Hà
Tường Cát/Người Việt (tổng hợp)
July
15, 2016
Ba
câu hỏi đang được bàn cãi trong dư luận người Việt sau phán quyết ngày 12 tháng
7 của Tòa Trọng Tài ở Hòa Lan là: 1) Phán quyết có giá trị gì nếu Trung Quốc
không tuân hành, tiếp tục phủ nhận và chống đối như họ đã nói? 2) Phán quyết
này lợi hại cho Việt Nam như thế nào? 3) Việt Nam có nên kiện để đòi lại các đảo
Trung Quốc đã chiếm ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa hay không?
***
Phán
quyết 12 tháng 7 có ý nghĩa vô cùng quan trọng không chỉ với hai bên tranh chấp,
Philippines và Trung Quốc, mà còn là một án lệ có hiệu lực cho toàn thể các quốc
gia liên quan đến Biển Ðông.
Sự
kiện này chứng minh việc dùng quyền tài phán để giải quyết hòa bình những tranh
chấp là một đường lối hoàn toàn khả thi và đem đến kết quả tích cực. Cùng với
phán quyết về thẩm quyền hồi tháng 10, 2015, nhiều luận điểm Trung Quốc vẫn viện
dẫn để tránh né khả năng áp dụng các biện pháp tài phán cho vấn đề Biển Ðông,
đã bị bác bỏ.
Tuy
vậy nên hiểu rõ là kết luận của Tòa Trọng Tài có một giá trị giới hạn, hơn nữa
Tòa Trọng Tài không có thẩm quyền xác định, mà cũng không giải quyết vấn đề chủ
quyền. Tòa chỉ căn cứ vào Công Ước Liên Hiệp Quốc 1986 (UNCLOS) để giải thích về
việc áp dụng đúng hay sai, về những vi phạm, hoặc về hành động thiếu bổn phận
trách nhiệm của một nước thành viên đã ký kết.
Theo
quy định của UNCLOS, phán quyết của một cơ quan tài phán được thành lập theo
công ước, ở đây là Tòa Trọng Tài Thường Trực, có giá trị ràng buộc. Do đó dù
tuyên bố không chấp nhận, nhưng với tính cách là một nước thành viên ký kết
công ước, Trung Quốc đương nhiên có nghĩa vụ buộc phải thi hành.
Thế
giới không có một cơ chế nào đủ quyền uy để bắt buộc các quốc gia thi hành đúng
những luật lệ và quy định quốc tế. Nhưng thực tế lịch sử cho thấy khi giải quyết
tranh chấp theo con đường tài phán, rất hiếm có quốc gia nào chống đối hoàn
toàn và mãi mãi phán quyết của một tòa quốc tế. Về lâu về dài, thái độ ấy sẽ bất
lợi cho quốc gia nhất là nước lớn như Trung Quốc có rất nhiều mối quan hệ quốc
tế. Vì thế Trung Quốc có thể không tuân thủ ngay phán quyết của Tòa Trọng Tài,
nhưng qua thời gian sẽ buộc phải điều chỉnh hành vi thái độ theo hướng phù hợp
quan niệm chung của thế giới.
Không
thể mong chờ tới một lúc nào Trung Quốc chịu tuyên bố chấp nhận phán quyết, và
trước mắt, nước này có thể tiếp tục hay gia tăng những hành động hung hăng
khiêu khích. Nhưng rồi sau phản ứng ban đầu ấy, dần dần Trung Quốc sẽ phải lặng
lẽ lui bước trong hành động cũng như trong quá trình đàm phán với các nước vùng
Biển Ðông.
***
Ðối
với Việt Nam và tất cả các nước trong khu vực, phán quyết về Philippines-Trung
Quốc đem đến lợi ích quan trọng nhất là việc phủ nhận cái gọi là Ðường Chín Ðoạn
hay đường Lưỡi Bò. Tuyên bố đơn phương bất hợp pháp này là sáng tác từ thời
Trung Hoa Dân Quốc và tới đầu thiên niên kỷ này nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc
mới vin vào đó để tuyên bố chủ quyền của mình trên 85% diện tích Biển Ðông
nghĩa là hơn 3 triệu km2 trên tổng số 3.5 triệu km2. Ðường Lưỡi Bò chồng lấn
lên vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) của Philippines, và vùng biển các nước khác
trong đó nhiều nhất là Việt Nam. Toàn thể hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đều
nằm bên trong Ðường Lưỡi Bò.
