Fri, 12/07/2012 - 21:04 — VietTuSaiGon
Trong thời đại Cộng sản, ở Việt Nam, khái niệm Nhân Dân
có vẻ như lúc nào cũng được viết hoa, cũng được vinh danh: Báo Nhân Dân, Nghệ
sĩ Nhân dân, Giáo viên Nhân Dân, Nhà giáo Nhân Dân, Bác sĩ Nhân Dân, Thầy thuốc
Nhân Dân, Cán bộ Nhân Dân… Kính thưa các loại Nhân Dân! Thế nhưng, cái khái
niệm tưởng chừng được đặt lên hàng đầu này lại bị méo mó, hay nói khác đi là bị
lợi dụng, bán rẻ và chịu nhiều thiệt thòi nhất, sự thiệt thòi không nằm ở vị
thế, đối tượng gắn với nó mà nằm ngay nội hàm hai chữ Nhân Dân. Có thể nói rằng
chưa bao giờ Nhân Dân lại đau khổ và mất đường sống như bây giờ!
Nhìn ra Biển Đông, một màu xám xịt, chẳng có chỗ nào là
bình an cho Nhân Dân (ở đây được hiểu là ngư dân, vì đại bộ phận dân lao động
Việt Nam đều nằm gọn trong hai chữ Nhân Dân to tướng này!), sắp tới, nguy cơ bị
bắt một cách “hợp pháp” trên Biển Đông lại tăng thêm nỗi thống khổ cho bộ phận
Nhân Dân này.
Nhìn lại những đầy tớ nhân dân và những ngôi mộ của đầy
tớ nhân dân như Hồ Chí Minh chẳng hạn, ông ta thuộc vào loại đầy tớ số một của
nhân dân, lăng của ông rộng vài chục ngàn mét vuông giữa thủ đô Hà Nội, nơi giá
đất đắt hơn vàng, đó là chưa kể đến khu bảo tàng nằm gần lăng của ông ta, rộng
cũng vài ngàn mét vuông, trong đó “bảo tàng” những gì? Vài cái bát bằng kim
loại, nói là do đồng bào dân tộc thiểu số tặng, vài bộ áo quần kaki, vài cái
giường, vài đôi dép… Nói chung, toàn là những thứ mà nhân dân ngửi vào là ăn
mất ngon. Cái lăng và cái bảo tàng lại che lấp mất chùa Một Cột, biến ngôi chùa
cổ kính, mang dáng vẻ huyền sử và đã đi vào lịch sử dân tộc trở thành một cây
tầm gửi nhỏ nhoi giữa khu vực lăng rộng mênh mông và xa xỉ này!
Chỉ riêng bà bán cửa hàng hoa ngay trước cổng lăng cho
biết thu nhập không thôi cũng đủ phát sốt: “Mỗi ngày tôi bán từ năm triệu đồng
đến bảy triệu đồng tiền hoa, phần lớn là các đoàn cán bộ khắp các tỉnh thành
đến thăm, ngày nào cũng có hai, ba đoàn. Thăm lăng Bác vốn là niềm tự hào của
đảng viên mà! Trung bình tôi kiếm lãi từ ba đến bốn triệu đồng mỗi ngày từ tiền
hoa”. Chỉ mới hoa thôi, chưa kể đến chi phí chăm sóc, bảo vệ cái xác của ông
“đầy tớ số một” này, rồi tiền nuôi đội cảnh vệ gồm ba đại đội luân phiên canh
gác, chi phí mỗi ngày, theo một cán bộ bảo tàng Hồ Chí Minh cho biết là trên
một tỉ đồng. Vị chi mỗi năm ba trăm sáu mươi lăm tỉ đồng. Một con số không hề
nhỏ tí nào!
Con số này càng trở nên lớn một cách khủng khiếp đối với
những ngư dân đang mất dần phần biển đánh bắt trên Biển Đông. Vì sao lại nói
thế? Khoản nào ra khoản đó, nhà nước nào, chính phủ nào cũng có những khoản
ngân sách riêng biệt cho từng mục tiêu khác nhau, so sánh như vậy hóa ra nhập
nhằng và đánh đồng? Nhưng, trong vấn đề này, nếu như ngân sách Việt Nam đủ
giàu, đủ để chi các khoản phúc lợi xã hợi, hỗ trợ kinh tế cho người dân một
Cách sòng phẵng thì những khoản trên đây hoàn toàn không đáng kể. Nhưng đất
nước đang trong nạn tham nhũng phì đại, kẻ ngoại xâm rình rập ngày đêm, nhân
dân còn đói khổ và phải đối đầu với nhiều tai ách. Điều này bắt buộc mọi khoản
chi tiêu đều phải căn cứ trên nền tài chính quốc gia để cân đối và dựa vào lương
tri nhà nước để điều tiết. Nhưng, dường như không có tố chất và động thái này
trong nhà nước Cộng sản Việt Nam, và trên hết, cái chủ nghĩa xây dựng thần
tượng, mị dân bằng thần tượng để biến một con người bình thường, nếu không nói
là đầy rẫy tội lỗi trở thành một bồ tát, trở thành bình phong chế độ đã khiến
cho rất nhiều tiền của, xương máu tích cóp thành đồng thuế, rồi thành ngân sách
quốc gia đổ lên cái xác vô nghĩa của ông Hồ Chí Minh một cách không thương tiếc
(Nhân Dân)!
