Lê Quang Việt
17-12-2012
Luật
Của Sự Thật xin gửi đến quý bạn một bài phân tích
mới của Lê Quang Việt về quyền con người trong các giai đoạn điều tra, truy tố
và xét xử theo Luật hình sự quốc tế để chúng ta có thể hiểu rõ hơn, nhất là
trong thời gian gần đây với nhiều trường hợp bắt giam và các phiên tòa truy tố.
*
*
Luật hình sự quốc tế quy định các quy
tắc và tiêu chuẩn về bảo vệ quyền con người trong các giai đoạn điều tra, truy
tố và xét xử. Các quyền con người của người bị điều
tra, truy tố và xét xử được tôn trọng và bảo đảm bằng các quy định của luật
pháp quốc tế trong Hiến chương Liên Hợp quốc và các công ước quốc tế. Có thể kể
đến các quyền này liên quan trực tiếp trong giai đoạn điều tra, truy tố và xét
xử dưới đây.
Quyền bình đẳng trước
pháp luật và được pháp luật bảo vệ bình đẳng là quyền trước tiên được bảo vệ. Quyền
này là tiền đề cho việc bảo đảm các quyền con người trong mọi điều kiện, hoàn
cảnh, nhưng đặc biệt có ý nghĩa rất lớn trong việc tôn trọng và bảo đảm các
quyền con người trong các giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử... [1]. Mọi
người cũng đều có quyền sống, quyền tự do và an toàn cá nhân. Điều 9 Công
ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 (ICCPR) quy định, mọi
người đều có quyền hưởng tự do và an toàn cá nhân. Quyền này biểu hiện cụ thể ở
việc không ai bị bắt hoặc bị giam giữ vô cớ, việc tước tự do của một người phải
có lý do và theo đúng những thủ tục luật pháp.
Quyền không bị tra
tấn, đối xử hay trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo hay bị hạ nhục cũng là một quyền con người quan trọng
được Luật hình sự quốc tế bảo vệ. Hội nghị thế giới về quyền con người đã nhấn
mạnh rằng: một trong những vi phạm nhân phẩm con người, vi phạm quyền con người
thô bạo nhất là hành động tra tấn. Hành động này phá hoại nhân phẩm và làm tổn
thương khả năng tiếp tục sống và hoạt động của các nạn nhân. Theo đó, quyền này
được quy định trong Điều 7 ICCPR. Đặc biệt, không ai có thể bị sử dụng để làm
thí nghiệm y học hoặc khoa học mà không có sự đồng ý tự nguyện của người đó.
Mặc dù vậy, để hiểu được quyền này, ở đây cần liên hệ với khái niệm “tra tấn”
được quy định trong Công ước về chống tra tấn, đối xử hay trừng phạt tàn ác, vô
nhân đạo hay bị hạ nhục con người (CAT) được thông qua ngày 1/12/1984 và có
hiệu lực từ ngày 26/6/1987 (ngày 26/6 đã được công nhận là ngày Quốc tế hỗ trợ
nạn nhân bị tra tấn). Theo Ủy ban giám sát thực hiện Công ước của Liên Hợp
quốc, tương tự như quyền sống, quyền không bị tra tấn, đối xử hay trừng phạt
tàn ác, vô nhân đạo hay bị hạ nhục con người cũng không thể bị vi phạm trong
bất cứ hoàn cảnh nào, kể cả trong tình trạng khẩn cấp của quốc gia. Do đó,
các quốc gia trong phạm vi của mình có nghĩa vụ thực hiện tất cả các biện pháp
về lập pháp, hành chính và tư pháp để bảo vệ công dân khỏi bị tra tấn, đối xử
hay trừng phạt tàn ác, vô nhân đạo hay bị hạ nhục xuất phát từ bất kỳ chủ thể
nào, cho dù là Nhà nước, một quan chức nhà nước hay một người khác có quyền lực
như một quan chức. Điều 11 ICCPR cũng quy định, không ai bị bỏ tù chỉ vì lý do
không có khả năng hoàn thành nghĩa vụ theo hợp đồng. Quy định này trên thực tế
là sự bổ sung cho quyền tự do và an toàn cá nhân.
Quyền được suy đoán
vô tội là
một quyền quan trọng trong luật pháp quốc gia và quốc tế. Quyền được coi là vô
tội đến khi tội phạm được chứng minh theo pháp luật là một trong những nguyên
tắc quan trọng trong hoạt động tố tụng kể từ giai đoạn khởi tố bị can đến suốt
quá trình xét xử của Tòa án và bản án có hiệu lực pháp luật. Khoản 2 Điều 14
ICCPR quy định: “Người bị buộc là phạm một tội hình sự có quyền được coi là
vô tội cho tới khi tội của người đó được chứng minh theo pháp luật”.