PCA
khẳng định, “Trung Quốc không có cơ sở pháp lý để đòi hỏi quyền lịch sử về các
nguồn tài nguyên bên trong Ðường Lưỡi Bò.”
Tòa
giải thích: “Mặc dầu các nhà hàng hải và ngư dân Trung Quốc trong lịch sử đã từng
sử dụng những hòn đảo trên Biển Ðông. Nhưng dân Trung Quốc không phải là duy nhất,
những người dân từ các quốc gia khác cũng đã hành dộng như thế. Hơn nữa không hề
có chứng cứ gì về việc Trung Quốc đã thực thi về mặt lịch sử sự kiểm soát đặc
quyền trên toàn vùng nước hay tài nguyên.”
Như
vậy Việt Nam đương nhiên được thụ hưởng lợi ích trong sự phủ nhận Ðường Lưỡi Bò
của Tòa Trọng Tài. Ðường Lưỡi Bò không phải là phán quyết duy nhất của tòa PCA,
tòa còn giải thích về những quy định trong UNCLOS về đảo, mỏm đá, đá ngầm, về sự
cải tạo trái phép các thực thể ấy, xây dựng đảo nhân tạo làm tổn hại đến mội
trường và hệ sinh thái thiên nhiên,…
Một
số những khiếu kiện khác của Philippines chưa được cứu xét vì ngoài thẩm quyền
của tòa hoặc vì còn cần nghiên cứu thêm.
Chính
Philippines cũng đã từng tuyên bố rằng xem vụ kiện này chỉ là bước đầu chứ
không phải biện pháp cuối cùng để giải quyết toàn bộ tranh chấp Biển Ðông.
Nhưng đây đã thành một án lệ quốc tế, chính quyền Việt Nam hiện nay và các
chính quyền khác sau này sẽ phải vận dụng khôn ngoan án lệ này trong nỗ lực giải
quyết tranh chấp Biển Ðông.
***
Một
thắc mắc khác cần đề cập, khi tòa không công nhận quyền lịch sử của Trung Quốc ở
Biển Ðông thì cũng có nghĩa là không công nhận quyền lịch sử của tất cả các nước
trong đó có Việt Nam. Chúng ta vẫn viện dẫn những bằng chứng lịch sử để chứng
minh rằng “Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam, vậy nếu những bằng chứng này đủ
tính thuyết phục thì có giá trị để đòi chủ quyền hai quần đảo này hay không?”
Ðây
là một câu hỏi khó có lời giải đáp, trong nội dung 329 điều khoản và 9 phụ lục
của UNCLOS, không có quy định bằng chúng lịch sử là một yếu tố để xác định chủ
quyền. UNCLOS chỉ là công cụ để cộng đồng quốc tế duy trì trật tự, thượng tôn
pháp luật trên biển, thiết lập quy định sử dụng đại dương và nguồn tài nguyên,
ngăn chặn tham vọng chiếm đoạt chủ quyền bất hợp pháp.
Tòa
Trọng Tài không có thẩm quyền giải quyết vấn đề chủ quyền biển đảo. Philippines
không đưa vấn đề này ra tòa mà chỉ xin tòa “bác bỏ yêu sách của Trung Quốc về
toàn bộ vùng nước trên Biển Dông” trong phạm vi cái gọi là Ðường Chín Ðoạn dựa
trên “quyền lịch sử.” Tất cả nội dung phán quyết 12 tháng 7 không vượt quá giới
hạn thẩm quyền của Tòa Trọng Tài và không đi ra ngoài UNCLOS.
