Carl Thayer
Trà
Mi dịch
Posted
on January
8, 2016 by editor — 0
Comments
Ban chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) đã sẵn sàng để tổ chức Hội nghị
trung ương thứ mười ba trong tháng 12 [và đã bế mạc hôm 21/12/2015. Hội nghị
trung ương 14 sẽ khai mạc vào này 11/1/2015. – TM] Theo tin nội bộ thông báo,
đây sẽ là thời gian khủng hoảng trong việc lựa chọn ứng cử viên cho chức vụ
lãnh đạo hàng đầu của Việt Nam – Tổng bí thư đảng, Chủ tịch nước, Thủ tướng, và
Chủ tịch Quốc hội.
Khi Hội
nghị Trung ương kết thúc, việc chuẩn bị cho Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ Mười
hai sẽ ráo riết bắt đầu cho Đại hội thực sự khai mạc vào cuối tháng Giêng 2016,
từ 20 đến 28. Số ứng viên nhiều chưa từng có đang cạnh tranh vào những vị trí
hàng đầu trong đảng. [Tuy nhiên, theo những nguồn tin khả tín thì 3 trong 4
nhân vật được đề nghị làm ứng viên vào ghế Tổng bí thư đảng CSVN đều là những
người đã quá tuổi 65, Phạm Quang Nghị (1949), Nguyễn Tấn Dũng (1949) và Nguyễn
Phú Trọng (1944); Trần Đại Quang (1956) là nhân vật duy nhất trẻ hơn 65 tuổi. –
TM] Mặc dù không biết chắc chắn về việc ai sẽ là người lãnh đạo đảng kế tiếp,
nhân sự nội bộ chính trị dự đoán sẽ không có thay đổi lớn trong chính
sách đối ngoại của Việt Nam và quan hệ với các cường quốc.
Hai báo
cáo gần đây cho thấy hai quan điểm tương phản về các mối quan hệ của Việt Nam với
Trung Quốc và Hoa Kỳ trong những năm tới. Báo cáo đầu tiên do Joshua
Kurlantzick của Hội đồng Mỹ về Quan hệ Đối ngoại viết, tựa đề là “Một
va chạm quân sự giữa Trung Quốc và Việt Nam”. Báo cáo này đã được tóm tắt
trong The Diplomat.
Báo cáo
thứ hai của tác giả kỳ cựu của BBC, nhà báo Bill Hayton cho Trung tâm Nghiên cứu
Hoa Kỳ trong dự án Đối tác An ninh mới của Mỹ tại Đông Nam Á tại Đại học
Sydney, có tựa đề là “Việt Nam và Hoa Kỳ. Một Đối tác an ninh mới nổi.”
Theo
Kurlantzick,
“Nguy
cơ của một cuộc xung đột quân sự giữa Trung Quốc và Việt Nam đang gia tăng …
nguồn phát triển của lực ma sát có thể dẫn đến một cuộc đối đầu quân sự nghiêm
trọng giữa hai nước trong 12-18 tháng tới, gây hậu quả nghiêm trọng đối với Hoa
Kỳ.”
Hayton,
ngược lại, lưu ý rằng mặc dù mối quan hệ song phương đã trầy trụa vì tranh chấp
ở Biển Đông, giới lãnh đạo ở cả Việt Nam và Trung Quốc đã “cách ly” chúng ra khỏi
mối quan hệ tổng thể của hai nước. Hayton kết luận bằng cách ghi nhận rằng vào
năm 2015, quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam coi là êm thắm, cả hai bên đều đã
quản lý được dư luận. Ngoài ra “thương mại tiếp tục phát triển và du lịch,
bị đình chỉ trong cuộc khủng hoảng năm 2014, đã trở lại.”
Nghiên cứu
Kurlantzick khảo sát ba kịch bản có thể xẩy ra có thể dẫn đến một cuộc đụng độ
quân sự giữa Trung Quốc và Việt Nam – leo thang căng thẳng ở Biển Đông, hai vụ
nổ súng dọc biên giới đất liền, và những tương tác hải quân hoặc không quân
không lường trước được phát sinh từ các cuộc diễn tập quân sự giữa Việt Nam với
đối tác chiến lược mới.
Trong
khi không thể loại bỏ hoà toàn tiềm năng của một cuộc đụng độ quân sự giữa
Trung Quốc và Việt Nam, các bằng chứng mà Kurlantzick đưa ra không đủ thuyết phục.
