dàm mướp bằng tre bắt chéo như mái nhà , dây mướp phủ xanh , lốm đốm hoa
, những ruộng cải ngồng trổ bông vàng rực, từng đàn bướm bay lượn dập dờn. Dưới
sông bầy trẻ con bơi lội, những cô gái làng gánh nước, phất phơ dây yếm trắng
...
Ông Lê Đông uống một ngụm vang
đỏ, và lại lắc lư cái đầu bạc, hồi tưởng lại ngày gia đình ông rời làng Đồng
Mùa di cư vào Nam. Cuộc di cư ấy diễn ra suốt hơn 300 ngày, sau hiệp định
Genève được ký kết giữa Việt Nam dân chủ cộng hòa và Pháp, tạm thời chia Việt
Nam thành hai miền tại vĩ tuyến 17. Dòng người từ Nam tập kết ra Bắc , ngược
dòng người từ Bắc di cư vào Nam. Có người mỉa mai, gọi đó là “ Một cuộc bỏ
phiếu bằng chân” với 140.000 người từ Nam ra Bắc, theo cộng sản và hơn
1.000.000 người theo chế độ cộng hòa, từ Bắc vào Nam!
Gia đình Lê Đông bỏ lại ngôi
nhà ngói năm gian tường hoa sân gạch, và tất cả ruộng vườn, tài sản tạo lập
được từ bao đời, bỏ cả mồ mả ông bà tổ tiên , gồng gánh bồng bế nhau, qua Nam
Định, Thái Bình xuống Hải Phòng hòa vào dòng người di cư.
Ông Đông kể:
- Bố tôi năm ấy mới bốn mươi
tuổi, mẹ tôi ba mươi tám. Ông nội tôi mới mất, bà nội tôi bảy mươi đang bệnh ,
bố tôi cõng trên lưng. Mẹ tôi gánh một bên đứa em út ba tuổi, một bên chiếc
thúng đựng quần áo, chăn mển. Tôi đeo ruột tượng gạo và dắt đứa em gái kế tôi
mới 13 tuổi. Chúng tôi đi ban đêm, len lỏi qua làng xóm vắng để tránh những
chốt gác của chính quyền, vì họ tìm mọi cách ngăn lại, không cho xuống Hải
Phòng.
Một buổi chiều bà nội tôi trở
bệnh, ho rũ rượi rồi ngất đi. Bố tôi cõng bà chạy vào ngôi nhà thờ ven đường
10. Ngôi nhà thờ đã bị tàn phá trong chiến tranh , tháp chuông đổ, mái ngói xô
dạt, tượng Đức Mẹ đồng trinh gãy một cánh tay, tượng Đức chúa Jesu dầu đội vành
gai , trên mình đầy vết thương còn mới do dạn súng trường và mảnh bom. Trời mưa
tầm tã. Mưa quất vào cành cây rào rào, tuôn chảy dọc cây thánh giá, trên tượng
Đức Mẹ đồng trinh và tượng Chúa Jesu. Tôi có cảm giác như Đức Mẹ đang khóc và
thân thể Chúa Jesu đang rỉ máu. Chúng tôi quỳ dưới chân Chúa Jesu . Bố tôi cất
tiếng cầu nguyện:
- Đức Jesus hằng tôn! Sao người
nỡ bỏ chúng con !
Tôi ngước mắt nhìn lên, mắt
nhòa lệ, thấy Đức Mẹ dang cánh tay còn lại ra đỡ chúng tôi, và Chúa Jesus nhìn
vào nơi sâu thẳm.
Bà nội tôi dần tình lại , chúng
tôi lại lên đường. Mấy ngày sau tới Hải Phòng . Chúng tôi cùng hàng trăm người
được dồn xuống một chiếc Landing ship, tank , người ta gọi là tàu há mồm, như
một đàn cừu, vượt biển vào Nam. Những đám mây đen cuồn cuộn, âm u bao phủ con
tàu cũ kỹ. Nỗi thất vọng nấc lên trong tiếng gió rít, tiếng sóng biển thét gào.
Trong lòng con tàu, những dòng nước mắt tuôn chảy như mưa và tiếng than khóc
như muốn át cả tiếng sóng gió. Nhưng ,khi người phụ trách hỏi ai muốn quay về
thì không ai muốn quay về .
Bấy giờ miền Bắc đã hòa bình,
cuộc sống như Tố Hữu ca ngợi, là “ thiên đường của các con tôi!” sao người dân
như gia đình ông Đông lại bỏ vào Nam? Cuộc ra đi giằng xé nát lòng ấy đã khiến
nhà thơ Trần Dần thảng thốt, và ông nghi ngờ
“Hỏi bạn đi Nam
Thiếu gì ư sao chẳng nói thật thà?
Chỉ là
Thiều quả tim khối óc!”
