Nguyễn Quang Dy
Viet-studies ngày
16-10-15
Nếu chuyến thăm Mỹ gần đây của ông Tập Cận Bình làm
nổi bật quan hệ Trung-Mỹ đang xấu đi, và chuyến thăm Việt Nam sắp tới của ông
làm rõ hơn quan hệ Trung-Việt đang căng thẳng, thì chuyến thăm Việt Nam vào cuối
năm nay của ông Barack Obama sẽ làm nổi bật quan hệ đối tác Mỹ-Việt đang xích lại
gần nhau. Dù tốt lên hay xấu đi, thì chuyển động trong quan hệ tay ba này đang
định hình lại bức tranh địa chính trị tại Biển Đông, và tác động đến quá trình
cởi mở chính trị tại Việt Nam. Bởi vì sự trỗi dậy đầy thách thức của Trung Quốc
đang đe dọa an ninh khu vực Đông Á, nên Nhật Bản và các nước khác buộc phải chạy
đua vũ trang và liên kết chặt chẽ hơn với Mỹ, trong một trò chơi quyền lực đầy
nguy hiểm.
Biển
Đông không của riêng ai
Trước chuyến thăm Mỹ của ông Tập Cận Bình, có một số
diễn biến đáng lưu ý. Trong khi thái độ của Washington muốn hòa hoãn (để tránh
đối đầu) thì thái độ của Bắc Kinh lại càng cứng rắn. Trung Quốc không hề giảm
nhịp độ xây dựng sân bay và hạ tầng quân sự trên các đảo nhân tạo tại Biển
Đông, bất chấp phản đối của Mỹ và các nước khác. Những hình ảnh vệ tinh mà CSIS
cung cấp kịp thời (trong khi ông Tập thăm Mỹ) đã chứng minh rõ.
Trước đó, Bắc Kinh còn cho 5 tàu chiến đến ngoài
khơi Alaska (nơi tổng thống Obama đang đến thăm) để thách thức và thử gân ông
Obama. Máy bay chiến đấu của Trung Quốc đã bay ngang chặn đường máy bay trinh
sát của Mỹ trên không phận biển Hoa Đông. Cả hai lần, Nhà Trắng đã lờ đi không
muốn làm to chuyện. Cho đến gần đây, Nhà Trắng vẫn chưa cho Bộ Quốc Phòng điều
tàu chiến đến tuần tiễu (để khẳng định quyền tự do hàng hải) trong phạm vi 12 hải
lý xung quanh các đảo nhân tạo mà Trung Quốc đang xây hạ tầng quân sự, vì ông
Obama không muốn gây ra sự cố nào trước chuyến thăm của ông Tập Cận Bình.
Nhưng thái độ hòa hoãn của Washington có thể phản
tác dụng. Thứ nhất, nó có thể làm cho đồng minh và bạn bè hoang mang, mất lòng
tin vào Mỹ. Lãnh đạo Hà Nội đã bị ám ảnh bởi mối lo Trung Quốc và Mỹ có thể “đi
đêm” thỏa thuận ngầm với nhau sau lưng Việt Nam. (Điều này đã từng xảy ra trong
quá khứ). Thứ hai, nó có thể làm cho Bắc Kinh ngộ nhận rằng ông Obama mềm yếu
không dám hành động (vì sắp hết nhiệm kỳ), nên Bắc Kinh càng tranh thủ cơ hội để
lấn sân và biến những gì còn đang tranh chấp thành chuyện đã rồi.
Vì vậy, tại buổi họp báo chung ở Nhà Trắng
(25/9/2015) trước mặt tổng thống Obama và giới truyền thông quốc tế, ông Tập
không ngần ngại lớn tiếng khẳng định“Các quần đảo ở Nam Hải từ thời cổ đại
là lãnh thổ của Trung Hoa”. Thái độ ngang ngược bất chấp luật pháp
này tự mâu thuẫn với bài diễn văn ông Tập đọc tại LHQ ngay sau đó, với những lời
lẽ hoa mỹ, “Những nước lớn, mạnh, giàu không nên hiếp đáp các nước nhỏ, nghèo
và yếu”.
Bà Clinton nói không oan rằng ông Tập “đạo đức giả”
và “không biết xấu hổ” (shameless) khi đề cập đến vấn đề nữ quyền. Về vấn đề Biển
Đông cũng như vậy. Thái độ hai mặt (nói một đằng làm một nẻo) là một "đặc
sản Trung Hoa".
