Howard Davies - Project-Syndicate
Biên
dịch: Nguyễn Thị Kim Phụng | Hiệu
đính: Lê Hồng Hiệp
Posted
on 05/01/2016
Có lẽ
tôi không phải là vị giáo sư tài chính duy nhất mà khi ra đề tài tiểu luận cho
sinh viên của mình đã chọn câu hỏi như thế này: “Theo quan điểm của anh/chị,
nguyên nhân chủ yếu của khủng hoảng tài chính toàn cầu là do chính phủ can thiệp
quá nhiều vào thị trường tài chính, hay bởi họ đã can thiệp quá ít?”. Và khi giải
quyết “câu hỏi” này, sinh viên trong lớp mà tôi dạy gần đây nhất đã chia thành
ba luồng ý kiến.
Khoảng
một phần ba số sinh viên, những người bị mê hoặc bởi sự hấp dẫn hào nhoáng của
Giả thuyết Thị trường hiệu quả (Efficient Market Hypothesis), lập luận rằng
chính phủ là nguyên nhân của mọi tội lỗi. Những can thiệp thiếu suy nghĩ của họ
– đặc biệt là các hãng kinh doanh các khoản cho vay thế chấp được chính phủ Mỹ
hậu thuẫn là Fannie Mae và Freddie Mac, cũng như Đạo luật Tái đầu tư cộng đồng
(Community Reinvestment Act) – đã làm các động cơ thị trường bị bóp méo. Một số
thậm chí chấp nhận lập luận của nhà tư tưởng tự do Mỹ Ron Paul, lên án sự tồn tại
của Cục Dự trữ Liên bang (Fed) trong vai trò người cho vay cuối cùng.
Một phần
ba số sinh viên khác, những người ủng hộ phía bên kia của phổ tư tưởng chính trị,
lại cho rằng cựu Chủ tịch Fed Alan Greenspan là tội đồ. Greenspan đã miễn cưỡng
can thiệp vào thị trường tài chính, thậm chí khi đòn bẩy tài chính đang gia
tăng đáng kể và giá tài sản dường như đã không còn đúng với thực tế, điều đã
gây ra rắc rối. Nói rộng hơn, các chính phủ phương Tây, với cách tiếp cận quá
nhẹ nhàng đối với điều tiết, đã khiến thị trường phát triển ra ngoài vòng kiểm
soát trong những năm đầu của thế kỷ này.
Nhóm
sinh viên còn lại thì chọn cả hai, cho rằng chính phủ đã can thiệp quá nhiều
trong một số lĩnh vực, nhưng lại quá ít ở các lĩnh vực khác. Lảng tránh câu hỏi
gốc để đi theo hướng trung dung như vậy không phải là một chiến thuật làm bài
kiểm tra tốt, tuy nhiên các sinh viên cũng có lý do của họ.
Giờ đã
là bảy năm sau khủng hoảng, các chính phủ và cử tri ở châu Âu và Bắc Mỹ đã trả
lời câu hỏi quan trọng này như thế nào? Hành động của họ cho thấy rằng họ nghĩ
cần phải kiểm soát chặt chẽ các thị trường tài chính hay trái lại, nhà nước nên
bác bỏ các kế hoạch giải cứu và để các công ty tài chính tự giải quyết hậu quả
do những sai lầm của chính mình?
Qua luận
điệu và các chính sách điều tiết của họ, có thể thấy rằng hầu hết các chính phủ
đã lựa chọn phương án thứ ba – trung dung. Vâng, họ thực hiện một loạt các biện
pháp kiểm soát chi tiết, rà soát sổ sách của các ngân hàng với cường độ chưa từng
có, đồng thời kiểm soát việc phân phối tiền mặt, việc bổ nhiệm các giám đốc chủ
chốt, và thậm chí còn kiểm duyệt cả bảng mô tả công việc của các thành viên hội
đồng quản trị.
Nhưng họ
đã loại trừ bất kỳ sự hỗ trợ nào trong tương lai từ chính phủ hoặc ngân hàng
trung ương dành cho các thể chế tài chính ốm yếu. Các ngân hàng giờ phải xuất
trình “di chúc sống” cho thấy họ sẽ “chết dần” mà không có sự hỗ trợ của chính
quyền như thế nào. Chính phủ sẽ rũ bỏ trách nhiệm nếu những ngân hàng này gặp rắc
rối: giờ thì thời đại “quá lớn để sụp đổ” (too big to fail) đã kết thúc.
Có lẽ
cách tiếp cận nước đôi này là không thể tránh khỏi, dù nếu biết được điểm kết
thúc mong muốn là gì cũng là điều tốt. Liệu nó là một hệ thống nơi kỷ luật thị
trường một lần nữa thống trị, hay là các nhà quản lý sẽ tiếp tục nắm quyền điều
chỉnh trong tương lai gần?
Vậy còn
kết luận của các cử tri thì sao? Trong làn sóng bầu cử đầu tiên hậu khủng hoảng,
thông điệp đưa ra là rất rõ ràng theo nghĩa này, nhưng lại mơ hồ theo nghĩa
khác. Dù chính phủ nào nắm quyền khi xảy ra khủng hoảng, cánh hữu hay cánh tả,
thì họ cũng đã bị thay thế bởi một chính phủ khác theo khuynh hướng chính trị đối
lập.