Ví dụ,
trong kịch bản đầu tiên, Kurlantzick nói tới việc di chuyển các dàn khoan dầu ở
vùng biển tranh chấp, việc tàu đâm vào nhau, và việc trả đũa trong cuộc “xây đạo
nhân tạo” là những ngòi nổ gây xung đột.
Mới chỉ
có hai sự kiện lớn liên quan đến việc di chuyển dàn khoan dầu, một xẩy ra trong
những năm cuối thập niên 1990 và là chót xảy ra năm 2014. Việt Nam đưa tàu chiến
ra biển trong vụ đầu tiên nhưng cả hai bên nhanh chóng xoa dịu tình hình. Cuộc
thách đố năm 2014 chứng minh là cả hai bên đã cố kiềm chế. Việt Nam công khai
cho biết rằng nó sẽ không đưa chiến thuyền ra biển và hải quân Trung Quốc giữ
tàu chiến trong khu trừ bị.
Hayton
cho rằng nếu Trung Quốc đặt một giàn khoan dầu hoặc cấu trúc bán quân sự trên
Bãi Tư Chính (Vanguard Bank), “Việt Nam có thể sẽ bị bắt buộc phải có
hành động mạnh.”Ngược với Kurlantzick, Hayton kết luận rằng kịch bản giả định
này “rất khó mang hình thức đối đầu quân sự. Mục đích sẽ chỉ để buộc
Trung Quốc phải rút lui mà không làm đổ vỡ mối quan hệ.”
Đâm hông
tàu và dùng vòi rồng phun nước đã chóng trở thành những hình thức đối đầu có kiểm
soát của cả hai bên trong năm 2014. Hơn năm năm qua đã có một số báo cáo cho rằng
tàu hàng hải dân sự Việt Nam có thể đã đâm tàu đánh cá của Trung Quốc (và ngược
lại).
Các
phương tiện truyền thông Việt Nam vừa đưa tin về việc Trung Quốc sách nhiễu các
tàu dân sự Việt mang nguồn cung cấp cho nhân viên ở Trường Sa và Song Tử Tây. Sự
kiện nghiêm trọng nhất diễn ra vào ngày 13 tháng 11 khi một tàu chiến Trung Quốc
mở bao che súng 37mm và nhắm vào tầu tiếp vận của Việt Nam trong khi mười nhân
viên mặc đồng phục vũ trang với súng trường tấn công đã vào vị trí nhắm. Tàu tiếp
vận Việt Nam phải rút lui.
Một phát
ngôn viên của Bộ Ngoại giao Việt Nam tuyên bố rằng “Việt Nam cực lực phản
đối việc sử dụng hoặc đe dọa sử dụng vũ lực chống lại tàu của Việt Nam.”
Kurlantzick
lập luận rằng những tuyên bố báo chí loại này “nên được xem như một dấu hiệu
chung của tăng căng thẳng giữa hai nước.” Tuy nhiên, những sự kiện này tương đối
biệt lập và phát biểu của các giới chức Việt Nam nên được xem như là một phản ứng
cho có lệ.
Kurlantzick
khẳng định rằng “Việt Nam đã phản ứng mạnh mẽ” trước vấn đề Trung Quốc “xây dựng
đảo nhân tạo” bằng cách bắt đầu những cuộc “xây đảo của riêng mình” không được
chính xác. Theo Mira Rapp-Hooper, Giám đốc Sáng kiến Minh bạch Hàng hải Á
châu, thì Việt Nam có thể bắt đầu đắp đảo của mình trước khi Trung Quốc bắt đầu
các dự án của TQ hồi năm ngoái. Việc “đắp đảo” của Việt Nam thực sự rất khiêm tốn
và không có dấu hiệu là một phần trong một chu kỳ hành động và phản ứng.
Kịch bản
thứ hai Kurlantzick lcũng có thể có vấn đề tương tự. Ông tuyên bố rằng, “biên
giới đất liền Trung Quốc-Việt Nam ngày càng trở nên căng thẳng khi các lực lượng
an ninh cả hai bên đã nổ súng ít nhất hai lần trong năm 2014 và 2015.” Nhưng
ông cũng nhanh chóng công nhận rằng “lý do xảy ra những vụ nổ súng đó còn chưa
rõ ràng.” Đúng như thế. Trong cuộc đối đầu vào tháng Năm khi TQ đưa giàn khoan
dầu HD 981 vào vùng biển đang có tranh chấp, thì ở đất liền những người khuân
vác đang xếp hàng dài ở biên giới Trung Quốc-Việt Nam chờ mang vải để sang bán
tại thị trường Trung Quốc. Biên giới Việt Nam-TQ trên đất liền ổn định và chưa
có dấu hiệu của sự căng thẳng gần đây như Kurlantzick suy diễn.