Trong quan hệ với Việt Nam, Trung Quốc luôn ngạo mạn
và bắt nạt (như thiên triều đối với chư hầu). Ví dụ, gần đây Bắc Kinh ngầm dọa
Hà Nội là nếu không thôi chỉ trích Trung Quốc xây đảo nhân tạo tại Biển Đông,
thì ông Tập Cận Bình có thể bỏ chuyến đi thăm Việt Nam vào tháng này (mặc dù họ
biết nếu bỏ sẽ bất lợi cho Trung Quốc). Họ còn nói nhỏ với lãnh đạo Việt Nam là
họ không muốn ngoại trưởng Phạm Bình Minh được vào Bộ Chính Trị.
Chính thái độ và cách hành xử đó của Trung Quốc đang
xô đẩy Việt Nam càng gần hơn với Mỹ. Dường như Trung Quốc vẫn chưa học được
bài học Miến Điện. Có thể nói quá trình “Miến Điện hóa” (Myanmarization) đang
diễn ra trong quan hệ Trung-Việt. Trên thực tế, quá trình “Thoát Trung” đã được
đẩy mạnh kể từ khi Trung Quốc đem giàn khoan HD-981 vào Biển Đông, gây sốc và
làm vỡ mộng cả những người thân Trung Quốc trong lãnh đạo Hà Nội. Đó là một bước
ngoặt lớn, như một “hệ quả không định trước” (unintended consequence)
Thoát
Trung như thế nào
Muốn “Thoát Trung” thì trước hết phải thoát ra khỏi
“cái bẫy ý thức hệ” (ideological trap) đã trói buộc số phận Việt Nam với Trung
Quốc mấy thập kỷ nay (đặc biệt là sau Thỏa thuận Thành Đô, 1990); phải thoát ra
khỏi “cái bẫy lệ thuộc kinh tế” (economic dependency trap). Muốn “Thoát Trung”
về kinh tế thì tự mình phải mạnh lên bằng cách thay đổi thể chế, và liên kết
kinh tế với Mỹ-Nhật (thông qua sân chơi mới TPP và Tầm nhìn Đông Á).
Nếu Việt Nam tiếp tục đi với Trung Quốc thì phải lệ
thuộc và nghe theo Trung Quốc, không được chơi với Mỹ và Phương Tây (họ dùng
chiêu bài “diễn biến hòa bình” để dọa); không được dân chủ hóa mà phải duy trì
chế độ độc tài, độc đảng (giống như Trung Quốc); và không được dùng ASEAN làm đối
trọng với Trung Quốc tại Biển Đông…
Nếu đi với Mỹ thì Việt Nam vẫn có thể chơi với Trung
Quốc (nhưng bình đẳng và độc lập hơn); Việt Nam không cần phải thay đổi chế độ
(nhưng phải dân chủ hóa); Việt Nam sẽ có vai trò và lợi ích lớn hơn trong ASEAN
và Đông Á (với sân chơi mới TPP). Đi với Mỹ không có nghĩa là để chống Trung Quốc,
mà chỉ để “tái cân bằng” một quan hệ “mất cân bằng”.
Muốn hay không, quá trình này đang diễn ra rồi. Hà Nội không có nhiều sự lựa chọn. Cánh của cơ hội có thể mở ra, có thể khép lại. Thời cơ và thời điểm là rất hệ trọng. Hà Nội đã từng đánh mất những thời cơ vàng vào những thời điểm hệ trọng đối với vận mạng quốc gia. Từ nay đến cuối năm 2015 là một thời cơ và thời điểm như vậy. Liệu lịch sử có lặp lại hay không, và Việt Nam có đánh mất cơ hội một lần nữa hay không?
Tại lề Đại Hội đồng LHQ ở New York (28/9/2015) chủ tịch
Trương Tấn Sang đã lên tiếng đáp lại tuyên bố ngang ngược của ông Tập Cận
Bình, khẳng định hành động xây đảo nhân tạo của Trung Quốc ở Biển Đông là
vi phạm luật pháp quốc tế và ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh và an toàn hàng
hải. Đây là một dấu hiệu chuyển biến tích cực mới của lãnh đạo Hà Nội, ngay sau
khi ông Obama gặp ông Tập Cận Bình (25/9/2015). Có lẽ lãnh đạo Hà Nội đã thở
phào vì thấy Mỹ đã không “đi đêm” với Trung Quốc (như Hà Nội vẫn lo sợ).
