Joshua
Kurlantzick, CFR
Giới
thiệu
Nguy cơ dẫn đến đối đầu quân sự giữa Trung Quốc và
Việt Nam ngày càng gia tăng. Mặc dù hai quốc gia này đã duy trì mối quan hệ gần
gũi trong nhiều thập kỷ, thông qua hai đảng cầm quyền, từ năm 2011, cả hai đã
sa vào mâu thuẫn trong vấn đề chủ quyền ở vùng biển phía nam Trung Quốc. Chính
quyền Bắc Kinh tuyên bố 90 phần trăm diện tích vùng biển này thuộc vùng đặc quyền
kinh tế của họ. Sau đó, Trung Quốc đã nhiều lần di chuyển các giàn khoan dầu
vào khu vực tranh chấp, tiến hành nạo vét và chiếm đóng các đảo trong quần đảo
Hoàng Sa, và xây dựng ít nhất một đường băng quân sự đa năng, trong quần đảo
Trường Sa.
Việt Nam cũng đã cố gắng tận dụng hành động thăm dò
và khai thác dầu để khẳng định chủ quyền trong khu vực tranh chấp, tàu thuyền của
họ đã nhiều lần đụng độ và đâm vào tàu Trung Quốc ở đây. Chính phủ Việt Nam đã
tiến tới xây dựng quan hệ quân sự chặt chẽ với Hoa Kỳ, với các quốc gia Đông
Nam Á khác như Philippines, và cường quốc khu vực như Ấn Độ, trước cái nhìn
kinh ngạc của Trung Quốc. Ngoài ra, Việt Nam và Trung Quốc còn đang cạnh tranh
quyền ảnh hưởng đối với khu vực Đông Nam Á, nơi Việt Nam đã ngự trị giữa những
năm 1970 và cuối những năm 2000. Trung Quốc đã trở thành nhà tài trợ và đầu tư
lớn đối với nhiều quốc gia Đông Nam Á, cũng như trở thành một đồng minh quân sự
quan trọng đối với Myanmar, Campuchia, Thái Lan và Lào.
Khuynh hướng trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc ở cả Việt
Nam và Trung Quốc càng châm thêm dầu vào cuộc đua giành quyền ảnh hưởng trong
khu vực vốn đã nảy lửa này, cũng như càng đặt ra nhiều thách thức đối với các
nhà lãnh đạo mỗi nước để tình huống đối đầu trực tiếp không xảy đến, dù có hành
động châm ngòi nào diễn ra.
Những mâu thuẫn ngày càng tăng này hoàn toàn có thể
dẫn đến viễn cảnh đối đầu quân sự nghiêm trọng giữa hai nước trong vòng 12 đến
18 tháng tới, với những hậu quả tiềm tàng đáng kể đối với cả Hoa Kỳ. Như vậy,
Hoa Kỳ cần phải tìm cách xoa dịu tình hình và giúp ngăn chặn một cuộc khủng hoảng
khu vực nghiêm trọng.
Có ba kịch bản với nhiều khả năng dẫn đến một cuộc
khủng hoảng quân sự giữa Trung Quốc và Việt Nam. Sau đây là nội dung chi tiết
ba kịch bản của viễn cảnh Trung Quốc-Việt Nam đối đầu quân sự:
1.
Tình hình căng thẳng ngày càng quyết liệt trong khu vực tranh chấp lãnh thổ ở
Biển Đông. Trong thập niên 1990 và thập niên 2000, chính phủ Trung Quốc đã sử dụng
những phương pháp ít mang tính đối đầu hơn trong vấn đề tranh chấp lãnh thổ, mặc
dù họ chưa bao giờ từ bỏ yêu sách lâu dài đối với Biển Đông. Tuy nhiên, trong 5
năm qua, chính phủ Trung Quốc đã tái khẳng định yêu sách đối qua hành động
tuyên bố khoảng 90 phần trăm diện tích vùng Biển Đông là vùng đặc quyền kinh tế
của họ. Việt Nam đã phản ứng mạnh mẽ bằng việc khởi động các dự án tái khẳng định
chủ quyền ở quần đảo Trường Sa, và tại Đảo Sơn Ca (Sand Cay) và Đảo Đá Tây
(West London Reef). Ngoài ra, mặc dù vùng Biển Đông luôn giữ vai trò chiến lược
quan trọng, giá trị kinh tế của vùng biển này cũng được đánh giá ngày càng cao
trong thập kỷ vừa qua. Cục Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ ước tính rằng vùng biển này
chứa khoảng 290 nghìn tỷ feet vuông khí đốt tự nhiên. Vùng Biển Đông cũng cung
cấp khoảng một phần mười toàn bộ sản lượng cá đánh bắt được hàng năm trên toàn
cầu.
Vào tháng 5 năm 2014, Tập đoàn Dầu khí Quốc gia
Trung Quốc (CNPC) đã triển khai một giàn khoan dầu ở vùng biển tranh chấp với
Việt Nam. Lực lượng hải quân và các tàu bảo vệ bờ biển của Việt Nam đã liên tục
hoạt động trong khu vực xung quanh giàn khoan, một loạt các cuộc bạo động chống
Trung Quốc đã nổ ra ở Việt Nam. Mặc dù cuối cùng hai nước cũng xoa dịu được
tình hình, sau một thời gian căng thẳng kéo dài nhiều tuần giữa giới lãnh đạo cấp
cao Trung Quốc và Việt Nam. Một diễn biến tương tự có thể xảy ra và leo thang
trong tương lai gần; các báo cáo trong tháng 7 năm 2015 cho rằng Trung Quốc đã
bắt đầu tái triển khai một giàn khoan khác ở vùng biển đã xảy ra xung đột trong
năm 2014. Nếu CNPC muốn thăm dò một lần nữa trong khu vực này, hoặc trong các
khu vực dọc theo bờ biển Việt Nam, lần này nhiều khả năng họ sẽ triển khai giàn
khoan cùng với lực lượng bán quân sự và tàu hải quân được ngụy trang ngày càng
tinh vi. Trung Quốc cũng đã mở rộng đáng kể những cơ sở quân sự tại đảo Hải Nam
để làm căn cứ cho lực lượng hải quân ngày càng phát triển, trong khi Việt Nam
cũng bắt đầu hiện đại hóa lực lượng tàu nổi và tàu ngầm.
