Phạm Toàn
8-12-2012
Internet
từng giây từng phút giải phóng loài người. Những năm trước đây, ở các xứ sở
“dân chủ gấp vạn lần” cũng không thể in thậm chí mơ tới việc in loại sách như
của Huy Đức.
Ở
Nga Xô xưa, những tác giả như Huy Đức đã chọn được cách tổ chức samizdat. Nghĩa
là “Tự xuất bản”. Loại sách chui đó cùng với bất kỳ sách nào người ta muốn cấm
thì cứ việc cấm, nằm trong quy định bất thành văn: đọc chúng là có tội.
Chính
tôi đây, khi đọc Norman Mailer, đọc cuốn tiểu thuyết chống chiến tranh VN rất
quậy và rất nghiêm túc Why
Are We in Vietnam? thì bị một ông hàng xóm nhìn thấy, và tôi bị ông
báo cáo cấp nào đó rằng tôi đọc lời thanh minh của Mỹ giải thích vì sao Mỹ đánh
Việt Nam (!).
Bây
giờ thì chẳng sợ gì nữa, chỉ cần viết hay. Không lo xuất bản. In sách giấy ở VN
một lần giỏi lắm là 5.000 (năm ngàn) bản. Nguyễn Ngọc Tư mới đạt kỷ lục đó. Mà
đâu đã có đủ 5 ngàn người mua hết trong một lúc? Lại còn phải chờ nhà xuất bản
thấy có lợi nhuận thì họ mời nối bản in tiếp. Đó là chuyện có thật.
Trong
khi đó, chỉ cần “văng lên mạng” dưới định dạng EBook thì sau một tuần cứ gọi là
mê man bạn đọc, có cả nửa triệu người đọc là cái chắc.
Tôi
nhớ lại hôm đưa tang anh Đặng Phong, tôi gặp Huy Đức, và hỏi anh “dạo này chú
mình kín tiếng thế?”. Huy Đức nói “Em đang viết một cuốn sách. Hai năm thì
xong. Một cuốn sách đáng để em nghỉ viết blog Osin”. Ngay khi đó, tôi đã thấy
một cách làm việc đáng ngưỡng mộ của kiểu người viết có TÀI, có CHÍ, và có MƯU
nữa. Mưu đây là trí khôn, chứ không phải láu cá.
Tôi
sẽ là người load sách của Huy Đức xuống và in ra và đóng đẹp và đọc và mỉm cười
và giận dữ và buồn phiền…
Tôi
không dám hứa với Huy Đức là sẽ không có lúc rớm nước mắt xót thương cho nhiều
thân phận, biết bao nhiêu thân phận, quá nhiều thân phận, đã bị đau khổ mà
không cất được tiếng kêu.
Huy
Đức chắc là người đã KÊU TO LÊN hộ cuộc sống đau buồn này. Và dặn dò người đời:
hãy đau buồn hết mức đi, và sẽ làm việc thanh thản tùy sức mình, tùy chí mình,
tùy mưu của mình, cho một tương lai chắc chắn là tốt đẹp.
-----------------------
SÁCH:
BÊN THẮNG CUỘC – VÌ SAO TÔI VIẾT?
Huy
Đức
06-12-2012
Không
ai có thể đi đến tương lai một cách vững chắc nếu không hiểu trung thực về quá
khứ, nhất là một quá khứ mà chúng ta can dự và có phần cộng đồng trách nhiệm.
Cuốn
sách này bắt đầu bằng những câu chuyện xảy ra trong ngày 30-4-1975. Ngày mà
tôi, một cậu bé mười ba, trước giờ học chiều, đang vật nhau ven đồi thì nghe
loa phóng thanh truyền tin “Sài Gòn giải phóng”. Thay vì tiếp tục ăn thua,
chúng tôi buông nhau ra.
Miền
Nam, theo như những bài học của chúng tôi, sẽ chấm dứt “20 năm rên xiết lầm
than”. Trong cái thời khắc lịch sử ấy, trong đầu tôi, một sản phẩm của nền giáo
dục xã hội chủ nghĩa, xuất hiện ý nghĩ: Phải nhanh chóng vào Nam để giáo dục các
bạn thiếu niên lầm đường lạc lối.