Tiếp theo chuyến thăm Mỹ chính thức của chủ tịch
Trương Tấn Sang (24-26/7/2013) và của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng
(6-10/7/2015), có lẽ chuyến thăm Mỹ lần này của ông Tập Cận Bình đã góp phần
thúc đẩy Mỹ và Việt Nam xích lại gần nhau hơn. Điều đáng nói là không phải chỉ
có phái cải cách, mà cả phái bảo thủ cũng đang chuyển thái độ. Trong bối cảnh
hiện nay, hãy ủng hộ xu hướng nào đỡ xấu hơn cho đất nước. Đây là lúc các bên
nên dẹp bớt ân oán để hợp tác, từng bước thay đổi thực trạng, đặt lợi ích dân tộc
lên trên lợi ích cá nhân và phe nhóm, trước nguy cơ mất hết chủ quyền biển đảo
và Bắc thuộc.
Hình như lãnh đạo Hà Nội tự tin hơn, đã quyết định họp
Hội nghị Trung Ương 12 sớm hơn dự kiến, để bàn về nhân sự cho Đại hội (mà không
chờ ông Tập Cận Bình sang thăm). Tuy quyết định cuối cùng về 4 vị trí cao nhất
(còn gọi là “Tứ Trụ”) vẫn chưa ngã ngủ, phải chờ đến Hội nghị Trung Ương chót
(phút 89), nhưng dù dàn xếp thế nào thì xu hướng đã khá rõ. So sánh thực lực sẽ
thấy dù có phải thỏa hiệp, thủ tướng sẽ thâu tóm thực quyền. Tuy còn nhiều đồn
đại, hỏa mù, hay bất ngờ vào phút chót, nhưng xu hướng này khó lòng đảo ngược.
Một dấu hiệu mới là chỉ vài ngày sau khi kết thúc cuộc
gặp Tập Cận Bình và Obama, báo chí nhà nước đã đưa tin Tòa án nhân dân Hà Nội
công khai xét xử vụ một nhà báo bị truy tố về tội danh “làm gián điệp” (có liên
quan đến cơ quan tình báo Trung Quốc). Tuy còn những dấu hiệu khác, nhưng đó là
một dấu hiệu rõ ràng nhất (mà trước đây không thể có).
Đồng
sàng dị mộng
Trên thực tế, chuyến thăm Mỹ của ông Tập Cận Bình có
ba mục tiêu chính, mục tiêu nào cũng quan trọng, nhưng kết quả có thể khác
nhau. Thứ nhất là đến Seattle nơi ông Tập gặp 15 CEO của các công ty công nghệ
hàng đầu của Mỹ (Business Summit). Thứ hai là đến Washington DC nơi ông Tập gặp
tổng thống Obama (Political Summit). Thứ ba là đến New York nơi ông Tập phát biểu
tại Đại Hội đồng LHQ (UN Summit).
Đáng lưu ý là chương trình tại Seattle do Paulson
Institute bố trí. Ông Hank Paulson là cựu chủ tịch Goldman Sachs trước khi làm
bộ trưởng tài chính (thời chính quyền Bush). Ông Paulson và các đồng nghiệp phố
Wall đã từng giúp Trung Quốc cải tổ hệ thống ngân hàng (như mua 10% Bank of
China và giúp niêm yết trên sàn chứng khoán HK). Có thể nói Trung Quốc trở
thành cường quốc kinh tế lớn thứ hai thế giới là nhờ một phần vào sự hợp tác và
tiếp tay của giới kinh doanh Mỹ. Nay muốn tháo gỡ khó khăn kinh tế, hai bên tiếp
tục phụ thuộc lẫn nhau (dù muốn hay không) như một “cái bẫy” kinh tế
(co-dependancy trap).
Hợp tác Trung-Mỹ là một "đám cưới tiện lợi"
(marriage of convenience) chứ không phải do tình yêu (vì hai chế độ rất khác biệt),
vì vậy nó không thể lâu bền. Người Mỹ hy vọng cứ làm ăn với nhau (theo lộ trình
“constructive engagement”) rồi người Trung Quốc sẽ dần dần thay đổi (như kinh
nghiệm với người Nhật). Nhưng đến nay người Mỹ bắt đầu thất vọng, vì
không hiểu được người Trung Quốc (lại càng không hiểu được ông Tập Cận Bình là
ai).