Khi lực lượng hải quân của họ đối mặt trong một cuộc
chiến thật sự, Việt Nam và Trung Quốc rất khó tránh khỏi thiệt hại về nhân mạng
sau những màn trao đổi hỏa lực. Chính quyền Hà Nội và Bắc Kinh có thể củng cố
quyền lực trên biển bằng nhiều khí tài hải quân, những cuộc tuần tra thường
xuyên, và những lực lượng đặc biệt. Hai nước chưa bao giờ chấp nhận một biên bản
ghi nhớ (MOU) về hướng giải quyết tranh chấp hàng hải; trong năm 2011, Hà Nội
và Bắc Kinh đã cùng ký một thỏa thuận về các nguyên tắc chung để giải quyết mâu
thuẫn trên biển, nhưng thỏa thuận này cũng không tiến xa được. Mặc dù, về mặt
lý thuyết, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) có thể hòa giải tranh chấp,
khả năng hòa giải thực tế của tổ chức này, vốn phụ thuộc vào Viện Hòa bình và
Hòa giải (Institute for Peace and Reconciliation), vẫn còn hạn chế và chưa được
kiểm chứng trong thực tế.
Nếu cả hai bên không muốn hạ nhiệt tình hình, Trung
Quốc và Việt Nam sau cùng có thể sa vào một cuộc hải chiến toàn diện, nếu giới
hạn được trong hải chiến.
2.
Trao đổi hỏa lực qua biên giới đất liền của Trung Quốc và Việt Nam. Tình hình ở biên giới đất liền Trung Quốc-Việt Nam ngày càng trở
nên căng thẳng khi các lực lượng an ninh từ cả hai phía đã nổ súng ít nhất hai
lần trong năm 2014 và 2015. Lý do dẫn đến sự việc trên vẫn chưa rõ ràng – lực
lượng biên phòng Trung Quốc có thể đã bắn vào người Duy Ngô Nhĩ vượt biên.
Nhưng rõ ràng họ đã khiến vùng biên giới ngày càng nguy hiểm hơn. Những cuộc đụng
độ xảy ra sau đấy, đặc biệt nếu trùng với những căng thẳng đang gia tăng ở những
khu vực tranh chấp khác như Vùng biển phía nam Trung Quốc hay sông Mekong, nơi
đập thủy điện của Trung Quốc hiện diện như một sự khiêu khích lớn với Việt Nam,
có thể tạo thành mồi lửa để khiến Trung Quốc và Việt Nam củng cố lực lượng quân
sự ở biên giới đất liền, làm cho những rủi ro quân sự leo thang hơn nữa.
Chính phủ Việt Nam cũng có thể lo sợ rằng nếu họ
không hành động quyết đoán trong bất kỳ kịch bản xung đột nào ở biên giới đất
liền với Trung Quốc, chính phủ nước này sẽ lâm vào nguy càng trở nên suy yếu
trong mắt các nước Đông Nam Á khác, khu vực mà Việt Nam đang cố gắng duy trì ảnh
hưởng chiến lược. Chế độ chính trị ở Trung Quốc và Việt Nam, dù là độc tài,
cũng không thể phớt lờ dư luận; công chúng Việt Nam nói riêng luôn nhạy cảm với
bất kỳ ý đồ kiểm soát biên giới đất liền nào của Trung Quốc, một phần vì người
dân Trung Quốc và Việt Nam đã phải trải qua một cuộc chiến tranh biên giới đẫm
máu năm 1979.
3.
Xung đột quân sự ngoài ý muốn trong một cuộc diễn tập quân sự bất kỳ giữa Hà Nội
với các nước đối tác chiến lược mới. Việt Nam đã bắt
đầu chuỗi hoạt động diễn tập quân sự trong nhiều hình thức với nhóm các nước đối
tác chiến lược ngày càng tăng của chính quyền Hà Nội. Trong tương lai gần, kế
hoạch diễn tập có thể sẽ bao gồm việc tập trận hải quân với Ấn Độ, Philippines,
Singapore, đến cả Hoa Kỳ và Nhật Bản. Đây là những kịch bản luôn nằm trong vòng
theo dõi chặt chẽ của Trung Quốc, ngay cả khi việc tập trận diễn ra ở những hải
phận và không phận không thuộc vùng biển phía nam Trung Quốc; bởi chính quyền Bắc
Kinh thường giữ cái nhìn thù địch với những nước đối tác mới của Việt Nam. Ví dụ,
Trung Quốc đã lên án một cuộc họp không chính thức giữa những người lính Việt
Nam và Philippines ở đảo Song Tử Đông vào tháng 5 vừa rồi. Trong tương lai, Bắc
Kinh có thể sẽ tìm cách đối phó với những cuộc tập trận chung của Việt Nam, bởi
nỗi e ngại rằng những cuộc tập trận này sẽ cản trở khả năng triển khai sức mạnh
hải quân của Trung Quốc. Bắc Kinh có thể triển khai khí tài không quân và hải
quân gần đấy, ngay cả khi việc diễn tập được tổ chức trong khu vực cách xa bờ
biển Trung Quốc hay ngoài vùng Biển Đông. Hành động tuần tra hải quân và không
quân mang tính đối đầu của Trung Quốc ở gần khu vực tập trận luôn tiềm tàng
nguy hiểm. Khả năng dẫn đến sự cố ngoài ý muốn, chẳng hạn như máy bay bay sát
nhau hoặc đâm vào nhau, hoặc tàu chiến bắn gần nhau, luôn hiện diện và ngày
càng gia tăng.
Những
chỉ báo cho cuộc xung đột
Một số dấu hiệu cảnh báo sẽ cho thấy nguy cơ dẫn đến
đối đầu quân sự đang gia tăng. Những dấu hiệu này có thể được chia thành nhóm
các chỉ báo chiến lược cho thấy quan hệ Trung Quốc-Việt Nam đang xấu đi và nhóm
các chỉ báo chiến thuật về ngắn hạn với ba tình huống bất ngờ có khả năng diễn
ra chỉ trong vài tuần. Sau đây là nhóm dấu hiệu tổng quát của những căng thẳng
ngày một gia tăng trong quan hệ giữa hai nước:
1.
