Biên
dịch: Nguyễn
Ngọc Tường Ngân | Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
Posted
on 13/11/2015 by The Observer
“Không
gì có thể tách rời chúng ta. Chúng ta là một gia đình”. Tập Cận Bình nói như vậy
sau khi trở thành chủ tịch nước đầu tiên của Trung Quốc bắt tay với một vị tổng
thống của Đài Loan. Cuộc gặp giữa ông Tập và ông Mã Anh Cửu rõ ràng là mang
tính lịch sử.
Tuy
nhiên việc ông Tập dùng từ “gia đình” nhắc tôi nhớ lại cách mà các ông trùm
mafia trong phim của Hollywood sử dụng từ này – pha trộn sự dụ dỗ lẫn đe dọa.
Thực tế là Bắc Kinh vẫn khẳng định Đài Loan là một “tỉnh nổi loạn” và có quyền
tấn công thành viên gia đình của mình nếu Đài Loan tuyên bố độc lập.
Sự
mơ hồ không kết thúc ở đó. Ở một mức độ nào đó, quyết định của ông Tập phá vỡ
chính sách tẩy chay Đài Loan hàng thập niên nay là hành động của một nhà lãnh đạo
tự tin. Tuy nhiên, sự táo bạo của vị chủ tịch Trung Quốc có thể phản ánh sự lo
lắng chứ không chỉ sự tự tin. Vì khi nhìn ra xung quanh Trung Quốc, Tập phải đối
mặt với một rừng khó khăn.
Bối
cảnh chính trị của Đài Loan đang bất lợi cho Trung Quốc. Bắc Kinh đang gặp phải
áp lực gia tăng từ Mỹ do tham vọng lãnh thổ ở Biển Đông. Ông Tập cũng gặp khó
khăn trên đất liền. Mỹ và 11 quốc gia khác đã kết thúc đàm phán về Hiệp định Đối
tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), một hiệp định thương mại vốn không bao gồm
Trung Quốc, qua đó thách thức vị trí trung tâm của nước này trong nền kinh tế
khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Trong khi đó, các cuộc biểu tình ủng hộ dân chủ
tại Hồng Kông vào năm 2014 đã để lại một di sản cay đắng cho đại lục, làm tăng
triển vọng rằng chính sách “Một Trung Quốc” của Bắc Kinh có thể cùng lúc bị thử
thách ở cả Hồng Kông lẫn Đài Loan.
Hơn
thế nữa, tất cả những điều này đang diễn ra trong bối cảnh của một nền kinh tế
trong nước tăng trưởng chậm lại, thị trường chứng khoán trồi sụt và một tầng lớp
cầm quyền của Trung Quốc đang bất an sâu sắc trước chiến dịch chống tham nhũng
của Tập.
Do
tất cả những vấn đề này, ông Tập không hề muốn diễn ra một cuộc khủng hoảng Đài
Loan mới. Quyết định gặp ông Mã của Tập diễn ra hai tháng trước cuộc bầu cử tổng
thống Đài Loan, có khả năng mang lại chiến thắng cho bà Thái Anh Văn, nhà lãnh
đạo của Đảng Dân tiến (DPP) mang tư tưởng ủng hộ độc lập, một đảng mà chính phủ
Trung Quốc e ngại. Màn bắt tay hôm thứ Bảy trông giống như một nỗ lực của ông Tập
để nâng đỡ cho Quốc Dân Đảng (KMT) của ông Mã. Nhưng DPP cho đến nay đang dẫn
trước rất xa trong các cuộc thăm dò cử tri, vì vậy nước cờ của ông Tập nhiều khả
năng sẽ thất bại.
Nếu
DPP giành quyền lực và cự tuyệt Bắc Kinh một cách rõ ràng, ông Tập có thể cảm
thấy bắt buộc phải sử dụng đến ngôn ngữ mang tính dọa nạt nhiều hơn. Đến lượt
mình, điều đó sẽ càng làm gia tăng căng thẳng an ninh với Mỹ vào thời điểm mà một
cuộc khủng hoảng mini đã diễn ra ở Biển Đông.