Kịch bản
thứ ba của Kurlantzick – những phản ứng không định trước liên quan đến các cuộc
diễn tập quân sự giữa Việt Nam và các đối tác chiến lược mới của mình – mô tả
sai những sự kiện thực tế. Việt Nam đã chưa, và sẽ không có nhiều khả năng tham
gia vào các cuộc tập trận quân sự – định nghĩa hẹp như những cuộc trao đổi các
kỹ năng chiến đấu – với các đối tác chiến lược của Việt Nam.
Các dùng
thuật ngữ “đối tác chiến lược” của Kurlantzick đã làm lệch ý
nghĩa của nó vượt ra ngoài những gì Việt Nam và các đối tác chiến lược hiểu về
thuật ngữ này.
Kurlantzick
cũng kể cả các quan hệ đối tác chiến lược của Việt Nam trong bốn chỉ số cảnh
báo sớm chiến lược của ông về cuộc xung đột có thể xẩy ra. Ví dụ, ông nói rằng
thông báo về một quan hệ đối tác chiến lược với một quốc gia châu Á của Việt
Nam “nên được xem như một dấu hiệu tiềm năng của những căng thẳng gia
tăng giữa Bắc Kinh và Hà Nội.”
Quan hệ
đối tác chiến lược của Việt Nam không phải là thỏa thuận quốc phòng, quân sự.
Đó những tài liệu toàn diện, đa diện gồm chính trị, ngoại giao, kinh tế, khoa học
và công nghệ, văn hóa và hợp tác người-với-người. Tất cả đều có một đoạn văn ngắn
về hợp tác quốc phòng và an ninh liên quan đến các chuyến thăm cấp cao, trao đổi
thông tin, thăm cảng, và những hoạt động như thế.
Cả Trung
Quốc và Việt Nam đã ký kết thỏa thuận hợp tác chiến lược với cùng với các nước
lân cận. Indonesia là một ví dụ điển hình.
Việt Nam
tiến hành các hoạt động hải quân chung (Naval engagement) – thay vì những cuộc
diễn tập quan sự (military exercises) – với Hoa Kỳ, chẳng hạn như thực hiện Ứng
xư Tự nguyện khi có Đối đầu không định trước trên. Việt Nam cũng thực tập những
bài tập tìm và cứu ở mức độ thấp với các quốc gia khác. Đồng thời, Việt Nam và
Trung Quốc tiến hành tuần duyên hải quân chung ở Vịnh Bắc Bộ mỗi sáu tháng. Những
cuộc tuần tra đó gồm cả những cuộc diễn tập tìm và cứu.
Chuyên
khảo của Hayton cung cấp một bản tóm tắt hữu dụng về hợp tác quân sự giữa Việt
Nam và Trung Quốc. Hayton trích Đại tá Trần Đăng Thanh, một giảng viên tại Học
viện chính trị của Bộ Quốc phòng của Việt Nam, để lập luận rằng cách duy nhất để
duy trì hòa bình và ổn định với Trung Quốc “là tránh đối đầu và giữ gìn
tình cảm đoàn kết giữa nhân dân Việt Nam và Trung Quốc.”
Tóm lại,
sự cân bằng bằng chứng lịch sử cho thấy rằng Trung Quốc và Việt Nam đã cực kỳ cẩn
thận để giảm thiểu nguy cơ đụng độ ngẫu nhiên giữa các lực lượng quân sự của họ.
Trung Quốc và Việt Nam đã và sẽ tiếp tục quản lý những điểm nóng. Thật vậy, muốn
biết rõ quan hệ Việt-Trung người ta nên tham khảo dữ liệu trong chuyên khảo của
Bill Hayton cung cấp rất chi tiết về 15 cuộc họp và trao đổi giữa các quan chức
quân đội Trung Quốc và Việt Nam từ cuộc khủng hoảng giàn khoan dầu năm 2014 đến
nay.
Hayton
cũng giải quyết các vấn đề về quan hệ đối tác chiến lược trong phân tích của
ông về quan hệ Mỹ-Việt. Tuy nhiên, ở đây cũng có quá nhiều hiểu lầm đã len vào.
