Fri, 12/14/2012
- 19:27
Muammar Gaddafi, người từng nắm quyền lực
tuyệt đối suốt 42 năm tại Lybia, đã phải sống những ngày cuối cùng của đời mình
trong cảnh trốn chui trốn nhủi, ăn gạo sống và mì ống mà đám hầu cận nhặt được
từ các nhà dân bỏ hoang. Bất chấp thực tế phũ phàng đó, suốt gần hai tháng trốn
chạy khỏi thủ đô Tripoli cho đến khi phải đền tội, ông ta vẫn quyết không chịu
từ bỏ quyền lực vì một mực cho rằng người dân Libya vẫn còn yêu quý mình lắm. Kết cục là ông ta bị đám chiến binh cuồng nộ hạ sát
trong một cảnh tượng hỗn loạn, đầy bạo lực và khủng khiếp ngày 20/10/2011, rồi
bị trưng bày trong kho lạnh của một cửa hàng thịt ở Misrata như “chiến lợi
phẩm” cho đông đảo dân chúng “chiêm ngưỡng”.
Thời kỳ ở đỉnh cao quyền lực, Gadhafi thậm
chí còn tự phong cho mình những “danh hiệu” vô tiền khoáng hậu như “Nhà
lãnh đạo anh em”, “Người dẫn đường của cách mạng”, “Người bảo vệ hơn 6 triệu
dân Libya”, "Vua của các vị vua châu Phi" hay "Lãnh tụ của Thế
giới Hồi giáo", v.v.
Cựu tổng thống Libya Gaddafi không phải là
trường hợp cá biệt mà là một hiện tượng phổ biến trong thế giới độc tài: chứng
hoang tưởng của những kẻ vốn quen với việc nắm giữ quyền lực chuyên chế và độc
đoán.
Trước khi buộc phải dùng súng để tự kết
liễu đời mình vào ngày 30/4/1945, Hitler từng nuôi tham vọng xây dựng một Đệ tam Quốc xã kéo dài tới 1.000 năm như Đế chế La Mã Thần thánh, thực thể mà ông ta gọi là Đệ nhất Quốc xã (Đệ nhị Quốc
xã là Đế chế Đức do Bismarck tạo dựng). Viễn cảnh của ông ta là một đế
chế thống nhất của các quốc gia Giéc-manh trên toàn Châu Âu, trong đó các dân
tộc khác nhau sẽ gia nhập một chính thể thuần chủng dưới sự lãnh đạo của người
Đức.
Các lãnh tụ cộng sản trên thế giới như
Lenin, Stalin hay Mao Trạch Đông vẫn mơ tưởng về một “thế giới đại đồng” thông
qua một cuộc “cách mạng thế giới” do giai cấp vô sản tiến hành dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản.
Mao Trạch Đông, nhà độc tài của Trung Hoa
cộng sản từ năm 1949 cho đến khi lìa trần năm 1976, từng quả quyết trong một cuộc họp Bộ Chính trị Đảng CSTQ tháng 8/1965: "Chúng ta phải giành cho được Đông Nam
Á, bao gồm cả miền Nam Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, Malaysia và Singapore...
Một vùng như Đông Nam Á rất giàu, ở đấy có nhiều khoáng sản... xứng đáng với sự
tốn kém cần thiết để chiếm lấy... Sau khi giành được Đông Nam Á, chúng
ta có thể tăng cường được sức mạnh của chúng ta ở vùng này, lúc đó chúng ta sẽ
có sức mạnh đương đầu với khối Liên Xô - Đông Âu, gió Đông sẽ thổi bạt gió
Tây".
Trong một dịp khác, “Người cầm lái vĩ đại”
của Đảng CS Trung Quốc thậm chí còn khẳng định: “Chúng ta phải chinh phục toàn cầu để từ đó xây dựng
nên một quốc gia hùng mạnh” và “Các quốc gia và vùng đất gồm Myanmar, Lào, Bắc
Ấn Độ, Việt Nam, Nepal, Bhuttan, Thái Lan, Malaysia, Singapore, các hòn đảo
Ryukyu, 300 hòn đảo trên Biển Đông, biển Hoa Đông, biển Hoàng Hải cùng với
Kyrgyzstan, Mông Cổ, Đài Loan, Nam Kazakhstan, tỉnh Bahdashan và Transbaikalia
của Afghanistan và vùng Viễn Đông cho tới Nam Okhotsk, Nga... lẽ ra là của
Trung Quốc nếu triều đại nhà Thanh không sụp đổ”.