Chỉ cần đặt một ví dụ nhỏ, nếu mỗi năm ba trăm sáu mươi
lăm tỉ đồng này dành cho ngành hải quân, biển đảo, tăng cường cơ số lính, nâng
cấp vũ khí, đầu tư cho ngư dân trang bị vũ khí phòng vệ… Thì đâu đến nỗi quân
đội Việt Nam, hải quân Việt Nam được xem là loại quân đội lạc hậu nhất trên
Biển Đông và ngư dân Việt Nam bị xem là loại nhược tiểu, sợ chết, dễ bỏ chạy,
thuyền bè lạc hậu thuộc bậc nhất khu vực như hiện nay. Như đã nói trên, khoản
nào ra khoản đó. Nhưng với tương quan một bên đổ tiền bạc tỉ để bảo vệ, chăm
sóc một cái xác hoàn toàn vô nghĩa, một bên là những con người đang ngày đêm
chong mắt bảo vệ tổ quốc, biển đảo nhưng lại lạc hậu, thiếu tốn, thậm chí ăn
mắm mút dòi thì chẳng còn gì để vô lý hơn. Vì khi giặc Tàu sang đến Hà Nội,
chắc chắn cái lăng ông Hồ không thể xua được bất kì một thằng lính Tàu nào. Và
khi giặc Tàu lộng hành trên Biển Đông, cái lăng ông Hồ cũng chỉ là khối đá vô
tri, vô giác và… vô duyên!
Đó là chuyện một bộ phận Nhân Dân gọi là ngư dân, quân
nhân giữ đảo và cái lăng ông Hồ Chí Minh, chuyện trên biển và trên thủ đô. Cũng
chuyện thủ đô, nhưng với đất liền thì càng tội lỗi hơn nhiều, đi dọc theo dãy
Trường Sơn, nhìn những dòng sông kẽ răng lược chảy dọc về Biển Đông, trừ những
con sông quá nhỏ, còn lại, dường như sông nào cũng có vài ba công trình thủy
điện lớn, nhỏ củng cái túi nước khổng lồ của nó. Nhìn ra xa một chút, Nhân Dân
nằm, ngồi la liệt dưới những cái túi nước này trông chẳng khác nào đàn kiến nằm
nhỏ nhoi dưới cái máng xối bị kẹt.
Những công trình thủy điện này do ai xây? Xây như thế
nào? Hơn 80% nhà thầu xây dựng và công nhân thực hiện các công trình thủy điện
này là Trung Quốc, và như thế, cũng đồng nghĩa với hơn 80% tiền bạc trong giai
đoạn đầu tư, xây dựng các công trình thủy điện sẽ chảy về Trung Quốc. Trong khi
đó, thanh niên Việt Nam thất nghiệp đầy rẫy, sinh viên tốt nghiệp đại học phải
đi làm mướn, làm trái chuyên môn, thậm chí phải đi rửa chén cho nhà hàng, bưng
thức ăn, bưng cà phê. Đại bộ phận thanh niên trong tuổi lao động không có việc
làm, không có tương lai. Trong số này, một ít khoắn tiền (có cả tiền đền bù đất
đai) của cha mẹ, ăn chơi sa đọa, trác táng, dẫn đến hút chích, trộm cướp, giết
người… Điều này vô hình trung ám gợi đến câu hỏi: Xây như thế nào? Thứ nhất, để
có được hợp đồng xây dựng các công trình, nhà thầu phải đi đêm, lót túi cho cán
bộ nhà nước từ cấp tỉnh tới cấp trung ương, tùy thuộc vào tầm vóc công trình mà
nhét túi, và, trong thứ văn hóa lót túi này, nhà thầu Trung Quốc có vẻ thắng
thế mọi nhà thầu các quốc gia tiến bộ. Phần khác, chính sự chỉ đạo từ trung
ương xuống, chính mối quan hệ “bốn tốt, mười sáu chữ vàng” giữa chính quyền
Cộng sản Việt Nam (mà trên một nghĩa nào đó là chính quyền chư hầu Cộng sản
Trung Quốc tại Việt Nam) với chính quyền Cộng sản Trung Quốc đã dẫn đến một thứ
trung ương khác ở phương Bắc điều khiển trung ương nhỏ phương Nam để chỉ đạo,
tạo điều kiện cho nhà thầu phương Bắc Trúng thầu.
Hệ quả của việc này là hàng loạt thủy điện xuống cấp mau
chóng, trở thành tai họa treo trên đầu Nhân Dân. Thân phận Nhân Dân còn nhỏ hơn
con sâu, cái kiến. Trong chuyện này, kẻ được lợi nhất vẫn là nhà nước Cộng sản
Trung Quốc và nhà nước Cộng sản Việt Nam. Và độc đáo nhất là cả hai nhà nước
này đều có chung luận điệu rằng họ chỉ là “đày tớ của nhân dân”! Gần đây, thêm
công trình điện hạt nhân Ninh Thuận, nguy cơ và hậu quả của công trình này là
có thể xóa trắng cộng đồng người Chăm còn sót lại trên lãnh thổ của ông bà họ
để lại. Và trong công trình này, chưa chắc đã không có mặt nhà thầu Trung
Quốc?!
Trên một đất nước
mà đại bộ phận Nhân Dân còn nghèo khổ, thiếu thốn mọi bề, nhưng nhìn ra biển,
thấy Trung Quốc, nhìn lên núi, thấy Trung Quốc, nhìn qua đồng bằng, thấy Trung
Quốc, nhìn lên tivi, thấy Trung Quốc, nhìn đâu cũng thấy Trung Quốc và Trung
Quốc có thể đánh đập, bắt nạt, dày xéo, hành hạ Nhân Dân bất kì giờ nào. Nhưng nhà nước thì vẫn bắt tay, nói cười,
hữu hảo với Trung Quốc, thậm chí làm tôi đòi cho nhà nước Trung Quốc. Vậy thì
còn chỗ nào cho Nhân Dân dung thân?
No comments:
Post a Comment