Những tuyên bố chính thức trước dư luận Trung Quốc và Việt Nam. Mặc dù dư luận quốc tế không còn xa lạ gì việc Trung Quốc và Việt Nam
không cho phép giới truyền thông tiếp cận thông tin nhạy cảm của giới lãnh đạo
cấp cao, chính phủ hai nước này đã thường xuyên tổ chức họp báo để tố cáo lẫn
nhau sau khi đưa ra những tuyên bố chính thức về chủ quyền ở Biển Đông, cũng
như ở biên giới Trung Quốc-Việt Nam, và trong những vấn đề gây tranh cãi khác.
Những cuộc họp báo và hoạt động tuyên bố công khai bằng văn bản thường diễn ra
theo khuynh hướng chung là phát ngôn viên cao cấp, của cả Trung Quốc và Việt
Nam, đọc cáo trạng để lên án phía bên kia. Chính phủ hai nước cũng chẳng mặn mà
với việc tổ chức họp báo khẳng định những bước tiến tích cực trong quan hệ song
phương. Do đó, tin về một cuộc họp báo ở Bắc Kinh hay Hà Nội liên quan đến quan
hệ Trung Quốc-Việt Nam nên được xem như là một dấu hiệu phổ quát cho tình hình
mâu thuẫn ngày càng trầm trọng.
2.
Việc huy động các cuộc biểu tình. Trong ba năm qua, đã có nhiều cuộc biểu tình chống Trung Quốc với
quy mô lớn đã được tổ chức tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, thường là để phản
đối các hoạt động của Trung Quốc ở Biển Đông, nhưng cũng có khi người biểu tình
phản đối cả những yêu sách khác của Bắc Kinh. Về phía Trung Quốc, người dân
cũng đã sớm tổ chức biểu tình chống Việt Nam ở Bắc Kinh từ đầu thập niên 2010,
dù ít phổ biến hơn. Có thể giả định rằng những cuộc biểu tình công khai chống
Trung Quốc và Việt Nam được mặc nhiên hỗ trợ bởi cả hai chính phủ. Sự hiện diện
của các cuộc biểu tình chống Trung Quốc ở Việt Nam hay các cuộc biểu tình chống
Việt Nam ở Trung Quốc đều là dấu hiệu rõ ràng cho căng thẳng đang gia tăng giữa
hai nước.
3.
Thông báo về quan hệ đối tác chiến lược mới của Việt Nam. Việt Nam đang tích cực tìm kiếm để thiết lập
quan hệ đối tác gần gũi với ngay cả những cường quốc trong khu vực, chẳng hạn
như Indonesia, một quốc gia cũng đang quan ngại trước mưu đồ bá quyền của Trung
Quốc. Việc chính phủ Việt Nam khẳng định quan hệ đối tác chiến lược mới với một
quốc gia châu Á như Indonesia cũng là một dấu hiệu tiềm tàng của những chuyển động
thiên về đối đầu giữa Bắc Kinh và Hà Nội.
4.
Sáng kiến viện trợ ở Đông Nam Á của Trung Quốc. Trong 5 năm qua, Trung Quốc đã tận dụng các
chuyến thăm của giới lãnh đạo cấp cao tới các quốc gia vùng Đông Nam Á để công
bố những kế hoạch viện trợ mới. Những động thái rõ ràng đã làm chính quyền Hà Nội
lo lắng. Trong chuyến thăm Campuchia năm 2010 của Phó Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận
Bình, ông tuyên bố Trung Quốc sẽ viện trợ lượng hàng hóa trị giá 1,2 tỷ dollar
cho chính quyền Phnom Penh, ngay sau sự kiện này, giới lãnh đạo Việt Nam đã tìm
cách yêu cầu Thủ tướng Campuchia Hun Sen khẳng định mối liên kết của ông với
chính quyền Hà Nội. Tâm lý chống Trung Quốc tại Việt Nam đã tăng vọt vào thời
điểm đó, có thể một phần do khuyến khích chính thức của giới cầm quyền.
Còn
sau đây là các chỉ báo chiến thuật dự báo ba tình huống bất ngờ có thể xảy ra:
1.
Việc triển khai giàn khoan dầu vào khu vực Biển Đông/ hoặc hành động tuyên bố
chủ quyền công khai ở những vùng còn đang tranh chấp. Cả chính phủ Trung Quốc và Việt Nam đều đã tận dụng những cuộc họp
cấp cao để đưa ra tuyên bố chính thức về chủ quyền, cũng như trình bày yêu sách
về vùng Biển Đông. Họ cũng đã sử dụng các công ty dầu khí nhà nước như công cụ
để khẳng định quyền khai thác trong khu vực tranh chấp. Trong quá khứ, cả Trung
Quốc và Việt Nam đều đã nhanh chóng phản ứng trước mọi động thái thăm dò dầu
khí của phía bên kia qua việc tăng cường tuần tra tại khu vực tranh chấp hay cắt
dây cáp của tàu khảo sát. Vì vậy, những tuyên bố chính thức về chủ quyền trong
vùng tranh chấp trên hoặc thông báo về kế hoạch thăm dò mới ở Biển Đông đều là
dấu hiệu cho thấy khủng hoảng quân sự sắp xảy ra.
2.
Hành động triển khai quân gần biên giới đất liền Trung Quốc-Việt Nam. Đừng quên rằng cả Trung Quốc và Việt Nam hiện đang
thường xuyên tiến hành các cuộc tập trận quân sự ở khu vực biên giới đất liền,
mà mọi cuộc cuộc tập trận gần biên giới đều có thể châm ngòi cho xung đột trong
tương lai.
3.
Khả năng Trung Quốc sẵn sàng đáp ứng bằng vũ lực trước các cuộc tập trận theo kế
hoạch của Việt Nam và các nước đối tác mới. Những năm gần đây, máy bay chiến đấu của Trung
Quốc đã luôn sẵn sàng xuất kích để bay rất gần những máy bay nước ngoài và máy
bay chiến đấu, trong mọi không phận dù gần hay xa bờ biển Trung Quốc. Đến giờ,
Trung Quốc và Việt Nam vẫn chưa thiết lập thỏa thuận gì về nguyên tắc đối đầu
trên không, và Trung Quốc cũng chưa xây dựng thỏa thuận về đối đầu trên không với
các nước đối tác của Việt Nam, gồm cả Hoa Kỳ. Báo cáo về việc Trung Quốc cử phi
cư đánh chặn máy bay Việt Nam, đặc biệt là khi Việt Nam đang tiến hành diễn tập
với các đồng minh của Hà Nội, không thể không thể được xem là một chỉ báo chiến
thuật quan trọng.
