Lê Anh
Hùng
04/11/2015
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc
lập – Tự do – Hạnh phúc
_______o0o_______
Kính
gửi: Đại
biểu Quốc hội Dương Trung Quốc
Đồng
kính gửi: Bộ Chính trị BCHTW Đảng CSVN
Chủ
tịch nước CHXHCN Việt Nam
Chính
phủ nước CHXHCN Việt Nam
Quốc
hội nước CHXHCN Việt Nam
Bộ
trưởng Công an Trần Đại Quang
Viện
trưởng Viện KSND Tối cao Nguyễn Hoà Bình
Chánh
án Toà án ND Tối cao Trương Hoà Bình
Uỷ
ban Kiểm tra Trung ương Đảng CSVN
Tiểu
ban Nhân sự Đại hội XII Đảng CSVN
Tôi
là Lê Anh Hùng, sinh ngày 27/8/1973 tại Hà Tĩnh; hộ khẩu thường trú tại Tổ 2, Cụm
5, Khương Đình, Thanh Xuân, Hà Nội; CMND số 012191640 do Công an Hà Nội cấp
ngày 15/7/2004; tạm trú tại số nhà 19, ngõ 120/22/2 Kim Giang, Hà Nội; điện thoại:
01243210177.
Ngày
16.9.2013, tôi đã gửi đơn
tố cáo các ông Nguyễn Tấn Dũng, Hoàng Trung Hải, Nông Đức Mạnh và Nguyễn Minh
Triết cho ông tại văn phòng làm việc của ông ở 216 Trần Quang Khải, Hà
Nội. Sau đó tôi được ông cho biết là đã chuyển đơn thư cho Bộ Công an.
Tuy
nhiên, mặc dù đã hơn 2 năm trôi qua nhưng tôi vẫn chưa hề nhận được văn bản trả
lời của ông cũng như của các cơ quan chức năng khác theo đúng quy định của pháp
luật. Đây là hành vi chà đạp lên pháp luật của các cơ quan hữu quan Việt Nam,
vì những lý do dưới đây:
1) Việc trước đây, năm 2010, tôi được Viện Pháp y Tâm thần
Trung ương “giám định” là bị “tâm thần hoang tưởng” không có nghĩa là tôi bị
“tâm thần hoang tưởng” suốt cả đời. Bản thân ông Đỗ Mười từng có thời gian điều
trị bệnh thần kinh ở Trung Quốc, vậy mà về sau còn làm tới chức Tổng Bí thư,
lãnh đạo cả một đất nước. Nghĩa là ngay cả khi tôi thực sự bị “tâm thần hoang
tưởng” vào thời điểm tôi được “giám định” năm 2010 thì cũng không có gì đảm bảo
rằng hiện nay tôi vẫn bị “tâm thần hoang tưởng”, để qua đó bác bỏ vụ tố cáo của
tôi.
2) Ngày 11.3.2011, vợ tôi – Lê Thị Phương Anh, người từng
là một mắt xích quan trọng trong đường dây ma tuý của Phó Thủ tướng gốc Tàu
Hoàng Trung Hải, đã
viết Bản Cam Đoan khẳng định: (i) “Chồng tôi, Lê Anh Hùng, là người
hoàn toàn bình thường. Khi chồng tôi bị bắt ngày 25.12.2009, tôi khai chồng tôi
bị bệnh tâm thần là do tôi bị đe doạ và ép buộc.”, (ii) “Tôi hoàn toàn đồng ý với
thư tố cáo của chồng tôi đối với các ông Nông Đức Mạnh, Nguyễn Tấn Dũng, Hoàng
Trung Hải. Tôi là người nằm trong đường dây ma tuý của Phó Thủ tướng Hoàng
Trung Hải. Tôi là nhân chứng trực tiếp và cung cấp thông tin cho chồng tôi.”
Cho đến nay vẫn chưa hề có cuộc làm việc nào giữa tôi, vợ tôi và cơ quan chức năng
để xác định Bản Cam Đoan đó là đúng hay sai.
Xin
lưu ý thêm là ngày 6.6.2012, tôi cũng đã gửi đơn đơn tố cáo tương tự cho ông,
kèm theo Bản Cam Đoan nói trên của vợ tôi. Hơn 1 năm sau, ngày 18.7.2013, ông mới
chuyển cho tôi văn
bản của Bộ Công an trả lời Quốc hội về đơn thư tố cáo của tôi. Trong
văn bản này, Bộ Công an không những kết luận tôi bị “tâm thần hoang tưởng” dù
không tiến hành trưng cầu giám định pháp y tâm thần, mà còn không đếm xỉa gì tới
Bản Cam Đoan của vợ tôi. Đây là hành vi ngồi xổm lên pháp luật hết sức trắng trợn.