Về đối nội, Mao Trạch Đông là cha đẻ của
chính sách “Đại Nhảy Vọt” giai đoạn 1958-1960, đồng thời là người phát động cuộc “Cách mạng Văn hoá” giai đoạn 1966-1976, những tấn thảm kịch đã gây ra cái
chết cho hàng chục triệu người dân Trung Quốc.
Ở Việt Nam, Tổng Bí thư Lê Duẩn, người vẫn
được ca tụng bằng những mỹ từ như “người hai trăm ngọn nến”, “nhà lãnh đạo lỗi
lạc”, hay “một tư duy sáng tạo lớn”, v.v., lại chính là “tác giả” của những “tư
tưởng lớn” như “ba dòng thác cách mạng”, “làm chủ tập thể” hay ý tưởng xây dựng
cấp huyện thành những “pháo đài kinh tế” trên toàn quốc. Tổng Bí thư Nguyễn Văn
Linh, người kế nhiệm ông, thì có câu nói xứng đáng được khắc vào bia đá để đời đời nhắc nhở hậu
thế: “Dù bành trướng thế nào thì Trung Quốc cũng vẫn là một nước xã hội chủ
nghĩa”!!!
Trong chuyến thăm Cuba hồi tháng 4/2012,
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài thuyết giảng “nổi tiếng” về chủ nghĩa xã hội tại Trường Đảng Cao cấp
Nico Lopez, với những lời khẳng định đanh thép như "Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa
chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với
xu thế phát triển của lịch sử" hay “Những
thành tựu đổi mới tại Việt Nam đã chứng minh rằng, phát triển theo định hướng
xã hội chủ nghĩa không những có hiệu quả tích cực về kinh tế mà còn giải quyết
được các vấn đề xã hội tốt hơn nhiều so với các nước tư bản chủ nghĩa có cùng
mức phát triển kinh tế”, v.v.
Hoang tưởng là một chứng bệnh tâm thần rất
khó cứu chữa. Nếu ai đó vẫn còn hoài nghi về điều này thì hãy xem bài viết mới đây trên báo Quân Đội Nhân Dân của GS.TS Nguyễn Đức
Bình, người tiền nhiệm của GS.TS Nguyễn Phú Trọng trong Hội đồng Lý luận Trung
ương nhưng đã rời khỏi Bộ Chính trị – “vị Vua tập thể” của “thời đại Hồ Chí Minh” – từ hơn 10 năm trước :
… "Chuyển đổi" (Việt Nam) sang
con đường tư bản chủ nghĩa chăng? Đã có "kiến nghị" như thế. Tuy
nhiên, nhân dân không thể đồng tình…
… Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh từ năm 1930 đến nay và mãi từ nay về sau là chủ thuyết cách
mạng nhất quán của Việt Nam, dứt khoát không thay đổi và không ai có thể thay
đổi. Chủ thuyết này đã đưa cách mạng Việt Nam hơn 80 năm qua đi từ thắng lợi
lịch sử này đến thắng lợi lịch sử khác...
Ở nước ta không có đất cho chủ nghĩa tư bản
thống trị như một chế độ xã hội, không có đất cho một chủ thuyết chính trị nào
khác khả dĩ được nhân dân chấp nhận, ngoài độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản với ngọn cờ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh. Khách quan lịch sử mà nói, một chủ thuyết chính trị khác, chẳng
hạn chủ nghĩa xã hội dân chủ ai đó đang mơ tưởng, đối lập với độc lập dân tộc
và chủ nghĩa xã hội, dù có tô vẽ ngụy trang thế nào đi nữa thì rốt cuộc thực
chất không thể gì khác là một đường lối đưa dân tộc trở lại số phận nô lệ hay
phụ thuộc vào các thế lực đế quốc thực dân bên ngoài…
Lord Acton, tác gia kiêm chính trị gia
người Anh thế kỷ 19, từng để lại cho đời câu châm ngôn bất hủ: “Quyền lực dẫn
tới tha hoá, quyền lực tuyệt đối thì tha hoá tuyệt đối”. Sau những gì đã diễn
ra trong thế kỷ 20 cũng như đầu thế kỷ 21 này, đặc biệt là “dấu ấn” đậm nét của
các lãnh tụ cộng sản “lỗi lạc”, nhân loại có lẽ đã “ngộ” thêm một “chân lý” nữa
về quyền lực, đó là: “Quyền lực dẫn tới hoang tưởng, quyền lực tuyệt đối thì
hoang tưởng tuyệt đối”./.
Lê Anh Hùng
Hà Nội, 12/11/2012
No comments:
Post a Comment