Hết
phần I
Còn tiếp…
__________
Joshua
Kurlantzick là chuyên viên cao cấp về khu vực Đông Nam Á của
Hội đồng Quan hệ Đối ngoại (Council on Foreign Relations).
Joshua
Kurlantzick, CFR
Những
gợi ý về quyền lợi của Hoa Kỳ
Bất kỳ viễn cảnh đối đầu quân sự nào giữa Trung Quốc
và Việt Nam đều có thể gây tổn hại đến lợi ích của nước Mỹ, nhưng những thiệt hại
tiềm tàng bắt nguồn từ một cuộc xung đột hàng hải Trung Quốc-Việt Nam sẽ lớn
hơn nhiều theo cấp số nhân so với thiệt hại đến từ một cuộc xung đột ở biên giới
đất liền. Ví dụ, một cuộc khủng hoảng phong tỏa mọi tuyến đường hàng hải trên
vùng biển phía nam Trung Quốc, thậm chí chỉ trong vài ngày, có thể gây ra thiệt
hại nghiêm trọng cho nền kinh tế thế giới vì vùng biển này giữ vai trò rất quan
trọng đối với những tuyến đường hàng hải và chỉ có rất ít tuyến đường khác thay
thế được. Mỗi năm, hệ thống tuyến đường hàng hải trên vùng biển này vận chuyển
khoảng trên 5 nghìn tỷ dollar, trong đó có hơn một nửa lượng hàng hóa là khí
thiên nhiên lỏng và hơn 33 phần trăm là dầu thô.
Còn viễn cảnh xung đột ở biên giới đất liền sẽ không
đe dọa đến tự do hàng hải và thương mại trong khu vực Đông Nam Á, mặc dù vẫn có
thể ảnh hưởng đến các công ty Mỹ đang hoạt động tại Việt Nam và Trung Quốc, và
tạo ra một chấn động ảnh hưởng đến cả thị trường tài chính toàn cầu. Một cuộc đối
đầu quân sự ở biên giới đất liền, đặc biệt là khi không bên nào được xác định
là kẻ khai hỏa trước, có thể không buộc các đồng minh của Mỹ ở châu Á sa lầy
vào sự kiện này hoặc dẫn đến một cuộc đối đầu ở quy mô lớn hơn. Các nước đối
tác của Việt Nam như Philippines, Ấn Độ và Singapore hiện đang tập trung vào khả
năng hỗ trợ quân sự trong lĩnh vực hợp tác hàng hải và không có khả năng trợ
giúp Hà Nội khi xảy ra xung đột ở biên giới đất liền.
Tuy nhiên, viễn cảnh đối đầu quân sự trên vùng Biển
Đông hoặc với các nước đối tác chiến lược mới của Việt Nam có thể buộc các đồng
minh của Hoa Kỳ, như Philippines hay Nhật Bản phải vào cuộc, và khiến mọi nỗ lực
giải quyết tranh chấp lãnh thổ khác trong khu vực Đông Á càng gặp nhiều bất trắc.
Không chỉ vậy, tình huống xảy ra xung đột trên Biển Đông và Việt Nam nhiều khả
năng sẽ dẫn đến những mối quan hệ ngày càng mang tính đối đầu giữa Trung Quốc
và các quốc gia châu Á khác. Trung Quốc có thể tăng tốc độ nạo vét cát ở Biển
Đông, tốc độ xây dựng đường băng quân sự, và những hành động tương tự trong
vùng biển tranh chấp chủ quyền. Các nước châu Á như Nhật Bản, Philippines,
Indonesia, và Singapore có thể chính thức hóa và tăng cường liên kết quân sự giữa
họ, cũng như tăng chi tiêu quốc phòng để bảo đảm khả năng chống lại Trung Quốc.
Philippines, Nhật Bản, Việt Nam, có thể cả Indonesia nữa, nhiều khả năng cũng sẽ
cố gắng tăng tốc cải tạo những hòn đảo họ sở hữu trong khu vực biển tranh chấp.
Như vậy, vùng Đông Á đã và đang chứng kiến một cuộc
chạy đua vũ trang trong hải quân và không quân không ngừng phát triển trong thập
kỷ qua. Khi tình hình chạy đua vũ trang diễn ra quyết liệt hơn nữa, cùng những
hoạt động tập trận hải quân và không quân diễn ra nhiều hơn, mọi phía tham gia
cuộc đua này luôn phải đối diện khả năng ra quyết định sai lầm, thậm chí dẫn đến
đối đầu quân sự, và cả tình huống chiến tranh toàn diện.
Mặc dù tình hình chạy đua vũ trang này có thể dẫn đến
những tính toán sai lầm và nhiều khả năng tạo ra xung đột, một cuộc khủng hoảng
trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc về mặt lý thuyết lại có thể phục vụ lợi
ích của Mỹ ở châu Á. Một cuộc khủng hoảng xảy ra bởi hành động gây hấn của
Trung Quốc, và ngay sau đấy gặp phải sự đáp trả của quân đội Mỹ sẽ khiến Trung
Quốc không còn cách nào khác ngoại trừ không để xung đột leo thang, và như vậy
khiến các nước châu Á phải củng cố quan hệ quân sự với Hoa Kỳ. Các nước vốn đã
là đối tác của Mỹ như Malaysia và Singapore có thể tìm cách chính thức hóa liên
kết quân sự với Hoa Kỳ qua các hiệp ước, cũng như hạn chế hợp tác quân sự với
Trung Quốc. Còn các nước hiện có mối quan hệ quân sự hạn chế với Hoa Kỳ như
Indonesia sẽ nhanh chóng tìm cách nâng cao quan hệ quân sự.