3) Suốt nhiều năm qua, trước và sau khi tôi bị Công an Quảng
Trị bắt giam từ ngày 25.12.2009 – 24.8.2010, cũng như trước và sau khi tôi bị
Công an Hà Nội và Công an Hưng Yên cưỡng chế vào trại tâm thần mang tên “Trung
tâm Bảo trợ Xã hội II” ở Ứng Hoà, Hà Nội từ ngày 24.1 – 5.2.2013, tôi đều dịch
thuật, viết blog, viết báo và sinh
sống bình thường trong gia đình, cộng đồng và xã hội.
4) Sau khi Lê Thị Phương Anh, vợ tôi, ra tù ngày 15.5.2015,
cô đã lên tiếng tố cáo Công an Đồng Nai dùng
nhục hình và ép cung cô trong thời gian cô bị Công an Đồng Nai bắt
giữ trái phép từ ngày 15.5.2014. Những “lời khai” của Lê Thị Phương
Anh tại Công an Đồng Nai rằng tôi đã ép buộc cô ấy phạm tội “vu khống” là không
đủ cơ sở pháp lý vì (i) đó mới chỉ là lời khai một chiều từ
phía vợ tôi, chưa thể kết luận được vì chưa có cuộc đối chất nào
giữa những người liên quan, và (ii) sau khi ra tù, thông qua các phương tiện
truyền thông đại chúng, cô đã công khai tố cáo Công an Đồng Nai dùng nhục hình
và ép cung cô.
5) Trang 3/18 của bản Kết
luận Điều tra số 06/KLĐT-PA92 ngày 31.10.2014 của Cơ quan An ninh Điều
tra Công an Đồng Nai ghi rõ: “Tháng 8/2010, [Lê Anh] Hùng chữa bệnh
xong về ở với Phương Anh ở Đông Hà, Quảng Trị sau đó ra Hà Nội làm
công nhân.” Tức là ngay cả khi tôi có bị “tâm thần hoang tưởng” như kết quả
“giám định” pháp y tâm thần năm 2010 đi chăng nữa thì chính công an cũng đã khẳng
định rằng tôi đã “chữa bệnh xong” và đi làm rồi, nghĩa là tôi hoàn
toàn đủ năng lực trách nhiệm hình sự.
6) Trang 6/18 của bản Kết
luận Điều tra số 06/KLĐT-PA92 ngày 31.10.2014 của Cơ quan An ninh Điều
tra - Công an Đồng Nai ghi: “Cơ quan An ninh Điều tra - Công an Đồng Nai đã triệu
tập đến làm việc nhưng đương sự [Lê Anh Hùng] không đến do đó chưa thể xử lý đối
tượng trên. Cơ quan An ninh Điều tra - Công an Đồng Nai sẽ tiếp tục làm rõ hành
vi của Lê Anh Hùng và xử lý sau.”
Việc
tôi không đến làm việc với Cơ quan ANĐT - CAĐN là vì (i) đây là giấy mời, chứ
không phải giấy triệu tập, và với hình thức giấy mời thì theo quy định của pháp
luật, người được mời có quyền đến hoặc không đến, (ii) trước đó, ngày
10.6.2014, tôi đã gửi “Đơn
tố cáo Công an Đồng Nai về hành vi bắt giữ người trái phép, vi phạm luật tố tụng
và khám xét nhà tuỳ tiện” đến ông Bộ trưởng Công an, ông Viện trưởng Viện
KSND Tối cao và đồng kính gửi Bộ Chính trị, Quốc hội cũng như ĐBQH Dương Trung
Quốc, và (iii) Cơ quan ANĐT – CAĐN vừa không đủ tư cách (họ là đối tượng bị tôi
tố cáo vi pháp pháp luật) để mời tôi, vừa không đủ thẩm quyền và năng lực để điều
tra vụ tố cáo nhằm vào các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước.
Câu
hỏi không thể không đặt ra ở đây là: Tại sao Công an Đồng Nai mời Lê Anh Hùng đến
làm việc về đơn tố cáo, mà suốt từ năm 2012 đến nay, mặc dù ĐBQH Dương Trung Quốc
đã chuyển đơn thư của Lê Anh Hùng cho ông Chủ tịch Quốc hội và cho Bộ Công an
(2 lần) nhưng Bộ Công an vẫn chưa một lần mời Lê Anh Hùng đến làm việc
về đơn thư tố cáo đặc biệt nghiêm trọng đó?
7) Trang 7/8 của bản Cáo
trạng số 139/CT-VKS-P2 ngày 28.11.2014 của Viện Kiểm sát Nhân dân Đồng
Nai ghi: “Đối với Lê Anh Hùng… Cơ quan An ninh Điều tra tỉnh Đồng Nai sẽtiếp
tục phối hợp cùng các cơ quan chức năng để điều tra, làm rõ và xử
lý theo quy định của pháp luật.”
8) Trang 11/14 của Bản án số 12/2015/HSST ngày 12.2.2015 của
Toà án Nhân dân tỉnh Đồng Nai ghi: “Đối với Lê Anh Hùng… Cơ quan An ninh Điều
tra Công an tỉnh Đồng Nai sẽtiếp tục phối hợp với các cơ quan chức năng để điều
tra, xác minh, làm rõ, xử lý theo quy định của pháp luật.”