UNCLOS
đã quy định một vùng biển rộng 200 hải lý tính từ đường cơ sở gọi là “Vùng Ðặc
Quyền Kinh Tế” (EEZ = Exclusive Economic Zone). Các quốc gia có chủ quyền
(sovereign rights) được toàn quyền sở hữu, khai thác tài nguyên thiên nhiên
trong vùng này. Sự ra đời của EEZ và quyền chủ quyền là luật tối hậu, chấm dứt
các yêu sách dựa vào quyền lịch sử (historic rights).
Việt
Nam và các nước Ðông Nam Á khác như Philippines, Indonesia, Brunei, Indonesia
chưa bao giờ yêu sách “quyền lịch sử” ở Biển Ðông, và chỉ đòi hỏi các quyền như
quy định của UNCLOS. Còn chủ quyền lãnh thổ (territorial sovereignty) trên các
đảo là một khái niệm pháp lý khác, không do Tòa Trọng Tài quyết định được. Như
thế phán quyết của tòa PCA không liên quan gì đến sự xác nhận hay phủ nhận chủ
quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
***
Muốn
đòi lại các đảo mà Trung Quốc đã chiếm đóng trái phép ở Hoàng Sa và Trường Sa,
phải kiện ở một tòa án khác, Tòa Công Lý Quốc Tế ICJ (International Court of
Justice) chứ không phải PCA. Hai tòa này đều dùng chung trụ sở là Lâu Ðài Hòa
Bình ở thành phố The Hague, Hòa Lan, khiến người ta dễ lầm, nhưng hoàn toàn
khác biệt về chức năng, thẩm quyền và phương pháp tài phán,
Không
nên vội vã tiến hành vụ kiện này. Trước hết cần thu thập hết sức đầy đủ mọi bằng
chứng trong quá trình tranh tụng, bao gồm cả những bằng chứng hỗ trợ và phản lại
lý đoán của chúng ta.
Vụ
Philippines kiện Trung Quốc kéo dài 3 năm, Philippines đã phải tập trung rất
nhiều tài liệu và hồ sơ xét xử giải thích phán quyết của tòa dài tới 501 trang
tiếng Anh. Thời gian ấy tuy vậy được xem như tương đối ngắn. Thời gian của một
vụ tranh tụng tại tòa ICJ sẽ phải kéo dài ít nhất là trên 10 năm.
Cũng
không có gì bảo đảm rằng tòa ICJ sẽ phán quyết có lợi cho Việt Nam hay cho
Trung Quốc. Rất có thể tòa tuyên bố không đủ yếu tố để quyết định và nếu kháng
cáo sẽ kéo dài thêm hàng chục năm nữa. Kinh nghiệm về tranh chấp chủ quyền hải
đảo, như trường hợp Nhật-Trung Quốc ở quần đảo Senkaku/Ðiếu Ngư, Anh-Argentina ở
Falklands/Malvinas, Nga-Nhật ở quần đảo Kuril/Chishima rettM và vô số trường hợp
của các quốc gia khác đã kéo dài vô tận. Hơn nữa dù muốn dù không, quyết định của
tòa ICJ bắt buộc phải cân nhắc đến các liên hệ chính trị trong hiện trạng thế
giới ngày nay. Ðó là chưa kể, như đã nói trên, phán quyết của tòa ICJ không dễ
sẽ được hai bên thực thi nghiêm chỉnh.
Vậy
thì Việt Nam và các quốc gia Ðông Nam Á nên xem phán quyết của tòa PCA là một
thắng lợi chung vì lần đầu tiên một tòa quốc tế công khai tuyên bố Trung Quốc
vi phạm quy định và nghĩa vụ của UNCLOS.
Về
mặt công pháp quốc tế, Trung Quốc lâm vào tình thế tiến thoái lưỡng nan, tuy
nhiên nước này chắc chắn sẽ tận dụng vị thế và ảnh hưởng của họ, đặc biệt về
kinh tế tài chính, để tiếp tục gây khó khăn chia rẽ các nước trong khu vực.
Thái độ của ASEAN sẽ là điều kiện quan trọng trong sự đương đầu với Trung Quốc,
nhưng khó có thể hy vọng một sự đoàn kết chặt chẽ giữa 10 quốc gia này, và liệu
phán quyết 12 tháng 7 có góp sức cho mục tiêu ấy không?
No comments:
Post a Comment