Bên
cạnh đó, quyền được thông báo lời buộc
tội không chậm trễ, được sử dụng và hỗ trợ sử dụng ngôn ngữ thích hợp trong
tố tụng và những người bị buộc tội phải: “Được thông báo không chậm trễ và
chi tiết bằng một ngôn ngữ mà người đó hiểu về bản chất và lý do buộc tội mình”. Bị cáo có quyền có phiên dịch miễn phí nếu không hiểu hoặc
không nói được ngôn ngữ sử dụng trong phiên tòa. Bất kỳ ai bị bắt giữ đều phải
được thông báo ngay khi bị bắt về lý do của việc bắt giữ, và phải được thông
báo ngay bất kỳ những lời buộc tội nào đối với người đó. Theo đó, quyền được
thông báo về lời buộc tội bằng một ngôn ngữ thích hợp đặt ra nghĩa vụ cho các
cơ quan tiến hành tố tụng phải cung cấp cho những người bị buộc tội người phiên
dịch, trong trường hợp họ không hiểu được đầy đủ hoặc không nói được ngôn ngữ
mà các cơ quan tiến hành tố tụng sử dụng. Quyền này đặc biệt có ý nghĩa với
người nước ngoài hoặc người thuộc các dân tộc thiểu số. Việc được thông báo
không chậm trễ về lý do buộc tội và được sử dụng, hỗ trợ sử dụng ngôn ngữ của
cộng đồng mình trong tố tụng là những điều kiện quan trọng để bảo đảm quyền bào
chữa của bị can, bị cáo và người bị bắt giữ. Theo Ủy ban giám sát ICCPR, quyền
này phải được “áp dụng với tất cả các trường hợp bị buộc tội hình sự, bao
gồm cả những người không bị giam giữ”. Ủy ban này cũng cho rằng, thuật ngữ
“ngay lập tức” đòi hỏi lời buộc tội phải được cơ quan tiến hành tố tụng
đưa ra càng sớm càng tốt, kèm theo những mô tả về quyết định đó, dưới hình thức
nói hoặc văn bản. Liên tiếp để cụ thể hóa quyền này, trong Luật hình sự quốc tế
còn thể hiện nhiều quyền khác như: Quyền được bào chữa và trợ giúp pháp lý
ngay khi bị bắt hoặc bị giam giữ để bảo vệ sự toàn vẹn về thể chất và tinh thần
của người bị tước tự do. Điểm a khoản 3 Điều 14 ICCPR quy định rằng, một
người bị cáo buộc phạm tội phải được có thời gian thích đáng và điều kiện thuận
lợi để chuẩn bị bào chữa và liên hệ với người bào chữa do chính mình lựa chọn.
Hay quyền không bị
buộc phải chứng minh chống lại chính mình
(điểm g khoản 3 Điều 14 ICCPR), quyền được xét xử công bằng và công khai bởi
một Tòa án có thẩm quyền, độc lập và không thiên vị, được lập ra theo pháp
luật. Về quyền này, khoản 1 Điều 14 ICCPR quy định: Mọi người đều có quyền được
xét xử công bằng và công khai bởi một Tòa án có thẩm quyền, độc lập, không
thiên vị và được lập ra trên cơ sở pháp luật để quyết định về lời buộc tội
người đó trong các vụ án hình sự, hoặc để xác định quyền và nghĩa vụ của người
đó trong các vụ kiện dân sự. Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ
quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng
minh là mình vô tội. Báo chí và công chúng có thể không được phép tham dự toàn
bộ hoặc một phần của phiên tòa vì lý do đạo đức. Không được dùng lời nhận tội
của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để kết tội. Mọi phán quyết trong vụ án
hình sự hoặc vụ kiện dân sự phải được tuyên công khai, trừ trường hợp vì lợi
ích của người chưa thành niên hay vụ việc liên quan đến những tranh chấp hôn
nhân hoặc quyền giám hộ trẻ em.
Cấm áp dụng hồi tố cũng là một nguyên tắc quan trọng trong tố tụng hình sự và
đã được khẳng định trong pháp luật quốc tế cũng như pháp luật của hầu hết các
quốc gia trên thế giới. Theo Điều 15 ICCPR, không ai bị coi là phạm tội vì một
hành động hoặc không hành động mà không cấu thành tội phạm theo pháp luật quốc
gia hoặc pháp luật quốc tế tại thời điểm thực hiện hành vi đó. Ngoài ra, cũng
theo Điều 15 ICCPR, nếu sau khi xảy ra hành vi phạm tội mà luật pháp quy định
hình phạt nhẹ hơn với hành vi đó, thì người phạm tội được hưởng mức hình phạt
nhẹ hơn; v.v...
Như vậy, những quyền này được Luật hình sự quốc tế ghi nhận
chính là cơ sở để các quốc gia, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền phải tôn trọng
và chấp hành nghiêm chỉnh, qua đó bảo đảm quyền con người của người bị truy tố,
điều tra, xét xử và thi hành án.
Hà Nội, ngày 16 tháng 12 năm 2012
Lê Quang Việt
Lê Quang Việt
- - -
[1] Hiến chương Liên Hợp quốc năm 1945
đã khẳng định: “Mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng về nhân phẩm
và các quyền. Mọi người đều được tạo hóa ban cho lý trí và lương tâm, và cần
phải đối xử với nhau bằng tình anh em” (Điều 1) và “Mọi người đều có
quyền được công nhận tư cách là con người trước pháp luật ở mọi nơi” (Điều
6).
No comments:
Post a Comment