Điều
này không thực sự đúng ở mọi nơi – chẳng hạn như tại Đức với trường hợp Angela
Merkel – nhưng chắc chắn nó là sự thật ở Mỹ, Anh, Pháp, và nhiều nơi khác. Pháp
chuyển từ cánh hữu sang cánh tả, còn Anh thì ngược lại. Dù vậy thì dư luận cử
tri về chính phủ của họ vẫn ít nhiều giống hệt nhau: anh mắc sai lầm trong nhiệm
kỳ của mình, vậy nên anh phải ra đi.
Nhưng
bây giờ chúng ta có thể thấy một xu hướng phát triển nhất quán hơn. Ba nhà kinh
tế người Đức, Manuel Funke, Moritz Schularik, và Christoph Trebesch, vừa công bố
một đánh giá rất hay dựa trên hơn 800 cuộc bầu cử ở các nước phương Tây trong
suốt 150 năm qua, đồng thời gắn những kết quả này với 100 cuộc khủng hoảng tài
chính. Họ đưa ra kết luận chính rõ ràng: “Chính trị thay đổi mạnh sang phía
cánh hữu sau mỗi cuộc khủng hoảng tài chính. Tính trung bình, số phiếu ủng hộ
phe cực hữu tăng khoảng một phần ba trong vòng 5 năm sau mỗi cuộc khủng hoảng hệ
thống ngân hàng”.
Cuộc Đại
khủng hoảng những năm 1930, theo sau sự sụp đổ của phố Wall năm 1929, chính là
ví dụ rõ ràng và đáng lo ngại nhất, nhưng xu hướng này cũng có thể được quan
sát thấy cả tại các nước Bắc Âu sau các đợt khủng hoảng ngân hàng đầu những năm
1990. Vì vậy, nếu giải thích sự nổi lên của Mặt trận Quốc gia Pháp là bởi cá
nhân và chính sách chính trị của Tổng thống François Hollande không hợp lòng
dân là không hợp lý. Vẫn còn các nguyên nhân lớn hơn đời tư rắc rối và việc thiếu
khả năng kết nối với các cử tri của ông ta.
Kết luận
chính thứ hai mà Funke, Schularik, và Trebesch rút ra là công việc quản lý của
chính phủ trở nên khó khăn hơn sau khủng hoảng tài chính, vì hai lý do. Sự trỗi
dậy của phe cực hữu nằm trong bối cảnh chính trị thường bị phân mảnh, với nhiều
đảng phái hơn, và số phiếu dành cho đảng cầm quyền bị thấp hơn, dù là họ thuộc
phe hữu hay phe tả. Vì vậy, việc đưa ra các quyết định lập pháp quan trọng sẽ
trở nên khó khăn hơn.
Đồng thời,
các phong trào vận động bên ngoài nghị trường cũng tăng đột biến: đình công và
biểu tình lớn hơn và kéo dài hơn. Chính phủ cũng không còn đủ khả năng kiểm
soát an ninh đường phố như trước. Tính trung bình thì các cuộc biểu tình chống
chính phủ tăng gấp ba, tần số bạo loạn tăng gấp đôi, và các cuộc đình công nói
chung tăng ít nhất một phần ba. Những con số này đặc biệt tăng mạnh tại Hy Lạp
trong thời gian gần đây.
Kết luận
mang tính an ủi duy nhất mà ba nhà kinh tế đạt được đó là những tác động này sẽ
dần biến mất. Dữ liệu cho thấy rằng sau 5 năm, điều tồi tệ nhất sẽ qua. Nhưng
điều đó hình như không phải là những gì đang diễn ra tại châu Âu, nếu xét đến
cuộc bầu cử gần đây của Pháp, chưa kể ở Phần Lan và Ba Lan, nơi cánh hữu hiện nắm
quyền. Có lẽ lời giải thích hợp lý là 5 năm ở đây được tính từ khi cuộc khủng
hoảng hoàn toàn chấm dứt, mà ở châu Âu thì chưa phải vậy.
Vì vậy
chính trị dường như vẫn còn là một nghề khó khăn trong một thời gian dài nữa.
Còn các ngân hàng và tổ chức tài chính, những kẻ bị đổ lỗi vì gây ra khủng hoảng,
sẽ vẫn tiếp tục bị coi là tội đồ thêm một thời gian nữa cho đến khi kỳ vọng của
cử tri về sự ổn định kinh tế và tài chính được đáp ứng một cách bền vững hơn.
H.D.
Ghi
chú:
Howard
Davies, Chủ tịch đầu tiên của Cơ quan Dịch vụ Tài chính Vương quốc Anh
(1997-2003), là Chủ tịch Ngân hàng Hoàng gia Scotland. Ông từng là Hiệu trưởng
Trường Kinh tế London (2003-2011) và giữ chức Phó Thống đốc Ngân hàng Anh và Tổng
Giám đốc Liên đoàn Công nghiệp Anh.
Nguồn: Howard Davies,
“The
Political Consequences of Financial Crises”, Project Syndicate,
22/12/2015. Copyright: Project
Syndicate 2015
No comments:
Post a Comment