Rồi chính Trần Dần lại phải
thốt lên đau đớn, khi nhận ra:
“Họ vẫn đi.
Nhưng sao bước rã rời?
Sao họ khóc?
Họ có gì thất vọng?
Đất níu chân đi!
Gió cản áo quay về!
Xa đất Bắc tưởng như rời cõi sống!”
Ông Lê Đông kể:
- Gia đình tôi vào nam, mang
theo nghề mộc . Bố tôi lập một xường mộc nhỏ ở Phú Lâm kiềm kế sanh nhai. Năm
tháng qua đi, xưởng mộc lớn dần, trở thành một nhà máy cưa và kinh doanh gỗ. Bố
tôi lấy tên dòng sông Châu Giang đặt tên cho nhà máy và chọn những người cùng
quê vào làm việc. Tôi học đại học Văn khoa Sài Gòn , tốt nghiệp , làm cho tờ
báo Làng Văn một thời gian ,rồi ở nhà giúp bố tôi quản lý nhà máy. Cô em gái
học ngành y, ra trường làm bác sỹ , lấy chồng là một thiếu tá không quân, còn
đứa em út trở thành trung úy quân đội Việt Namcộng hòa...
Những ngày cuối tháng 4-1975,
gia đình ông Đông nổ ra cuộc đấu tranh gay gắt, giữa ở và đi. Người con rể
thiếu tá không quân dứt khoát chọn con đường di tản, còn bố mẹ Lê Đông dứt
khoát ở lại. Con rể nói:
- Khi Việt cộng vào thành phố
sẽ xảy ra tắm máu!
Ông bố Lê Đông dứt khoát:
- Đời bố đã một lần bỏ quê cha
đất tổ ra đi, giờ lại chạy trốn một lần nữa hay sao? Không, bố không di tản!
Chết tao cũng không sợ!
Nhưng có thứ còn đáng sợ hơn
cái chết! Và ông Lê Đạt, bố Lê Đông , một lần nữa phải chạy trốn khỏi xứ sở.
Đó là một đêm cuối năm, năm
1979, trên bãi sú vẹt Vũng Tàu. Lê Đông cùng vợ con và bố mẹ lóp ngóp bò lết
trên sình lầy ra con tàu neo đậu trong một hẻm núi. Chung quanh họ hàng trăm
người cùng trườn lết. Đám người chạy trốn đen thẫm, từ từ trôi như một dòng
bùn. Những tiếng kêu rên khe khẽ não nề. Gió lạnh rít cồn cào, khí trời nồng
nặc mùi bùn.
Ông Lê Đạt đã ngoài sáu mươi
tuồi , khóc nấc như một đứa trẻ khi cố dìu vợ vượt qua một đoạn sình lầy.
Lần trước ông chạy trốn bỏ lại
ngôi nhà, vài mẫu ruộng, lần này ông chạy trốn, sau khi bị tước đoạt toàn bộ số
tài sản gấp ngàn lần trước.
Đó là Nhà máy cưa Châu Giang
của gia đình ông. Từ một xường mộc hơn chục mét vuông, sau hai mươi năm ông đã
mở mang thành một nhà máy đồ gỗ xuất khầu năm ngàn mét vuông nhà xưởng, hàng
chục máy cưa, máy xẻ, máy khoan, máy bào , máy tiện hiện đại, một bãi gỗ bên bờ
sông Đồng Nai, hàng chục xe chuyên dùng, bảo đảm công ăn việc làm cho hơn ba
trăm công nhân.
Ông còn nhớ ngày Sài Gòn mới
giải phóng , ông đã vui mừng tiếp đón những sỹ quan quân giải phóng đến thăm
nhà máy và trao cho ông tờ giấy xác nhận có công đóng góp cho cuộc kháng chiến
chống Mỹ, dù bàn thân ông không đòi hỏi.
Chuyện ấy bắt đầu từ năm 1969,
khi ông trúng thầu khai thác gỗ ở khu rừng Mỏ vẹt, giáp biên giới Campuchia,
một vùng “da beo” giữa quân giải phóng và quân đội Việt Nam cộng hòa. Những
cánh rừng khọc, rừng buông, bằng lăng bạt ngàn, không phân biệt ranh giới của
mỗi bên.
Trong thời gian khai thác gỗ ở
khu rừng đó, tình cờ ông đã gặp Bảy Mến, chỉ huy một đơn vị công binh, làm
nhiệm vụ mở đường, bắc cầu, tháo gỡ bom mìn . Tình cảm giữa ông và những người
lính quân giải phóng mỗi ngày một thân mật. Mỗi lần vào rừng khai thác gỗ ông
lại cho những người tin cẩn mang theo cưa máy, đinh, rìu búa, khoan , đặc biệt
là các loại thuốc chữa bệnh cho đơn vị Bảy Mến. Thỉnh thoảng ông trực tiếp mang
heo quay, bê thui vào cúng rừng và tổ chức liên hoan với anh em.
Bảy Mến và những chiến sỹ quân
giải phóng ngày ấy, cũng là một động lực khiến ông không di tản cùng người con
rể. Khi Bảy Mến và những sỹ quan chỉ huy đến thăm sau ngày giải phóng, động
viên ông phát triển sản xuất góp phần xây dựng đất nước , ông rất mừng.
Gần ba năm trời, ông đã cố gắng
hòa mình vào cuộc sống mới. Ông hiến bớt một số cừa hàng đồ gỗ cho chính quyền
lấy mặt bằng mở hợp tác xã mua bán. Ngôi biệt thự ở trung tâm quận, ông tặng
làm nhà văn hóa thiếu nhi. Chiếc xe Merceder ông cũng hiến cho nhà nước. Ông
không đi nhà hàng mỗi buổi chiều thứ bảy như trước giải phóng, mà ăn cơm độn
mỳ, bo bo, chung cái đói khổ với người dân. Ông tưởng chế độ mới đã chấp nhận
ông, để ông tồn tại với niềm tự hào là một doanh nhân thành đạt từ hai bàn tay
trắng, một ngày nào đó ông ngẩng cao đầu trở về làng Đồng Mùa bên bờ sông Châu
Giang, nơi ông lầm lũi bò ra đi hơn hai mươi năm trước.
Nhưng ông đã thấy vọng. Thất
vọng đau đớn gấp ngàn lần hai mươi năm trước, bởi ngày đó ông còn trẻ, còn hy
vọng làm lại từ đầu.
Buổi sáng hôm ấy, khi nghe đọc
quyết định tịch thu toàn bộ nhà máy, phong tỏa tài sải ngân hàng, và lập danh
sách đưa gia đình mình đi kinh tế mới, ông đã nói với Lê Đông:
- Phải ra đi thôi! Ở đây chết
không nhắm mắt được!
Lê Đông kể tiếp:
- Đêm ấy chúng tôi bò ra được
bờ biền, rồi từng người bám vào phao cao su bơi ra tàu. Nước mặn tê buốt như có
người cầm chiếc bàn chải sắt chà lên da thịt. Một cháu bé bị chết cóng hay vì
sặc nước , người mẹ thả trôi theo đòng nước. Tiếng khóc của chị bị sóng gió át
đi.
Con tàu đánh cả được người ta
cải tạo làm thuyền chở người vượt biên . Không ai biết chính xác bao nhiêu
người được nhồi nhét xuống con tàu cũ kỹ, và người tài công chỉ có duy nhất một
chiếc la bàn để đưa nó ra khơi. Thôi thì phó thác số mệnh cho biển trời !
Đêm đen giăng màn tang tóc. Gió
cồn cào . Sóng biển lớp lớp xô đẩy, gầm thét . Con tàu trồi lên thụp xuống.
Người say sóng rên la , nôn mửa chán rồi nằm quắt queo như xác chết.
Và điều mọi người linh tính đã
xảy ra, con tàu bị lạc hướng giữa biển khơi. Một ngày, hai ngày rồi năm ngày.
May mắn biển không dông bão, nhưng nước ngọt cạn dần rồi hết. Cái khát hành hạ
mọi người. Bố mẹ tôi, hai đứa con tôi cũng như hàng chục người già, con trẻ
kiệt sức, ngất lịm. Trong giờ phút khốn cùng ấy, những người còn chút sức lực
cố bò lên boong tàu, quỳ xuống chắp tay, ngửa mặt lên trời. Người cầu Đức Mẹ,
người cầu Quan Âm Bồ Tát.
Bỗng một đám mây kéo đến và một
trận mưa ào ạt trút xuống con tàu. Chúng tôi há miệng hớp lấy từng giọt nước
ngọt như dòng sữa mẹ. Cảm ơn Đức Mẹ lòng lành và Quan Âm Bồ Tát đã cứu chúng
con!
Mưa tạnh, một chiếc tàu Hải
quân Philipines phát hiện, đưa con tàu vượt biên của chúng tôi vào đảo
Babudong. Năm tháng sau gia đình tôi được định cư ở Úc.
Tôi hỏi ông Lê Đông:
- Cụ Lê Đạt mất lâu chưa ?
- Bố mẹ tôi mất cách đây mười
năm. Hai bình tro cốt tôi vẫn đề trên bàn thờ, chờ ngày mang về mai táng ở Đồng
Mùa theo di chúc của bố tôi.
Bố mẹ ông Lê Đông chưa về. Và
bây giờ ông ra đi với niềm mơ ước đó. Ôi nỗi đau của những người phải chạy trốn
khỏi quê hương!
M.D
No comments:
Post a Comment