9) Người nào tố cáo sai sự thật thì người đó phạm tội vu khống.
Tội danh “Vu khống” được quy định rõ ràng tại Điều 122 của Bộ luật Hình sự. Nếu
Lê Thị Phương Anh phạm tội “Vu khống” thì Cơ quan An ninh Điều tra – CAĐN phải
xử cô theo Điều 122 BLHS. Việc các cơ quan tư pháp tỉnh Đồng Nai truy tố và xét
xử Lê Thị Phương Anh theo Điều 258 “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi
ích nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân” hoặc là không đúng
với bản chất vụ tố cáo hoặc là chưa điều tra, xét xử vụ tố cáo.
Nếu
xử Lê Thị Phương Anh về tội vu khống thì cũng phải xử Lê Anh Hùng về tội vu khống,
vì Lê Anh Hùng là 1 trong 2 người đứng đơn tố cáo. Nhưng muốn xử Lê Anh Hùng về
tội vu khống thì trước hết phải điều tra xem Lê Anh Hùng có phạm tội vu khống
hay không: chẳng hạn như phải làm việc với Lê Anh Hùng để Lê Anh Hùng cung cấp
những thông tin liên quan đến hành vi phạm tội của những nhân vật bị tố cáo,
v.v. Điều này rõ ràng là vượt quá cả thẩm quyền lẫn năng lực của Cơ quan ANĐT
Công an Đồng Nai, bởi đối tượng mà Lê Anh Hùng và Lê Thị Phương Anh tố cáo là
các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước, những người thuộc diện Bộ Chính trị quản lý.
(Theo thông lệ ở Việt Nam, muốn điều tra những nhân vật thuộc diện Bộ Chính trị
quản lý thì trước hết phải có ý kiến của Bộ Chính trị.)
10) Điều 21 Luật Tố cáo năm 2011 quy định: “Thời hạn giải
quyết tố cáo là 60 ngày, kể từ ngày thụ lý giải quyết tố cáo; đối với vụ việc
phức tạp thì thời hạn giải quyết là 90 ngày, kể từ ngày thụ lý giải quyết tố
cáo.” Như vậy, tính từ khi ĐBQH Dương Trung Quốc tiếp nhận đơn thư tố cáo của
chúng tôi cho đến khi Lê Thị Phương Anh bị bắt vào ngày 15.5.2014 là 8 tháng,
quá thời hạn phải giải quyết vụ tố cáo ít nhất là 5 tháng, mặc dù chúng tôi đã
nhiều lần đốc thúc qua ĐBQH Dương Trung Quốc.
Với
những gì nêu trên, rõ ràng việc các cơ quan chức năng suốt hơn hai năm qua vẫn
chưa giải quyết đơn thư tố cáo mà tôi đã gửi cho ông ngày 16.9.2013 là hoàn
toàn trái pháp luật. (Xin lưu ý thêm: Kể từ khi tôi bắt đầu tố cáo tội ác của
một số vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước ngày 21.4.2008 cho đến nay, các cơ quan chức
năng ở Việt Nam vẫn chưa xử lý vụ tố cáo đặc biệt nghiêm trọng này một
cách đúng pháp luật.)
Nhà
nước CHXHCN Việt Nam là một nhà nước pháp quyền; mọi tổ chức, cá nhân đều bình
đẳng trước pháp luật. Đó là điều mà nhân dân Việt Nam vẫn được nghe các vị lãnh
đạo Đảng và Nhà nước cũng như vô số báo đài thuộc hệ thống chính trị nhắc đi nhắc
lại hàng ngày.
Vì
vậy, qua lá đơn này, tôi kính đề nghị ông yêu cầu các cơ quan chức năng nhanh
chóng giải quyết đơn thư tố cáo của tôi theo đúng quy định của pháp luật hiện
hành.
Trân
trọng cám ơn ông.
Hà
Nội, ngày 2.11.2015
Lê
Anh Hùng
*Tài
liệu gửi kèm theo:
1.
Đơn
tố cáo các ông Nguyễn Tấn Dũng, Hoàng Trung Hải và Nông Đức Mạnh ngày
16.9.2013;
2.
Đơn
tố cáo Công an Đồng Nai về hành vi bắt giữ người trái phép, vi phạm luật tố tụng
và khám xét nhà tuỳ tiện ngày 10.6.2014;
3.
Kết
luận Điều tra số 06/KLĐT-PA92 ngày 31.10.2014 của Cơ quan An ninh Điều
tra - Công an tỉnh Đồng Nai;
4.
Cáo
trạng số 139/CT-VKS-P2 ngày 28.11.2014 của Viện Kiểm sát Nhân dân tỉnh
Đồng Nai;
5.
Bản
án số 12/2015/HSST ngày 12.2.2015 của Toà án Nhân dân tỉnh Đồng Nai.
Ông L.A.H. gửi BVN
Được
đăng bởi bauxitevn vào lúc 23:32
No comments:
Post a Comment