Khải Nhân (ABC Radio
Australia )
Cập nhật lúc 12 November 2012,
8:21 AEST
Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn,
chuyên gia nghiên cứu cao cấp Hội đồng Nghiên cứu Y tế và Y khoa Quốc gia
Australia, GS Đại học New South Wales, trả lời phỏng vấn đài ABC về thực trạng
giáo dục đại học ở Việt Nam.
Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn (trái) (Credit: ABC)
GS Nguyễn Văn Tuấn là một tên
tuổi quen thuộc, không chỉ với giới y khoa - lĩnh vực chuyên môn của ông - mà
cả với những người quan tâm đến thực trạng giáo dục đại học và nghiên cứu khoa
học ở Việt Nam. Liên quan đến giáo dục đại học và nghiên cứu khoa học ở Việt
Nam, ông đã viết hàng trăm bài báo đăng trên các báo, tạp chí trong nước và
xuất bản hai cuốn sách ‘Chất lượng giáo dục đại học nhìn từ góc độ hội nhập’ và
‘Đi vào nghiên cứu khoa học’.
Theo kết quả mới công bố của
viện SCImago (ở Tây Ban Nha - một tổ chức có uy tín về xếp hạng và đánh giá
khoa học), trong Báo cáo xếp hạng 3.290 trường, viện đại học, nghiên cứu thế
giới năm 2012, chỉ có 4 tổ chức của Việt Nam lọt vào danh sách được xếp nhưng ở
vị trí quá khiêm tốn. Điều này thêm một lần nữa báo động về thực trạng yếu kém
của giáo dục đại học và nghiên cứu khoa học ở Việt Nam.
Radio Australia: Thưa GS, qua
các bảng xếp hạng vừa công bố mà mới đây nhất là xếp hạng của Viện SCImago, GS
đánh giá như thế nào về chất lượng giáo dục đại học ở Việt Nam hiện nay?
GS Nguyễn Văn Tuấn: Dựa vào bất cứ tiêu chí nào và bảng xếp hạng đại
học nào, các đại học hàng đầu của Việt Nam vẫn còn ở vị trí rất khiêm tốn. Về
đầu ra của nghiên cứu khoa học, 2 đại học hàng đầu của Việt Nam (Đại học Quốc
gia TP Hồ Chí Minh và Đại học Quốc gia Hà Nội) chỉ công bố được khoảng 100 công
trình nghiên cứu mỗi năm, con số này chỉ bằng 7% của Đại học Chulalongkorn
(Thái Lan), 8% của Đại học Mahidol (Thái Lan) và 7% của Đại học Malaya
(Malaysia). Trong những bảng xếp hạng đại học toàn cầu, không có một đại học
nào của Việt Nam được đứng trong bảng ‘Top 500’ (được xem như là ‘hàng đầu’ thế
giới).
Đại học là nơi sản xuất ra tri
thức khoa học, thế nhưng các đại học của Việt Nam chưa đóng vai trò chủ đạo
này. Đó là một điều đáng quan tâm, nếu không muốn nói là báo động. Tôi nghĩ có
thể hiểu và “thông cảm” cho các đại học nhỏ hay đại học vùng còn kém về năng
suất khoa học, nhưng đối với các đại học hàng đầu mà năng suất khoa học còn quá
kém thì cần phải xem lại đầu tư và chính sách nghiên cứu khoa học.
RA: Hiện nay, việc xây dựng
đại học đạt đẳng cấp quốc tế đang được bàn tán sôi nổi. Tuy nhiên, có ý kiến cả
ở Úc lẫn Việt Nam cho rằng bảng xếp hạng các trường chưa nói lên chất lượng. Ý
kiến GS về vấn đề này?
NVT: Tôi nghĩ không có một bảng xếp hạng đại học nào
hoàn chỉnh cả, nhưng những bảng xếp hạng như thế vẫn có thể cung cấp cho chúng
ta những tín hiệu quan trọng để biết chúng ta đang ở đâu. Ở mức độ cá thể, có
thể một số đại học thay đổi vị trí tùy theo bảng xếp hạng, nhưng điều đó không
có nghĩa là các bảng xếp hạng là vô dụng, mà phản ảnh những khác biệt về tiêu
chí xếp hạng; nhưng ở mức độ nhóm thì các bảng xếp hạng này khá nhất quán.
Chẳng hạn Đại học Cambridge, Massachusetts Institute of Technology (MIT),
Harvard có thể đứng vị trí số 1 của bảng xếp hạng này, đứng vị trí 3 ở bảng xếp
hạng kia, nhưng tất cả đầu đứng trong nhóm “Top 10”.