Tuy nhiên, chính trong một kịch bản mà diễn biến mâu
thuẫn hàng hải có thể khiến các nước châu Á tăng cường quan hệ quân sự với Hoa
Kỳ, nguy cơ dẫn đến hải chiến lại không dễ xảy ra. Nếu một cuộc khủng hoảng
hàng hải nổ ra và người Mỹ phản ứng không hiệu quả, khiến xung đột kéo dài và
không ngăn được Trung Quốc rút lui theo cách họ muốn, ngay cả những đồng minh
thân cận của Mỹ sẽ tìm cách tăng cường các mối quan hệ với Trung Quốc bởi gánh
nặng chi phí để duy trì quan hệ quân sự với Washington. Nhưng ngay cả khi người
Mỹ phản ứng hiệu quả trong khủng hoảng hàng hải và khiến Bắc Kinh phải nhượng bộ,
một số nước châu Á, như Indonesia hay Malaysia, vẫn có thể tiến tới tăng cường
quan hệ quân sự với Trung Quốc và giảm hợp tác với Hoa Kỳ, bởi phán đoán rằng
có không có cách nào ngăn chặn tham vọng bành trướng trong vùng biển châu Á của
Trung Quốc về lâu dài. Và thậm chí nếu Washington đáp trả thích đáng trong viễn
cảnh khủng hoảng, và các quốc gia châu Á duy trì quan điểm quan hệ quân sự gần
gũi với Hoa Kỳ, các nước này cùng vẫn có thể tiếp tục theo đuổi tham vọng mở rộng
năng lực hải quân và không quân của họ. Như vậy, sau cùng, mọi bất trắc của bối
cảnh chạy đua vũ trang với khả năng dẫn đến những quyết định sai lầm và xung đột
leo thang ở vùng biển và bầu trời châu Á, vẫn tiếp tục tồn tại.
Giải
pháp ngăn chặn xung đột
Hoa Kỳ đang có nhiều lựa chọn để làm giảm nguy cơ xảy
ra khủng hoảng quân sự Trung Quốc-Việt Nam, mặc dù ảnh hưởng của Mỹ đối với
Trung Quốc hay thậm chí với cả Việt Nam vẫn còn hạn chế. Những giải pháp này
bao gồm chiến lược thúc đẩy hợp tác, kế hoạch tăng cường khả năng phòng thủ của
Việt Nam nhằm ngăn chặn mọi động thái đe dọa tự do hàng hải và/ hoặc lợi ích
chiến lược của người Mỹ từ Trung Quốc, và giải pháp cho phép Hoa Kỳ rút khỏi
xung đột Trung Quốc-Việt Nam mà không đe dọa lợi ích chiến lược liên quan trực
tiếp đến nước Mỹ hoặc những đồng minh của Mỹ.
1.
Chiến lược thúc đẩy hợp tác. Một bộ quy tắc
ứng xử áp dụng cho mọi tàu thuyền hoạt động trong vùng Biển Đông có thể là chiến
lược hợp tác hiệu quả nhất. Trung Quốc và các quốc gia Đông Nam Á đã tham gia
quá trình đàm phán nhằm thiết lập quy tắc ứng xử trong vùng tranh chấp chủ quyền
từ tháng 9 năm 2013. Tuy nhiên, 10 nước thành viên ASEAN khi ấy đã không thống
nhất được một bộ quy tắc ứng xử và mọi hệ thống quy ước nào tương tự. Trong các
tranh chấp khác, Trung Quốc đã từng phản ứng tích cực khi các nước ASEAN bày tỏ
được một lập trường thống nhất; từ cuối những năm 2000, khi nhiều quốc gia Đông
Nam Á phàn nàn về cách những dự án của nhóm công ty nhà nước Trung Quốc tác động
tiêu cực đến môi trường trong khu vực, nhóm công ty Trung Quốc này đã hồi đáp bằng
cách dành ngân quỹ và thời gian cho các chương trình phúc lợi xã hội. Như vậy,
Hoa Kỳ có thể làm việc với Việt Nam và các quốc gia Đông Nam Á khác để thiết lập
được bộ quy tắc ứng xử thống nhất. Nếu Trung Quốc từ chối tham gia vào tiến
trình thảo luận sâu hơn về bộ quy tắc ứng xử này, Hoa Kỳ nên khuyến khích ASEAN
phát triển các dự thảo quy ước của riêng họ và công khai tuyên bố với Bắc Kinh.
Chiến lược hợp tác khả thi thứ hai là thúc đẩy các dự
án kinh tế và khoa học của cả ASEAN và Trung Quốc ở vùng Biển Đông, chẳng hạn
như các chương trình nhằm hệ thống hóa đa dạng sinh học biển. Những dự án khoa
học được các bên tham gia tranh chấp cùng thực hiện có thể xây dựng lòng tin và
dẫn đến dự án thăm dò dầu khí chung của các nước ASEAN và Trung Quốc, như vậy
có thể làm giảm đáng kể tình trạng căng thẳng.
Chiến lược hợp tác khả thi thứ ba là khuyến khích
Trung Quốc và Việt Nam thực hiện tuần tra chung ở biên giới đất liền, dù cho ảnh
hưởng của Mỹ đối với những mâu thuẫn liên quan đến biên giới đất liền Trung Quốc-Việt
Nam là rất hạn chế. Mặc dù lực lượng biên phòng hai nước vẫn tổ chức tham vấn
thường xuyên và đôi khi trao đổi thông tin tình báo, họ không tiến hành tuần
tra chung, một hoạt động sẽ khiến giới sĩ quan cao cấp của hai phía trở nên gần
gũi hơn và giảm nguy cơ trao đổi hỏa lực qua biên giới.
2.
Răn đe Trung Quốc bằng thao diễn hải quân, hỗ trợ khí tài, tuyên bố về chính
sách của Mỹ, và tập trận chung với các đồng minh. Chiến lược phòng thủ này mang tiềm năng của một sách lược răn đe,
có thể được hiện thực hóa ở khu vực Biển Đông trong tình hình Hoa Kỳ đang khuyến
khích giải pháp mang tính hợp tác. Hoa Kỳ có thể gửi lực lượng hải quân đến những
khu vực mà Trung Quốc thường chặn lộ trình của tàu thuyền Việt Nam hoặc tàu du
lịch của các nước khác ở Biển Đông, để chứng tỏ cam kết bảo vệ tự do hàng hải.
Người Mỹ đã sử dụng một biến thể của chiến lược này khi họ điều động máy bay
B–52 đến vùng tranh chấp mà Trung Quốc tuyên bố chủ quyền và xác lập là vùng
phòng không mà không cần báo trước.
Bước thứ hai là sử dụng những tuyên bố ngoại giao
công khai và bí mật để khẳng định lập trường của Hoa Kỳ trước các đồng minh trước
tình hình ở Biển Đông. Giới lãnh đạo Hoa Kỳ có thể tuyên bố công khai rằng họ sẽ
gửi quân đội hỗ trợ các nước đồng minh nếu họ phải đối mặt với hành động tấn
công vô cớ tại Biển đông mà nhiều quốc gia cùng tuyên bố chủ quyền. Hiện nay,
các quan chức Hoa Kỳ mơ hồ chỉ ra rằng vấn đề tự do hàng hải ở Biển Đông liên
quan trực tiếp đến lợi ích quốc gia.
Cách người Mỹ tuyên bố công khai hay bí mật về tình
hình vùng Biển Đông luôn tiềm ẩn rủi ro chạm nọc Bắc Kinh và góp phần khiến
căng thẳng leo thang, nhưng ngay cả khi người Mỹ không khẳng định lập trường rõ
ràng về khu vực đang chìm trong xung đột này, Bắc Kinh vẫn đang tiếp tục hành động
nạo vét và quân sự hóa trong vùng biển tranh chấp. Trung Quốc dường như sẽ
không phải do dự nếu Hoa Kỳ vẫn giữ quan điểm nhập nhằng về tình hình Biển
Đông. Trong trường hợp các nước đồng minh của Hoa Kỳ ở vùng biển này bị tấn
công vô cớ, Hoa Kỳ gần như chắc chắn phải làm tròn bổn phận bảo vệ đồng minh,
dù trước đấy Washington có đưa ra tuyên bố rõ ràng hay không. Nếu Hoa Kỳ không
thể làm tròn trách nhiệm với đồng minh thì giới lãnh đạo quốc gia này phải chấp
nhận rằng hình ảnh Hoa Kỳ mà họ nỗ lực xây dựng như một người giám hộ cho an
ninh khu vực sẽ chịu thiệt hại nghiêm trọng.
Ngoài ra, Hoa Kỳ có thể hạn chế nguy cơ phát ngôn
làm mất lòng Trung Quốc bằng cách cảnh báo công khai các nước đối tác ở Biển
Đông – như Việt Nam, Philippines, Indonesia, và Malaysia – rằng Hoa Kỳ sẽ không
nhất thiết phải bảo vệ họ trong tình hình xung đột hàng hải nếu chính họ là kẻ
khơi mào sự việc. Chính họ sẽ châm ngòi xung đột nếu tàu của họ tấn công phủ đầu
tàu Trung Quốc hoặc chặn tàu Trung Quốc hướng vào vùng biển quốc tế.
Bước khả thi thứ ba là nâng cấp khả năng phòng thủ của
Việt Nam qua việc nước Mỹ chủ động mở rộng phạm vi bán vũ khí gây sát thương
cho chính quyền Hà Nội, gồm cả máy bay và tàu hải quân, một diễn tiến mà Quốc hội
Mỹ đã thông qua từ mùa thu năm 2014. Hoa Kỳ cũng có thể giúp Việt Nam cải thiện
khả năng quốc phòng bằng cách phát triển kế hoạch tập trận chung hằng năm giữa
hai nước. Hình thức răn đe như vậy có thể ràng buộc cả Mỹ, Việt Nam, và Trung
Quốc và hạn chế nguy cơ tính toán sai lầm. Vả lại, hành động răn đe còn có thể
phát huy hiệu quả ngăn Trung Quốc bành trướng phạm vi ảnh hưởng theo cách dễ dẫn
đến đối đầu với các nước láng giềng.
3.
Hạn chế kiểu tiếp xúc dẫn đến đối đầu ở khu vực biên giới Trung Quốc-Việt Nam. Một chiến lược có khả năng hạn chế sự can thiệp
của người Mỹ trong bất kỳ cuộc xung đột tiềm tàng hoặc xâm lấn lãnh thổ ở vùng
biên giới thuộc khu vực Đông Nam Á đất liền có khả năng là lựa chọn tốt nhất đối
với người Mỹ. Chính phủ Hoa Kỳ chỉ bị ràng buộc với các nước Đông Nam Á bởi lợi
ích chiến lược và kinh tế tối thiểu; vùng biên giới đất liền Trung Quốc-Việt
Nam chưa bao giờ giữ vai trò quan trọng đối với nền kinh tế Hoa Kỳ, và Hoa Kỳ
đã từng để các đối tác ở châu Á giải quyết tranh chấp ở biên giới đất liền mà
không cần người Mỹ tham gia.
Tuy nhiên, kiểu chiến lược hạn chế sự tham gia của
Hoa Kỳ trong viễn cảnh xung đột đất liền Trung Quốc-Việt Nam có thể làm Việt
Nam thất vọng và khuyến khích Trung Quốc hành động quyết đoán hơn trong khu vực.
Các nước đồng minh khác của Mỹ ở châu Á cũng sẽ xem đấy như một tiền lệ nguy hiểm
nếu Mỹ từ chối đáp trả sự khiêu khích của Trung Quốc. Tuy nhiên, ngay cả khi
không nhận được hỗ trợ bên ngoài, Việt Nam vẫn là một quốc gia giàu tiềm năng
và kinh nghiệm phòng vệ đất liền, và hiện tại sở hữu những điều kiện bảo vệ
vùng biên giới phía bắc tốt hơn nhiều so với khả năng bảo vệ lợi ích trên biển.
Những chính sách ngoại giao công khai và bí mật liên quan đến khu vực Biển Đông
của người Mỹ cũng có thể giúp giảm thiểu mối lo của nước đối tác châu Á rằng nếu
người Mỹ tránh tham gia xung đột đất liền thì Trung Quốc sẽ càng được thể theo
đuổi tham vọng ở Đông Nam Á.
Còn
tiếp…
__________
Joshua
Kurlantzick là chuyên viên cao cấp về khu vực Đông Nam Á của
Hội đồng Quan hệ Đối ngoại (Council on Foreign Relations).