Nhưng
hình ảnh miền Nam đến với tôi trước cả khi tôi có cơ hội rời làng quê nghèo đói
của mình. Trên quốc lộ Một bắt đầu xuất hiện những chiếc xe khách hiệu Phi Long
thỉnh thoảng tấp lại bên những làng xóm xác xơ. Một anh chàng tóc ngang vai,
quần loe, nhảy xuống đỡ khách rồi đu ngoài cánh cửa gần như chỉ trong một giây
trước khi chiếc xe rú ga vọt đi. Hàng chục năm sau, tôi vẫn nhớ hai chữ “chạy
suốt” bay bướm, sặc sỡ sơn hai bên thành xe. Cho tới lúc ấy thứ tiếng Việt khổ
lớn mà chúng tôi nhìn thấy chỉ là những chữ in hoa cứng rắn viết trên những
băng khẩu hiệu kêu gọi xây dựng chủ nghĩa xã hội và đánh Mỹ.
Những
gì được đưa ra từ những chiếc xe đò Phi Long thoạt đầu thật giản đơn: Mấy chiếc
xe đạp bóng lộn xếp trên nóc xe; cặp nhẫn vàng chóe trên ngón tay một người
làng tập kết vừa về Nam thăm quê ra; con búp bê nhựa – biết nhắm mắt khi nằm
ngửa và có thể khóc oe oe – buộc trên ba lô của một anh bộ đội phục viên may
mắn.
Những
cuốn sách của Mai Thảo, Duyên Anh… được các anh bộ đội giấu dưới đáy ba lô đã
giúp bọn trẻ chúng tôi biết một thế giới văn chương gần gũi hơn Rừng Thẳm Tuyết
Dày[1], Thép Đã Tôi Thế Đấy[2]… Những chiếc máy Akai, radio cassettes, được
những người hàng xóm tập kết mang ra, giúp chúng tôi biết những người lính xa
nhà, đêm tiền đồn còn nhớ mẹ, nhớ em, chứ không chỉ có “đêm Trường Sơn nhớ
Bác”. Có một miền Nam không giống như miền Nam trong sách giáo khoa của chúng
tôi.
Tôi
vẫn ở lại miền Bắc, chứng kiến thanh niên quê tôi đắp đập, đào kênh trong những
năm “cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”. Chứng
kiến khát vọng “thay trời, đổi đất sắp đặt lại giang san” của những người vừa
chiến thắng trong cuộc chiến ở miền Nam… Chứng kiến cũng những con kênh đó
không những vô dụng với chủ nghĩa xã hội mà còn gây úng lụt quê tôi mỗi mùa mưa
tới.
Năm
1983, tôi có một năm huấn luyện ở Sài Gòn trước khi được đưa tới Campuchia làm
chuyên gia quân sự. Trong một năm ấy, hai cô em gái của Trần Ngọc Phong[3], một
người bạn học chung ở trường sỹ quan, hàng tuần mang tới cho tôi bốn, năm cuốn
sách. Tôi bắt đầu biết đến rạp chiếu bóng, Nhạc viện và sân khấu ca nhạc. Cho
dù, đã kiệt quệ sau 8 năm “giải phóng”, Sài Gòn với tôi vẫn là một “nền văn
minh”. Những năm ấy, góc phố nào cũng có mấy bác xích lô, vừa mỏi mòn đợi khách
vừa kín đáo đọc sách. Nhiều người trong số họ mới ở trong các trại cải tạo trở
về. Tôi bắt đầu tìm hiểu Sài Gòn từ câu chuyện của những bác xích lô quen như
vậy…
Mùa
Hè năm 1997, một nhóm phóng viên vì nhiều lý do phải rời khỏi tờ báo Tuổi Trẻ
như Đoàn Khắc Xuyên, Đặng Tâm Chánh, Đỗ Trung Quân, Huỳnh Thanh Diệu, Nguyễn
Tuấn Khanh, Huy Đức… Chúng tôi thường xuyên gặp gỡ, chia sẻ và trao đổi với các
đồng nghiệp như Thúy Nga, Minh Hiền, Thế Thanh, Cam Ly, Phan Xuân Loan… Thế
Thanh lúc ấy cũng vừa bị buộc thôi chức Tổng biên tập báo Phụ Nữ Thành Phố, và
cũng như Tổng biên tập báo Tuổi Trẻ Kim Hạnh trước đó, chị không được tiếp tục
nghề báo mà mình yêu thích.
Chúng
tôi nói rất nhiều về thế sự, về những gì xảy ra trên thế giới và ở đất nước
mình. Một hôm ở nhà Đỗ Trung Quân, nhà báo Tuấn Khanh, người vừa gặp rắc rối
sau một bài báo khen ngợi ca sỹ bị coi là chống cộng Khánh Ly, buột miệng nói
với tôi: “Anh phải viết lại những gì diễn ra ở đất nước này, đấy là lịch sử”.