Tôi không đồng ý với ý kiến
cho rằng các bảng xếp hạng chưa nói lên chất lượng. Tất cả những bảng xếp hạng
như Times Higher Education (THE), Quacquarelli Symonds (QS), ARWU (của Đại học Giao
thông Thượng Hải), SCImago, Leiden v.v. nghiên cứu khoa học đều là yếu tố số
một. Tất cả những bảng xếp hạng này đều xem xét đến chỉ số trích dẫn và chỉ số
phản ảnh tầm ảnh hưởng của nghiên cứu, tức là những thước đo mà cộng đồng khoa
học công nhận là phản ảnh chất lượng nghiên cứu. Các hội đồng đề bạt chức danh
khoa học đều sử dụng những chỉ số đó. Các cơ quan đánh giá khoa học của Liên
Hiệp Quốc cũng dùng những chỉ số đó. Cố nhiên, những thước đo này cũng không
hoàn hảo cho từng ngành khoa học. Nhưng trong khi chưa có những thước đo nào
khách quan hơn và tốt hơn, thì những chỉ số vừa đề cập vẫn được sử dụng để đánh
giá một khía cạnh về chất lượng nghiên cứu.
RA: Vậy theo GS., đâu là điều
kiện căn bản, đầu tiên để giáo dục đại học Việt Nam vươn lên đạt tầm quốc tế?
NVT: Đây là câu hỏi rất đắt tiền! Theo tôi, điều kiện
đầu tiên để các đại học Việt Nam vươn tầm quốc tế là nghiên cứu khoa học. Một đại học mà không có nghiên
cứu khoa học, thì đó trường dạy nghề chứ không phải là đại học. Tôi đã
bỏ thời gian phân tích những bảng xếp hạng đại học trên thế giới, và thấy rằng
yếu tố quyết định vị trí của các đại học là nghiên cứu khoa học. Chẳng hạn như
bảng xếp hạng của SCImago, nghiên cứu khoa học chiếm 60% trọng số (quan trọng
nhất) trong tất cả các yếu tố; bảng xếp hạng QS cũng cho nghiên cứu khoa học
trọng số 60%. Các đại học trên thế giới hơn thua nhau ở nghiên cứu khoa học là
chủ yếu. Đại học Mahidol và Chulalongkorn có hạng trong bảng xếp hạng đại học
toàn cầu là do họ có nhiều nghiên cứu khoa học hơn các đại học Việt Nam.
Nhưng để nghiên cứu khoa học
có chất lượng đòi hỏi phải có nhà khoa học giỏi và có kinh nghiệm cao. Do đó,
yếu tố con người rất quan trọng. Nhưng con người sẽ không làm được gì nếu không
có đầu tư tiền bạc và cơ sở vật chất. Thành ra, yếu tố tiền đóng vai trò quan
trọng thứ hai. Khoa học cơ bản là nền tảng của khoa học, nhưng ở Việt Nam,
ngành này đang gặp nhiều khó khăn vì khó thu hút sinh viên. Do đó, yếu tố thứ
ba là phải tăng cường nghiên cứu cơ bản, phải cho phép nhà khoa học hỏi những
“câu hỏi trên mây” (blue sky questions).
RA: Như vậy, phải chăng nghiên
cứu khoa học chưa được chú trọng ở các đai học Việt Nam? Đâu là nguyên nhân của
tình trạng này, theo GS?
NVT: Theo quan sát của tôi thì đúng như thế: nghiên cứu
khoa học chưa được chú trọng ở các đại học Việt Nam. Tôi nghĩ có nhiều nguyên
nhân cho tình trạng này, trong đó tôi nghĩ đến hai nguyên nhân chính: giảng dạy
quá nhiều, và thiếu động cơ.
Hiện nay, ai cũng biết rằng
các giảng viên đại học Việt Nam rất bận rộn với giảng dạy. Họ phải “chạy xô” để
một mặt tăng thu nhập, mặt khác đáp ứng nhu cầu của các đại học mới mở mà thiếu
giảng viên. Trong tình trạng như thế, giảng viên không thể có thì giờ làm
nghiên cứu khoa học được.
