Ricardo
Hausmann, Project–Syndicate
Trường
Sơn chuyển
ngữ, CTV Phía Trước
Posted
on Jan 12, 2016
Cambridge – Chủ nghĩa tư bản
đang bị lên án trong rất nhiều vấn nạn ngày nay: từ nạn nghèo đói, sự bất bình
đẳng, đến nạn thất nghiệp, và thậm chí cả tình trạng ấm lên toàn cầu. Giáo
hoàng Francis đã khẳng định trong một bài phát biểu gần đây ở Bolivia: “Hệ thống
này đã ở vào tình trạng mà người ta không thể chịu đựng được nữa: những người
làm công trong trang trại không thể chịu đựng được nữa, người lao động cũng
không thể chịu đựng được nữa, nhiều cộng đồng cũng thể chịu đựng được nữa, dân
chúng không thể chịu đựng được nữa. Đến cả Trái đất – người chị cả của chúng
tôi, Mẹ Trái đất, như chính Thánh Francis sẽ nói – cũng thấy không thể chịu đựng
được nữa”.
Nhưng
có phải những vấn nạn đang khiến Giáo hoàng Francis trăn trở thực sự là hậu quả
của thứ mà ông gọi là “chủ nghĩa tư bản mất kiểm soát”? Hoặc căn nguyên của
chúng lại là chính những thất bại đáng ngạc nhiên của chủ nghĩa tư bản trong những
lĩnh vực mà con người từng đặt niềm tin vào nó? Liệu một chương trình nghị sự
phải truy vấn về vấn đề công bằng xã hội dựa trên khả năng kiểm soát chủ nghĩa
tư bản hay dựa trện việc loại bỏ những rào cản ngăn chặn sự phát triển của nó?
Chúng
ta hãy tạm gác lại lời giải đáp cho truy vấn này đối với những nền kinh tế của
châu Mỹ Latinh, châu Phi, Trung Đông và châu Á. Để làm rõ vấn đề, chúng ta cần
nhớ lại cách Karl Marx hình dung về tương lai.
Đối với
Marx, vai trò lịch sử của chủ nghĩa tư bản là tái cấu trúc quá trình sản xuất.
Những trang trại gia đình, xưởng thủ công, và cả “quốc gia của những người bán
hàng”, như cách Napoleon khinh bỉ gọi nước Anh, phải biến mất. Tất cả các hoạt
động mang tính tiểu tư sản sẽ bị thay thế bằng những hình thái kinh doanh tương
đương như các hãng Zara, Toyota, Airbus, hay Walmart của ngày hôm nay.
Kết quả
là, những người làm công sẽ không còn khả năng sở hữu phương tiện sản xuất, như
ở các trang trại gia đình hoặc xưởng của thợ thủ công, “tư bản” sẽ nắm quyền sở
hữu tất cả những thứ ấy. Người lao động chỉ có thể sở hữu lao động của chính họ,
thứ họ sẽ phải trao đổi bằng những đồng lương khốn khổ. Tuy nhiên, họ vẫn sẽ
may mắn hơn “đội quân khốn cùng của những kẻ thất nghiệp” – một lực lượng người
lao động nhàn rỗi đủ lớn để làm cho người khác phải sợ cảnh mất việc làm, nhưng
đủ nhỏ để không lãng phí giá trị thặng dư có thể được tạo ra bằng cách buộc những
người e sợ ấy phải làm việc.
Khi tất
cả tầng lớp xã hội trước đó chuyển thành giai cấp công nhân, và tất cả phương
tiện sản xuất thuộc quyền sở hữu của tập thể những kẻ tích lũy “tư bản” vốn
không bao giờ suy kiệt, một cuộc cách mạng vô sản sẽ dẫn nhân loại đến một thế
giới đại đồng: “Làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”, như chính miêu tả nổi
tiếng của Marx về viễn cảnh ấy.
Rõ
ràng, nhà thơ, cũng là nhà triết gia, Paul Valéry đã đúng: “Tương lai, giống
như mọi thứ khác, sẽ không bao giờ như ngày trước được nữa”. Nhưng chúng ta không
nên đem dự báo nổi tiếng của Marx ra làm trò cười. Bởi sau tất cả, như chính
nhà vật lý Niels Bohr đã lưu ý, “Mọi dự đoán luôn tiềm ẩn bất trắc, đặc biệt là
về tương lai.”
Bây giờ,
chúng ta biết rằng khi mực đã khô trên bản Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, giá trị
của đồng lương ở châu Âu và Hoa Kỳ đã tăng lên rất nhiều trong khoảng 160 năm,
làm cho người lao động trở thành một phần của tầng lớp trung lưu, với xe ô tô,
thế chấp, lương hưu, với những mối bận tâm ở mức tiểu tư sản. Lời hứa tạo ra
công ăn việc làm luôn hiện diện trong hành ngôn của các chính trị gia ngày nay
– cũng như lời hứa tạo ra cơ hội để kiếm lời từ tư bản – họ chẳng việc gì phải
tìm cách chiếm hữu phương tiện sản xuất.
Chủ
nghĩa tư bản có thể đạt được biến chuyển như vậy là vì khả năng tái cấu trúc sản
xuất để tạo ra năng suất chưa từng có. Vấn đề phân công lao động trong và giữa
các doanh nghiệp, viễn cảnh mà Adam Smith đã hình dung từ năm 1776 như là động
lực của sự tăng trưởng, cho phép từng cá nhân chia sẽ bí quyết với nhau và như
vậy khiến toàn thể luôn biết nhiều hơn so với bộ phận và tạo nên mạng lưới ngày
càng phát triển trong việc trao đổi và hợp tác.