Ví dụ, Hayton nói rằng “một quan hệ ‘đối tác chiến lược toàn diện’ là
“mức cao nhất trong từ vựng ngoại giao của Việt Nam” và Việt Nam đã chỉ
có quan hệ ở mức đó với hai nước Trung Quốc và Nga. Trong thực tế, quan hệ với
Trung Quốc được xem là là một “quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn
diện” – mức cao nhất trong từ vựng ngoại giao Việt Nam. Nga vẫn là một
đối tác chiến lược toàn diện.
Hayton
cũng lưu ý rằng cả hai nước Úc và Hoa Kỳ đều nằm ở bậc dưới cùng của hệ thống
phân cấp các đối tác toàn diện. Trong thực tế, Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton
là người đầu tiên đề nghị một quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam. Điều này
ngụ ý Mỹ muốn có quan hệ quân sự và quan hệ quốc phòng với Việt Nam gần gũi hơn
Việt Nam đã sẵn sàng chấp nhận. Trong năm 2013 cả hai nước đã lùi lại từ cuộc
thảo luận về quan hệ đối tác chiến lược và chỉ đồng ý trở thành đối tác toàn diện.
Trước
đó, cựu Thủ tướng Kevin Rudd của Australia đã từ chối đề nghị của Việt Nam về một
quan hệ đối tác chiến lược với lý do nó chỉ mang tính biểu tượng và quan hệ quốc
phòng với Việt Nam thiếu sự thâm sâu như quan hệ quốc phòng của Australia với
các “đối tác chiến lược” khác Việt Nam.
Hayton kết
luận phân tích của ông với một khảo sát muộn về những đối tác chiến lược khác của
Việt Nam – Ấn Độ, Nhật Bản và Nga – và ngụ ý rằng chính sách đa dạng hóa quan hệ
đối ngoại của Việt Nam là một sự phát triển gần đây.
Trong
tháng 6 năm 1991, Đại hội lần thứ VII của đảng CSVN tán thành một chính sách đa
dạng hóa và đa phương hóa quan hệ kinh tế của Việt Nam với tất cả các nước và
nói rằng“Việt Nam muốn trở thành bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế
giới … không phân biệt chế độ chính trị-xã hội khác nhau.” Việt Nam đã
ưu tiên cho quan hệ với Liên Xô, Lào, Campuchia, Trung Quốc, Cuba và “những nước
bạn mới” (đáng kể) – ở Đông Nam Á, Tây Âu, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
Mười năm
sau đó, vào tháng Tư năm 2001, Đại hội Đảng CSVN lần thứ IX, Việt Nam khẳng định, “Việt
Nam muốn là bạn, là đối tác đang tin cậy với tất cả các nước khác” bằng
cách đa dạng hóa và đa phương hóa quan hệ quốc tế của họ. Trong mười lăm năm vừa
qua Việt Nam đã theo đuổi mục tiêu này là nền tảng khung của chính sách chiến
lược về ngoại giao của họ.
Kurlantzick
kết thúc nghiên cứu của mình với bảy đề nghị để Hoa Kỳ có thể giảm thiểu các mối
đe dọa xung đột vũ trang giữa Trung Quốc và Việt Nam. Hayton kết luận bằng cách
gợi ý rằng Hoa Kỳ có thể thúc đẩy Việt Nam là một đối tác chiến lược tích cực
hơn bằng cách tôn trọng hệ thống chính trị độc đảng của Việt Nam hơn nữa. Cả
hai tác giả không nắm bắt được khung sườn đa phương lớn hơn của chính sách đối
ngoại của Việt Nam với Trung Quốc, Hoa Kỳ, Nga, Ấn Độ, Nhật Bản, Châu Âu, và Hiệp
hội các quốc gia Đông Nam Á.
Tóm lại,
Việt Nam sẽ tiếp tục theo đuổi một chính sách cân bằng đa cực – đa dạng hoá, đa
phương hoá quan hệ – chứ không phải là một chính sách hẹp cân bằng quan hệ giữa
Trung Quốc và Hoa Kỳ trong những năm sau đại hội đảng lần thứ mười hai.
© 2016
DCVOnline
Nếu đăng lại, xin đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net”
Nếu đăng lại, xin đọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net”
Nguồn: Carl Thayer, Why Vietnam’s Foreign Policy Won’t Change After Its Party Congress.
The Diplomat, December 08, 2015.
No comments:
Post a Comment