*
Joshua
Kurlantzick, CFR
Giải
pháp giảm nhiệt tình hình
Hoa Kỳ có thể sử dụng một số biện pháp phòng ngừa để
tháo ngòi nguy cơ dẫn đến khủng hoảng quân sự. Nhóm giải pháp này – mặc dù bị hạn
chế bởi thực tế là Việt Nam không phải là một đồng minh theo hiệp ước của nước
Mỹ và khuynh hướng quan hệ Mỹ-Trung vẫn còn bất định – dao động ở mức từ các giải
pháp chiến lược củng cố quan điểm cùng hạn chế căng thẳng leo thang đến các giải
pháp mang tính cưỡng chế.
1.
Một giải pháp dựa trên tinh thần hợp tác là khuyến khích chính quyền Hà Nội và
Bắc Kinh sử dụng đường dây nóng và tiến hành họp mặt cấp
cao nhiều hơn, cũng như khuyến nghị các nước đối tác của Việt Nam ngay lập tức
tổ chức hội đàm với giới lãnh đạo cấp cao Trung Quốc. Mặc dù Trung Quốc và Việt
Nam đã thiết lập một đường dây nóng từ năm 2013 để các nhà lãnh đạo hàng đầu
nói chuyện trực tiếp với nhau, chính phủ hai nước đều phớt lờ công cụ này trong
cuộc khủng hoảng giàn khoan dàu tháng 5 năm 2014. Ngoài ra, trong vòng một
tháng sau sự kiện đấy, giới lãnh đạo cấp cao Việt Nam và Trung Quốc từ chối họp
mặt.
Nếu một biến cố nữa xảy ra ở vùng biển phía nam
Trung Quốc, có thể xuất phát từ hành động tập trận của Việt Nam, hoặc xảy ra ở
khu vực dọc theo biên giới Trung Quốc-Việt Nam, Washington nên khuyến khích cả
Hà Nội và Bắc Kinh cùng sử dụng đường dây nóng ngay lập tức; mặc dù Việt Nam
không phải là một nước đồng minh chính thức, Hoa Kỳ vẫn ảnh hưởng đến chính quyền
Hà Nội nhiều hơn bất cứ siêu cường nào khác. Nếu nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng
quân sự là những sự cố xảy ra khi Việt Nam tập trận với các nước đối tác như
Philippines hay Ấn Độ, Hoa Kỳ có thể đề xuất các quốc gia như Philippines – các
nước luôn chịu tác động trực tiếp từ quyết định của Washington – triệu tập cuộc
họp lãnh đạo cấp cao với Bắc Kinh, nếu cần thiết thì tiến hành trong bí mật, để
hạ nhiệt tình hình.
2.
Một giải pháp mang tính cưỡng chế là triệu tập phiên họp bất thường của Hội đồng
Bảo an Liên Hiệp Quốc (UN). Nếu viễn cảnh
khủng hoảng quân sự Trung Quốc-Việt Nam bắt nguồn từ một trong ba kịch bản dẫn
đến xung đột nêu trên và phát triển đến mức gây ra thiệt hại về nhân mạng, Hoa
Kỳ nên thúc giục Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc triệu tập một phiên họp khẩn cấp của
Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc. Hiện tại, ASEAN không thể làm trung gian hòa giải
những cuộc khủng hoảng liên quan đến Hà Nội vì Tổng Thư ký ASEAN đương nhiệm là
một nhà ngoại giao Việt Nam. Còn Trung Quốc có thể xem việc triệu tập cuộc họp
bất thường của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc là một hành động có chủ ý công
khai làm nhục chính quyền Bắc Kinh, nhưng Washington cần phải quyết định dứt
khoát để Bắc Kinh và Hà Nội thấy rằng mục tiêu của động thái này là tạo ra địa
điểm để thảo luận. Vả lại, trong một phiên họp như vậy, Hoa Kỳ và các quốc gia
khác có quyền kêu gọi một trong hai hoặc cả hai bên tham gia xung đột chất dứt những
động thái khiến tình hình căng thăng hơn hoặc chấp nhận bị xử phạt, mặc dù
Trung Quốc luôn có thể sử dụng quyền phủ quyết để ngăn chặn bất kỳ giải pháp
nào mà quốc gia này không chấp nhận.
3.
Một giải pháp mang tính cưỡng chế khác là Hoa Kỳ gửi tín hiệu cam kết đến Việt
Nam. Nếu một cuộc khủng hoảng quân sự phát sinh từ
những động thái quyết liệt và không bị khiêu khích của Trung Quốc ở Biển Đông,
hoặc từ một phản ứng của Trung Quốc trước một cuộc tập trận chung của Mỹ và Việt
Nam, dẫn đến thiệt hại về nhân mạng và đe dọa tự do hàng hải, và mọi giải pháp
nhằm giảm nhiệt tình hình đều vô dụng, Washington có thể triển khai một nhóm
tàu sân bay đến vùng Biển Đông để buộc giới lãnh đạo của Bắc Kinh chấp nhận hội
đàm với giới lãnh đạo Việt Nam cùng một bên trung gian hòa giải để giải quyết
tranh chấp.
Kiến
nghị
Sau đây là nhóm chiến lược hiệu quả nhất giảm thiểu
được nguy cơ dẫn đến viễn cảnh đối đầu quân sự giữa Trung Quốc và Việt Nam mà
người Mỹ có thể đề xuất: sử dụng tổ chức ASEAN để thúc đẩy quá trình xây dựng
niềm tin đa phương trong vùng Biển Đông, thúc đẩy quá trình kiến thiết và minh
bạch hóa văn bản hướng dẫn để giải quyết tranh chấp hàng hải, chính phủ Hoa Kỳ
khẳng định rõ lập trường đối với các nước đồng minh chính thức đang dính vào cuộc
khủng hoảng tranh chấp lãnh thổ ở biển Nam Trung Hoa, tăng cường khả năng phòng
thủ của Việt Nam và các nước Đông Nam Á khác để ngăn chặn động thái ngày càng
quyết liệt của Trung Quốc trong vùng biển tranh chấp, và người Mỹ hạn chế tham
gia xung đột ở khu vực biên giới đất liền Trung Quốc-Việt Nam.