Một
công ty ngày nay sở hữu chuyên gia trong mọi lĩnh vực, từ sản xuất, thiết kế,
tiếp thị, bán hàng, tài chính, kế toán, quản lý nhân sự, đến hậu cần, thuế, hợp
đồng, và hơn thế nữa. Quá trình sản xuất đương đại không chỉ là kết quả của nỗ
lực tích lũy quyền chiếm hữu cơ sở hạ tầng và phương tiện sản xuất như trong Das
Kapital[1] và vận hành một cách máy móc bởi nguồn
nhân công tùy biến. Thay vào đó, diễn trình ấy là một mạng lưới điều phối được
kiến tạo từ phức hợp của những nguồn nhân lực chuyên biệt trong một “Das
Human-Kapital” – Chủ nghĩa Tư bản Nhân văn. Trong một thế giới cùng phát triển,
chủ nghĩa tư bản đã chuyển đổi gần như tất cả mọi người thành người lao động vì
tiền lương, nhưng chính nó cũng giải thoát họ khỏi đói nghèo và làm cho họ giàu
hơn mọi khả năng mà Marx có thể hình dung.
Marx
không chỉ sai ở chủ điểm này. Đáng ngạc nhiên hơn, việc tái cấu trúc quá trình
sản xuất của chủ nghĩa tư bản ngày càng suy kiệt theo đà phát triển của thế giới,
để lại phần lớn lực lượng lao động nằm ngoài tầm kiểm soát của chính nó. Những
con số này đã đạt đến mức đáng kinh ngạc. Trong khi tỷ lệ tự kinh doanh ở Hoa Kỳ
chỉ đạt mức một trên chín người, con số này ở Ấn Độ đã lên đến 19 trên 20. Ít
hơn một phần năm người lao động ở Peru được tuyển dụng bởi loại hình doanh nghiệp
tư nhân mà Marx từng hình dung sẽ biến mất. Tại Mexico, tỷ lệ này đạt đến mức
khoảng một phần ba.
Thậm
chí tại một số nước, những chỉ số về mức sống liên quan chặt chẽ đến tỷ lệ lực
lượng lao động làm việc trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa. Ở bang Nuevo León của
Mexico, hai phần ba công nhân đang làm việc trong các doanh nghiệp tư nhân,
trong khi ở bang Chiapas thì tỉ lệ này chỉ ở mức một trên bảy. Kết quả tất yếu
là thu nhập bình quân đầu người ở bang Nuevo León cao hơn ở bang Chiapas chín lần.
Tại Colombia, thu nhập bình quân đầu người ở thủ đô Bogota cao hơn Maicao bốn lần.
Chuyện này chẳng có gì đáng ngạc nhiên bởi thị phần của doanh nghiệp tư nhân ở
Bogota cao hơn sáu lần.
Với đất
nước Bolivia kiệt quệ vì nghèo đói, Giáo hoàng Francis chỉ trích rằng “tâm lý đạt
được lợi nhuận bằng mọi giá, cũng như sự vô tâm trước bất bình đẳng xã hội hay vấn nạn tàn
phá thiên nhiên”, cùng với “một niềm tin ngây ngô và thô kệch vào lòng tốt của
những kẻ nắm giữ quyền lực kinh tế và hoạt động được đề cao của các hệ thống kinh
tế hiện hành” là căn nguyên của bất ổn.
Nhưng
cách giải thích như vậy về sự thất bại của chủ nghĩa tư bản hoàn toàn trật trọng
tâm. Các công ty có lợi nhuận nhất trên thế giới đang làm ngơ Bolivia. Họ chỉ
đơn giản là không có mặt ở đó ngay từ đầu, bởi vì họ không thấy lợi nhuận ở môi
trường như vậy. Vấn nạn cơ bản của các nước đang phát triển là việc tái cấu
trúc quá trình sản xuất và việc làm của chủ nghĩa tư bản vẫn chưa tìm đến các
nước và vùng lãnh thổ nghèo nhất, cũng như bỏ mặc phần lớn lực lượng lao động nằm
ngoài tầm ảnh hưởng của nó.
Như
Rafael Di Tella[2] và Robert MacCulloch[3] đã chứng minh, thực ra đặc trưng của các
nước nghèo nhất thế giới không phải là niềm tin ngây ngô vào chủ nghĩa tư bản,
mà chính là một niềm bất tín hoàn toàn, dẫn đến sự can thiệp vô lý của chính phủ
và quy định nặng nề của các doanh nghiệp. Trong điều kiện như vậy, chủ nghĩa tư
bản không phát triển mạnh và nền kinh tế thì ngày càng tụt hậu.
Giáo
hoàng Francis đã đúng khi dành sự chú ý cho hoàn cảnh của những người nghèo nhất
thế giới. Tuy nhiên, nỗi đau khổ của họ hoàn toàn không phải là hậu quả của chủ
nghĩa tư bản mất kiểm soát, mà là một chủ nghĩa tư bản đã bị định hướng sai.
__________
Ricardo
Hausmann
là cựu Bộ trưởng Kế hoạch của Venezuela và là cựu trưởng kinh tế gia của Ngân
hàng Phát triển Liên Mỹ, và là giáo sư của dự án Thực hành Phát triển Kinh tế tại
Đại học Harvard, nơi ông cũng là Giám đốc Trung tâm Phát triển Quốc tế. Ông là
Chủ tịch của Hội đồng Global Agenda Meta-Council thuộc Diễn đàn Kinh tế Thế giới
về Tăng trưởng Hòa nhập.
***
Auckland©
2007 – 2015 Bản tiếng Việt TẠP CHÍ PHÍA TRƯỚC – www.phiatruoc.info
No comments:
Post a Comment