Chính người Mỹ đã hợp tác đắc lực giúp ông Tập Cận
Bình đối phó với các đối thủ chính trị như Bạc Hy Lai và Chu Vĩnh Khang (được
Giang Trạch Dân hậu thuẫn), qua vụ Vương Lập Quân chạy vào lãnh sự quán Mỹ tại
Thành Đô (7/2/2012), đem theo nhiều bí mật quốc gia. Người Mỹ đã cộng tác với
người Trung Quốc không phải chỉ về kinh tế, mà cả an ninh chính trị. Ông Tập
không thể thoát hiểm, để mạnh tay “đả hổ diệt ruồi” như vậy, nếu không có người
Mỹ hỗ trợ. Thế mà hai bên vẫn không hiểu nhau thì đúng là “đồng sàng dị mộng”.
Người ta ví ông Obama và Tập Cận Bình đối thoại với
nhau như hai người máy được vận hành bởi hai hệ điều hành khác hẳn nhau. Đến
bây giờ người Mỹ mới nhận ra điều này có lẽ là quá muộn và hơi ngây thơ. Ngay từ
năm 1995, ông Nixon trước khi qua đời đã thừa nhận một sự thật trần trụi, “Có lẽ
chúng ta đã tạo ra một con quái vật Frankenstein”.
Tuy chủ trương “tham dự có tinh thần xây dựng”
(constructive engagement) vẫn còn đất sống, nhưng nó bị chỉ trích ngày càng nhiều
và đang được thay thế bằng chủ trương “xoay trục sang Châu Á” hay “tái cân bằng
chiến lược” (strategic rebalancing), với nội hàm là “ngăn chặn Trung Quốc”
(containing China). Nhưng vì Mỹ và Trung Quốc bị mắc kẹt trong “cái bẫy” phụ thuộc
lẫn nhau về kinh tế, nên quan hệ Trung-Mỹ đầy mâu thuẫn và nan giải. Cuộc hôn
nhân vụ lợi có thể dẫn đến kết cục đổ vỡ một cách đau đớn. Điều đáng chú ý là
khi hai con voi làm tình hay đánh nhau, những kẻ yếu hơn bên cạnh phải rất thận
trọng.
Xu hướng đang diễn ra ở cả Mỹ và Trung Quốc là người
ta chỉ chú ý đến những yếu tố tiêu cực chứ không còn quan tâm đến những yếu tố
tích cực trong quan hệ hai nước. Đà suy thoái trong quan hệ đối tác giữa hai nước
lớn này rất đáng lo ngại, nhưng những bế tắc không được tháo gỡ trong dịp gặp cấp
cao vừa qua. Trong chính quyền cũng như trong quốc hội, người ta đang tìm lý do
để trả đũa Trung Quốc, trong vấn đề thâm hụt cán cân thương mại (mỗi ngày một tỷ
USD) cũng như vấn đề tấn công mạng (cyberhacking).
Không biết ông Kissinger có tính trước được hệ quả
này hay không, nhưng cái bóng dài của ông ta vẫn còn phủ lên chính sách Trung
Quốc của Mỹ. Mỗi khi đề cập đến Trung Quốc, không thể thiếu được ông Kissinger
(như là “bố già”). Điều này được minh họa bằng tấm hình chụp ngoại trưởng John
Kerry phát biểu trong bữa tiệc chiêu đãi ông Tập Cận Bình, trong đó “bố già”
Kissinger ngồi hàng ghế đầu như một cây đại thụ.
Kết quả của “business summit” tại Seattle phản ánh
hai sự thật khác nhau về quan hệ Trung-Mỹ. Một là, hai bên vẫn cần nhau (vì cái
bẫy kinh tế). Hai là, hai bên không thể nói chuyện được với nhau (vì hai hệ điều
hành khác hẳn nhau). Hai bên đã có một cơ hội tuyệt vời để đối thoại một cách cởi
mở và xây dựng (do sự dàn xếp khéo léo của ông Hank Paulson). Nhưng ông Tập đã
không tận dụng được cơ hội này. Trong khi 15 CEO Mỹ (đại diện cho $2.5 trillion
tài sản) đến dự và tưởng sẽ được đối thoại cởi mở, thì ông Tập chỉ bắt tay, chụp
ảnh kỷ niệm, đọc một bài diễn văn 10 phút, rồi…phắn! