Duke Nguyen
Sunday,
07 April 2013 12:56
Sách Chiến tranh Việt Nam 1960-1975 vừa được nhà xuất
bản Non Nước (Toronto) phát hành. Đây là tập thứ 7 tức tập cuối trong bộ thông
sử “Việt sử đại cương” từ khi Việt Nam lập quốc đến năm 1975 của soạn giả Trần
Gia Phụng. Sách nầy viết về chiến tranh
Việt Nam sau hiệp định Genève. Công việc chính trị, hành chánh, văn hóa, kinh
tế trong giai đoạn nầy đã được ông viết trong VSĐC tập 6.
Chuyện gì chứ chiến tranh Việt
Nam vừa qua, thì người Việt nào cũng biết cả, biết ít biết nhiều, biết một cách
trực tiếp hay biết một cách tổng quát, nhất là kết quả đau thương ngày
30-4-1975. Biết thì biết, nhưng sắp đặt lại một cách có hệ thống thì phải nói
rằng sách của Trần Gia Phụng trình bày diễn tiến cuộc chiến vừa qua rất bài bản
theo cách viết sử phổ thông.
Mở đầu là các chương có tính cách
tổng quát như hoàn cảnh chính trị thế giới, nguyên nhân chiến tranh 1960-1975,
lực lượng tham chiến ở trong nước và ở ngoài nước, viện trợ quân sự nước ngoài
và chiến trường ở cả Bắc lẫn Nam Việt. Sau đó, tác giả mới đi vào các giai đoạn
chiến tranh. Tác giả chia cuộc chiến thành 5 giai đoạn, chen vào đó là những
biến cố đặc biệt như vụ Mậu Thân, vụ mùa hè đỏ lửa 1972, vụ Hội nghị Paris.
Cuối cùng, là những chương kết thúc cuộc chiến, hậu quả chiến tranh và tác giả
đưa ra cái nhìn tổng quát của mình về chiến tranh. Tất cả đều có chú thích
nguồn tài liệu và nhất là có khoảng gần 50 bản đồ vị trí các trận đánh.
Hình bìa sách : http://www.baocalitoday.com/images/stories/news_pictures/04-05-13_Cali_Sat/Bia%20VSDC7.JPG
Cách trình bày mạch lạc các
chương, kèm theo bản đồ vị trí chiến trận giúp cho độc giả dễ theo dõi chiến
tranh, có một cách nhìn tổng quát xuyên suốt cuộc chiến. Đi vào từng chương,
cách sắp đặt dàn bài của tác giả luôn luôn giữ thăng bằng cân đối nên người đọc
cũng rất dễ ghi nhận.
Với nội dung trên đây, rõ ràng
Trần Gia Phụng muốn đặt lịch sử cuộc chiến Việt Nam 1960-1975 trong hoàn cảnh
chính trị toàn cầu lúc bấy giờ, nhất là trong bối cảnh chiến tranh lạnh giữa
hai khối tư bản và cộng sản. Chiến tranh lạnh trên thế giới bắt đầu từ 1946 đến
1991. Chiến tranh Việt Nam 1960-1975 lọt vào cao điểm giữa chiến tranh lạnh
toàn cầu. Trong từng chương, tác giả luôn luôn nhắc đến sự liên hệ giữa những
biến cố trong nước và trên thế giới. Nhờ vậy, sẽ giúp cho người đọc hiểu rõ
nguyên nhân, hậu quả và tương quan giữa các diễn biến chính trị và quân sự ở
Việt Nam trong tình hình quốc tế.
Tác giả cho rằng nguyên nhân
chiến tranh chính do Bắc Việt gây ra, vừa vì tham vọng của đám lãnh đạo cộng
sản hiếu chiến, vừa vì bổn phận quốc tế đối với Liên Xô và Tàu cộng. Về phía
Nam Việt, vì yếu thế phải nhờ đến Mỹ để bảo vệ tự do ở Nam Việt. Theo tác giả,
không biết Bắc Việt có được khối cộng sản uỷ nhiệm hay không, nhưng Nam Việt bị
tấn công nên phải tự vệ chứ chắc chắn không do ai uỷ nhiệm cả. Mỹ đến Việt Nam
để ngăn chận sự bành trướng của cộng sản, nhất là của Tàu cộng, nhưng theo Trần
Gia Phụng, chủ trương người Mỹ đến Việt Nam sau năm 1954 khác với người Mỹ đến
Triều Tiên năm 1950.
Khi Bắc Triều Tiên xâm lăng Nam
Triều Tiên, người Mỹ giúp Nam Triều Tiên, đuổi quân Bắc Triều Tiên chẳng những
qua vĩ tuyến 38 mà còn lên tận biên giới Tàu, để phòng thủ Nam Triều Tiên, tức
lấy tấn công làm phòng thủ. Việc Tàu cộng tràn quân vào Triều Tiên đánh người
Mỹ ám ảnh các tổng thống Mỹ. Khi Bắc Việt tấn công Nam Việt năm 1960, người Mỹ
lo ngại Tàu can thiệp, nên chỉ giúp Nam Việt phòng thủ tại chỗ, mà không tấn
công ra Bắc Việt. Không chận đứng từ nguồn gốc, mà chờ quân Bắc Việt đến đánh
phá, phòng thủ tại chỗ, rồi mới phản ứng khi bị tấn công, thì thế nào cũng có
lúc sơ hở và có nơi bị thất thế, dần dần thành viết dầu loang, rồi dân Mỹ chán
nản, bỏ cuộc, yêu cầu rút quân về nước.
Cũng theo tác giả, trước khi đem
quân qua giúp Nam Việt năm 1965, người Mỹ đã báo cho Bắc Việt biết chủ trương
nầy của Mỹ (có tài liệu chứng minh). Mỹ không đánh ra Bắc Việt mà Mỹ cũng nhiều
lần chận đứng kế hoạch quân đội Việt Nam Cộng Hòa đề nghị đánh ra Bắc Việt. Vì
vậy, Bắc Việt lợi dụng tình hình nầy, kéo hết binh đội vào tấn công Nam Việt mà
không sợ hậu cứ Bắc Việt bị tấn công. Bắc Việt chấp nhận chịu đựng Mỹ oanh tạc,
dù nặng nề cách mầy. Thế giới lên án người oanh tạc chứ thế giới đâu có lên àn
Bắc Việt tiếp liệu dài dài cho du kích cộng sản ở Nam Việt và quấy phá Nam Việt
khắp mọi nơi.
Dầu trang bị võ khí hiện đại tối
tân cách mấy đi nữa, Mỹ cùng Nam Việt tức Việt Nam Cộng Hòa không thể tiêu diệt
được khủng bố và du kích cộng sản trên chiến trường Nam Việt, nhất là trên địa
hình rừng núi Nam Việt, vì CS ẩn núp đâu đó, rồi đánh lén hết trận nầy đến trận
khác. Quân đội Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa chiến đấu anh dũng nhưng không khỏi bị
thiệt hại.
Đó là chưa kể, cũng theo tác giả
Trần Gia Phụng, Bộ Quốc phòng Mỹ còn đưa ra những “quy tắc tham chiến” (rules
of engagement), giới hạn hoạt động của Không quân Hoa Kỳ. Tác giả cho rằng
chiến tranh hiện đại dựa trên sức mạnh hỏa lực. Sức mạnh hỏa lực của Mỹ là
Không quân. Sức mạnh hỏa lực của CS là xe tăng, thiết giáp, súng ống tối tân.
Mỹ giới hạn hỏa lực Không quân nên sức mạnh quân đội Hoa Kỳ bị hạn chế rất
nhiều. Du kích CS có xe tăng Liên Xô rất mạnh, có AK rất sớm, trong khi cho đến
1968 (sau vụ Mậu Thân), quân đội Việt Nam Cộng Hòa vẫn còn xài Garant, Carbin
M1.
Tuy không thua trận nào, nhưng bị
du kích quấy phá hoài, tiêu hao dần dần, số quân Mỹ chết mỗi ngày một ít, mỗi
nơi một ít. Cộng lại các nơi, lâu ngày trên toàn Nam Việt thành cao. Dân Mỹ sốt
ruột, phản chiến nổi lên chống đối, biểu tình làm cho xã hội Mỹ rối loạn. Để
yên lòng dân Mỹ, ổn định trật tự xã hội, lấy phiếu cử tri cho nhiệm kỳ 2, đồng
thời để làm hòa với Tàu và Liên Xô, chính phủ Richard Nixon thay đổi chiến
lược, đưa ra kế hoạch Việt Nam hóa chiến tranh, giao cho quân đội Việt Nam Cộng
Hòa tự phụ trách chiến trường, nhằm rút quân Mỹ về nước. Năm 1972, Nixon mở ra
hai chuyến công du qua Tàu và qua Nga. Trong cả hai chuyến công du, Nixon tuyên
bố với các nhà lãnh đạo cộng sản Tàu và Nga rằng Mỹ sẵn sàng rút quân về nước
vô điều kiện nếu Bắc Việt chịu trao trả tù binh cho Mỹ.
Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa không
biết tin nầy, trong khi cả Tàu va Nga đều báo cho Bắc Việt biết tin nầy. Bắc
Việt biết nhu cầu của Mỹ, liền yêu sách, đòi hỏi tại hội nghị Paris. Mỹ nhượng
bộ. Thế là hiệp định Paris được ký kết, ngưng bắn da beo; Mỹ rút quân, bỏ rơi
Việt Nam Cộng Hòa, trong khi Bắc Việt vẫn lưu quân ở miền Nam, tiếp tục tấn
công Việt Nam Cộng Hòa. Trong hai năm cuối chiến tranh, trong khi Mỹ rút lui,
cắt viện trợ cho Việt Nam Cộng Hòa thì phía cộng sản, Liên Xô cũng như Tàu tăng
cường tối đa cho Bắc Việt cộng sản để tiến đánh Nam Việt.
Theo Trần Gia Phụng, dầu Mỹ rút
quân, quân đội Việt Nam Cộng Hòa vẫn một mình tiếp tục chiến đấu hữu hiệu chống
CS. Tuy nhiên, trong khi Liên Xô và Tàu tiếp tục tăng quân viện cho Bắc Việt
thì Mỹ giảm quân viện cho Nam Việt. Nam Việt thiếu hỏa lực, thiếu nhiên liệu,
quân đội Nam Việt tức Việt Nam Cộng Hòa đành phải ngưng chiến đấu. Thế là Việt
Nam Cộng Hòa sụp đổ.
Chương cuối cùng của sách nầy,
khi đề cập đến hậu quả chiến tranh, Trần Gia Phụng trình bày về các trại tù mà
cộng sản gọi là học tập cải tạo, danh sách khá dài những anh hùng tuẫn tiết sau
biến cố 30-4-1975 (tuy có thể chưa đầy đủ), về phong trào vượt biên, sự thành
lập Cộng đồng người Việt hải ngoại, sự thành lập Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt
Nam ở trong nước, và chủ trương kinh tế mới của CS...
Tóm lại, chuyện chiến tranh Việt
Nam còn quá mới mẻ, ai ai cũng biết, nhưng viết lại một cách lớp lang, có hệ
thống, đưa ra một cách nhìn mới, đặt chiến tranh Việt Nam trong chiến tranh
lạnh thế giới, với tài liệu cụ thể như Việt sử đại cương tập 7, giúp người đọc,
nhất là giới trẻ dễ theo dõi và hiểu biết rõ rang cuộc chiến, có một cách nhìn
bao quát từ đầu đến cuối, thật đáng tìm đọc. Tuy nhiên, soạn giả cho rằng ông
không phải là nhà quân sự, cũng không phải là một sĩ quan, nên khi viết về
chiến trận, sách ông có thể thiếu sót hoặc sai lạc, và xin được góp ý xây dựng
để ông hiệu đính khi tái bản.
Sách Chiến tranh Việt Nam
1960-1975 hay Việt sử đại cương tập 7 dày 516 trang, cọng với 6 quyển trước,
thì toàn bộ thông sử Việt sử đại cương gồm 7 tập lên đến khoảng 3,500 trang,
một công trình biên khảo không nhỏ và cũng không phải ai cũng làm được. Chỉ
tiếc là theo chương trình từ đầu của tác giả, tác giả ngừng nơi đây mà không
viết tiếp giai đoạn từ 1975 cho đến nay, để độc giả tiếp tục theo dõi tình hình
Việt Nam sau 1975.
Sách giá 25 Mỹ kim, đã có bán ở các hiệu sách. Thêm
chi tiết, xin liên lạc với tác giả qua e-mail: trangiaphung2011@yahoo.com \ .
Duke Nguyen
(20-3-2013)
(Trích: Nhật báo SÀIGÒN NHO, số
1416, Thứ Tư ngày 27 tháng 3, 2013.)
--------------------------------------
Nguyễn An, phóng
viên đài RFA
2008-07-13
2008-07-13
No comments:
Post a Comment