Trong
cuộc khủng hoảng eo biển Đài Loan gần đây nhất những năm 1995-1996, Mỹ đã gửi một
tàu sân bay đến khu vực này để đáp lại sự đe dọa quân sự của Trung Quốc đối với
Đài Loan. Kể từ đó, Bắc Kinh đã áp dụng một chiến thuật tinh vi hơn nhiều, dựa
vào các mối quan hệ kinh tế và du lịch đang mở rộng để hút “tỉnh nổi loạn” dần
trở lại quỹ đạo của mình. Việc một vị tổng thống ủng hộ độc lập được bầu lên tại
Đài Loan sẽ cho thấy chiến thuật này cũng đã thất bại.
Trong
20 năm qua, cán cân quân sự ở eo biển Đài Loan đã có thể nghiêng về phía Bắc
Kinh, nhưng lãnh đạo Trung Quốc cũng cần sự mạnh bạo mới dám kiểm nghiệm nhận định
này.
Trong
tất cả các nỗ lực để gây ảnh hưởng, lá bài mạnh nhất của Trung Quốc vẫn là sức
mạnh của nền kinh tế. Hầu như tất cả các quốc gia Đông Nam Á đều giao thương với
Trung Quốc nhiều hơn đáng kể so với Mỹ. Nhưng điều này khiến cho TPP có khả
năng đe dọa đến Trung Quốc.
Một
số nhà phân tích người Trung Quốc thậm chí còn gọi TPP là “một NATO kinh tế”,
vì họ coi đó là một liên minh nhằm mục đích rõ ràng là cô lập Trung Quốc. Mỹ
nói rằng việc Trung Quốc rốt cuộc trở thành một thành viên của TPP vẫn còn để
ngỏ. Và rõ ràng là nhiều bên tham gia TPP, trong đó có Singapore và New
Zealand, sẽ thực sự muốn Trung Quốc tham gia vào khối thương mại mới này. Họ
không thích các hệ quả kinh tế và chính trị của việc Bắc Kinh bị loại trừ.
Tuy
nhiên, Mỹ và Nhật Bản, hai thành viên lớn nhất của hiệp định, lại có nhiều hoài
nghi hơn nhiều. Một số quy định của TPP như các cam kết về lao động và pháp luật
về môi trường, cũng như không gian mạng, có thể đã được thiết kế để gây khó
khăn cho sự tham gia của Trung Quốc.
Việc
đứng ngoài TPP về lâu dài có thể làm cho Trung Quốc trở nên ít hấp dẫn hơn
trong vai trò một trung tâm sản xuất, ngay tại thời điểm khi mà chi phí tăng
cao đang làm xói mòn khả năng cạnh tranh của nước này.
Các
vấn đề như Biển Đông và TPP – dù khó khăn cho Bắc Kinh đến đâu – thì ít nhất
cũng chủ yếu là liên quan đến chính sách của chính phủ. Các vấn đề Hồng Kông và
Đài Loan lại khó đoán định hơn nhiều, và vì thế chúng trở nên nguy hiểm bởi
liên quan đến một thứ mà Bắc Kinh không thể kiểm soát: đó là công luận.
Ở
cả Hồng Kông lẫn Đài Loan, ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy giới trẻ ngày
càng có khuynh hướng không muốn tôn trọng các mệnh lệnh của Bắc Kinh. Tại Hồng
Kông, vốn bây giờ là một phần của Trung Quốc, đã diễn ra phong trào “dù vàng” hồi
năm 2014 để đòi bầu cử tự do. Tại Đài Loan cũng diễn ra phong trào “hoa hướng
dương” vốn diễn ra hồi năm ngoái để phản đối một thỏa thuận thương mại mới với
Trung Quốc.
Đây
là những vấn đề hết sức khó khăn đối với ông Tập. Nhưng đó cũng là những vấn đề
do chính Bắc Kinh tạo ra. Bằng cách cương quyết nhấn mạnh các công thức chính
trị cũ rích, chẳng hạn như “tỉnh nổi loạn” và “một quốc gia, hai chế độ”, chính
phủ Trung Quốc đã tự dồn mình vào góc tường.
Việc
gặp Tổng thống Đài Loan Mã Anh Cửu là một biểu tượng mạnh mẽ của sự linh hoạt.
Nhưng nếu ông Tập thực sự muốn kiểm soát những khó khăn chồng chất của mình,
ông cần phải thay đổi bản chất phương pháp tiếp cận của Bắc Kinh đối với Đài
Loan và Hồng Kông.
----------------
Gideon
Rachman là cây bút bình luận chính về các vấn đề quốc tế của tờ Financial
Times.
No comments:
Post a Comment