Mặc dù việc người Mỹ áp dụng chiến lược rộng quan hệ
đối tác với Việt Nam có nguy cơ bị chính phủ Trung Quốc xem là một “chính sách
ngăn chặn”, chính phủ Hoa Kỳ cần phải nhấn mạnh rằng họ làm vậy không phải để
tìm cách ngăn chặn quá trình Trung Quốc bành trướng thế lực trên khắp châu Á, bằng
chứng là Hoa Kỳ vẫn đang hạn chế hợp tác quốc phòng với Việt Nam trong lĩnh vực
hải quân. Cụ thể hơn, Hoa Kỳ cần phải thực hiện các bước sau đây:
Tăng cường khả năng hòa giải của ASEAN. Khi một nhà
ngoại giao không phải người Việt Nam tiếp nhận vai trò Tổng Thư ký ASEAN vào
năm 2018, ASEAN có thể đóng vai trò trung gian hòa giải giữa Trung Quốc và Việt
Nam. Còn Việt Nam, một trong những thành viên mới của ASEAN, nên củng cố tư
cách thành viên trong tổ chức này và phấn đấu để được nhìn nhận như là đất nước
đang đóng góp tích cực để xứng đáng với vai trò lãnh đạo ASEAN. Hoa Kỳ nên khuyến
khích các hoạt động hòa giải thông qua Tổng thư ký ASEAN và giúp tăng cường
năng lực của Ban thư ký ASEAN trong việc thực hiện hòa giải. Hoa Kỳ cũng nên viện
trợ khoảng từ 2 triệu đến 4 triệu dollar hàng năm để giúp Viện Hòa bình và Hòa
giải thuê thêm nhân viên và gửi họ đến các nước có kinh nghiệm làm trung gian
hòa giải xung đột ở khu vực Đông Nam Á, như Na Uy, để tìm hiểu phương pháp.
Khuyến khích Trung Quốc và Việt Nam tiến tới chuẩn
hóa biên bản ghi nhớ về quy tắc ứng xử trong vùng biển tranh chấp để giải quyết
mâu thuẫn. Hoa Kỳ nên khuyến khích cả Trung Quốc và Việt Nam nối lại đàm phán để
thống nhất được bộ quy tắc ứng xử này.
Thiết lập một quy ước quản lý ở vùng Biển Đông như một
yếu tố ưu tiên trong chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ. Giới quan chức Mỹ, trong
đó có Tổng thống Barack Obama, nên tận dụng những chuyến viếng thăm các nước
Đông Á để khẳng định rằng người Mỹ sẽ hỗ trợ cho quá trình đàm phán giữa Trung
Quốc và ASEAN về vấn đề quy ước quản lý ở khu vực Biển Đông. Đại sứ Hoa Kỳ tại
ASEAN cần xác lập một vị trí rõ ràng của ASEAN trong quy ước quản lý như một ưu
tiên hàng đầu trong sứ mệnh của bà ấy.
Làm rõ vị trí của Mỹ như người giám hộ các nước đối
tác ở khu vực Biển Đông. Hoa Kỳ nên dựa vào các báo cáo công khai mà xác định
rõ hơn các cam kết bảo vệ lực lượng Philippines tại khu vực tranh chấp nếu họ bị
tấn công vô cớ.
Mở rộng quan hệ quốc phòng Hoa Kỳ-Việt Nam. Hoa Kỳ cần
phải mở rộng quyền tiếp cập của các tàu hải quân Hoa Kỳ đối với quân cảng Cam
Ranh và tăng số lượng chương trình đào tạo cho giới sĩ quan cao cấp của Việt
Nam, để chuẩn bị cho những cuộc tập trận hải quân Mỹ-Việt Nam trong tương lai.
Mục tiêu đẩy mạnh đào tạo sĩ quan có thể được thực hiện bằng cách tăng gấp đôi
số lượng người Việt ghi danh trong chương trình Giáo dục và Đào tạo Sĩ quan Quốc
tế (International Military Education and Training programs) đến năm 2020, cũng
như bằng cách mời nhiều hơn các sĩ quan cao cấp của Việt Nam chứng kiến hoạt động
tập trận đa quốc gia Hổ Mang Vàng (Cobra Gold) được tổ chức hàng năm tại Thái
Lan. Hoa Kỳ cũng nên tăng cường bán vũ khí gây sát thương cho Việt Nam, mặc dù
loại khí tài nên được giới hạn trong hải quân và không quân. Chính quyền Obama
có thể thiết lập một nhóm làm việc liên ngành để phê duyệt việc bán vũ khí cho
Việt Nam trong một hoặc hai năm đầu tiên, theo dõi doanh số bán hàng để đảm bảo
rằng quân đội Việt Nam không sử dụng những vũ khí này để đàn áp thường dân Việt
Nam.
Tăng cường mối quan hệ với các nước Đông Nam Á khác.
Hoa Kỳ nên tăng cường hoạt động răn đe ở Biển Đông bằng chính thức hóa và mở rộng
các mối quan hệ vốn đã thân cận với Singapore và Philippines. Hoa Kỳ cũng nên dựa
vào Luật Tăng cường Hợp tác Quốc phòng 10 năm ký kết từ năm 2014 giữa
Washington và Manila để tăng cường quy mô của các cuộc tập trận chung giữa Mỹ
và Philippines với tên gọi Balikatan được tổ chức hàng năm với khoảng 11 ngàn
người tham gia hiện nay lên đến 20 ngàn người tham gia trong năm 2020, cũng như
để cải thiện khả năng tương tác của các lực lượng quân sự Philippines. Đối với
Singapore, Hoa Kỳ nên làm việc trong bí mật với chính phủ Singapore về khả năng
ký kết một hiệp ước liên minh chính thức.
Gửi thông điệp đến Hà Nội rằng Hoa Kỳ sẽ không tham
gia vào xung đột ở biên giới đất liền của quốc gia này. Hoa Kỳ cần phải ra hiệu
cho Hà Nội thấy rằng quá trình hợp tác chiến lược Mỹ-Việt Nam sẽ không bao gồm
việc người Mỹ hỗ trợ Việt Nam phòng thủ biên giới – trừ trường hợp Việt Nam bị
tấn công vô cớ trên đất liền – bằng cách giới hạn các cuộc tập trận chung Mỹ-Việt
Nam trong tương lai trong hình thức tập trận hải quân và không quân ở Biển
Đông.
(Hết)
©
2007-2015 Bản tiếng Việt TẠP CHÍ PHÍA TRƯỚC – www.phiatruoc.info
No comments:
Post a Comment