Kế đến là các nhà khoa học ở
Việt Nam thiếu động cơ để làm nghiên cứu. Trong các đại học và bệnh viện, giảng
viên có làm nghiên cứu hay không làm nghiên cứu cũng chẳng ảnh hưởng gì lớn đến
sự nghiệp của họ, bởi vì nghiên cứu khoa học không phải là tiêu chuẩn chính cho
đề bạt. Do đó, họ chỉ làm “nghiên cứu” cho có, để đăng trong các tập san nội
địa, và để đủ điểm cho danh hiệu “Chiến sĩ thi đua”. Động cơ làm nghiên cứu
khoa học như thế làm cho khoa học nước nhà “lùn” đi, không sánh vai được với
đồng nghiệp quốc tế.
RA: Hiện nay, một số đại học
trong nước mời GS Việt kiều về giảng dạy hay GS Việt kiều hỗ trợ các đại học
trong nước. Chẳng hạn như GS. Trần Thanh Vân đang đầu tư xây dựng Trung tâm
Quốc tế khoa học và giáo dục tại Quy Nhơn và hỗ trợ Trường Đại học Quy Nhơn.
Bản thân GS cũng tham gia nhiều hoạt động giảng dạy ở các trường đại học ở Việt
Nam. Theo GS, xu hướng này có ý nghĩa như thế nào với giáo dục đại học ở VIệt
Nam? Cần làm gì để phát huy chất xám trí thức Việt kiều với giáo dục?
NVT: Tôi thật sự ngưỡng phục những nỗ lực của GS Trần
Thanh Vân. Nhưng tôi nghĩ, “một cây làm chẳng nên non”, những nỗ lực của những
cá nhân riêng lẻ, dù xuất sắc, vẫn không đủ để vực dậy một nền khoa học vốn đã
ở trong tình trạng tụt hậu hơn 30 năm. Chúng ta cần nhiều, thậm chí rất nhiều,
GS Trần Thanh Vân.
Trong cộng đồng người Việt ở
nước ngoài có nhiều người có tài và có thể đóng góp tích cực cho khoa học nước
nhà nhưng trong thực tế thì họ chưa làm được gì đáng kể. Theo báo chí phản ảnh
thì số chuyên gia, giáo sư Việt kiều làm việc dài hạn ở Việt Nam còn rất ít (có
người nói là chỉ “đếm đầu ngón tay”). Đã có lúc báo chí thảo luận sôi nổi vấn
đề này: tại sao các chuyên gia Việt kiều ít về nước tham gia giảng dạy hay
nghiên cứu. Có hai lí do được nhắc đến nhiều trong cuộc thảo luận đó là: nhà
nước thiếu một chính sách cụ thể, và sự nghi ngờ Việt kiều.
Nhà nước Việt Nam thường hay
tuyên bố rằng các chuyên gia Việt kiều là tiềm năng quan trọng, và kêu gọi họ
về Việt Nam đóng góp. Nhưng trong thực tế thì nhà nước chỉ kêu gọi thế thôi,
chứ không có một hành động cụ thể nào. Nơi nào tiếp nhận, con em sẽ học hành ra
sao, nhà cửa, v.v. là những vấn đề rất quan trọng mà bất cứ một Việt kiều nào
quyết định bỏ sự nghiệp ở nước ngoài về Việt Nam phải cân nhắc. Ở Hàn Quốc, tôi
được biết nhà nước của họ có hẳn một chính sách cho Hàn kiều (như lương bổng,
cấp nhà cửa, lập trường học tiếng Anh cho con em họ, v.v.) nên họ mới có khả
năng thu hút hàng ngàn Hàn kiều về đóng góp cho khoa học và công nghệ. Có lẽ
Việt Nam nên học kinh nghiệm của Hàn Quốc.
Đó đây trong chính quyền, vẫn
tồn tại những nghi kị Việt kiều. Có đại biểu Quốc hội từng phát biểu rằng Việt
kiều là thành phần đáng nghi ngờ. Nếu Việt kiều quá tích cực làm gì đó cho quê
nhà, thì người ta nghi ngờ chắc có động cơ gì mờ ám đằng sau. Nếu Việt kiều quá
tiêu cực, không đóng góp gì cho quê nhà, thì người ta sẽ nói “vô cảm”. Việt
kiều ở một vị thế rất chông chênh. Do đó, các nhà khoa học Việt Nam ở nước
ngoài thường nói đùa rằng “Nhà nước nói dzậy mà không phải dzậy.” Tôi nghĩ cần
phải tháo gở cái rào cản vô hình nhưng rất quan trọng này thì mới có thể thu
hút các nhà khoa học từ nước ngoài.
RA: Xin cảm ơn GS.
No comments:
Post a Comment