Gần như không mấy ai để ý đến câu nói đó của Tuấn Khanh, nhưng tôi thì cứ bị nó
đeo bám. Tôi tiếp tục công việc thu thập tư liệu với một quyết tâm cụ thể hơn:
Tái hiện giai đoạn lịch sử đầy bi kịch của Việt Nam sau năm 1975 trong một cuốn
sách.
Rất
nhiều thế hệ, kể cả con em của những người đã từng phục vụ trong chế độ Việt
Nam Cộng hòa, sau ngày 30-4-1975, cũng trở thành sản phẩm của nền giáo dục xã
hội chủ nghĩa, nhiều người không biết một cách chắc chắn điều gì đã thực sự xảy
ra thậm chí với ngay chính cha mẹ mình.
Không
chỉ thường dân, cho đến đầu thập niên 1980, nhiều chính sách làm thay đổi số
phận của hàng triệu sinh linh như “Phương án II”[4], như “Z 30”[5] cũng chỉ
được quyết định bởi một vài cá nhân, nhiều người là ủy viên Bộ chính trị cũng
không được biết. Nội bộ người Việt Nam đã có nhiều đụng độ, tranh cãi không cần
thiết vì chỉ có thể tiếp cận với lịch sử qua những thông tin được cung cấp bởi
nhà trường và bộ máy tuyên truyền. Không chỉ các thường dân, tôi tin, những
người cộng sản có lương tri cũng sẽ đón nhận sự thật một cách có trách nhiệm.
Cuốn
sách của tôi bắt đầu từ ngày 30-4-1975, ngày nhiều người tin là miền Bắc đã
giải phóng miền Nam. Nhiều người thận trọng nhìn lại suốt hơn ba mươi năm, giật
mình với cảm giác bên được giải phóng hóa ra lại là miền Bắc. Hãy để cho các
nhà kinh tế chính trị học và các nhà xã hội học nghiên cứu kỹ hơn hiện tượng
lịch sử này. Cuốn sách của tôi đơn giản chỉ bắt đầu kể những gì đã xảy ra ở Sài
Gòn, ở Việt Nam sau ngày 30-4: cải tạo; đánh tư sản; đổi tiền… Cuốn sách của
tôi cũng nói về hai cuộc chiến tranh cuối thập niên 1970, một với Khmer Đỏ và
một với người Trung Quốc. Cuốn sách của tôi cũng nói về làn sóng vượt biên sau
năm 1975, nói về sự “đồng khởi” của nông dân, của các tiểu chủ, tiểu thương để
dành lấy cái quyền được tự lo lấy cơm ăn áo mặc.
Tư
liệu cho cuốn sách được thu thập trong hơn hai mươi năm, và trong vòng ba năm
(từ tháng 8-2009 đến tháng 8-2012) tôi đã dành toàn bộ thời gian của mình để
viết. Bản thảo cuốn sách đã được gửi tới một số thân hữu và một số nhà sử học,
trong đó có 5 nhà sử học uy tín của Mỹ chuyên nghiên cứu về Việt Nam. Sau khi
sửa chữa, bổ sung, tháng 11-2012, bản thảo hoàn chỉnh đã được gửi đến một số
nhà xuất bản trong nước, tuy nhiên, nó đã bị từ chối. Cho dù một số nhà xuất
bản tiếng Việt có uy tín tại Mỹ và Pháp đồng ý in, nhưng để lãnh trách nhiệm cá
nhân và giữ cho cuốn sách một vị trí khách quan, tác giả quyết định tự mình đưa
cuốn sách này đến tay bạn đọc.
Đây
là công trình của một nhà báo mong mỏi đi tìm sự thật. Tuy tác giả có những cơ
hội quý giá để tiếp cận với các nhân chứng và những thông tin quan trọng, cuốn
sách chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót, chắc chắn sẽ còn được bổ sung
khi một số tài liệu được Hà Nội công bố. Hy vọng bạn đọc sẽ giúp tôi hoàn thiện
nó trong những lần xuất bản sau.
Lịch
sử cần được biết như nó đã từng xảy ra và sự thật là một con đường đòi hỏi
chúng ta không bao giờ bỏ cuộc.
Sài
Gòn – Boston (2009-2012)
[1]
Tiểu thuyết cách mạng của Trung Quốc.
[2]
Tiểu thuyết cách mạng của Liên Xô.
[3]
Đạo diễn điện ảnh.
[4]
Tổ chức cho người Hoa nộp vàng để được vượt biên bán chính thức (1978-1979).
[5]
Cải tạo những người giàu lên bất thường (1983).
H.Đ.
Nguồn: Facebook Huy Đức
No comments:
Post a Comment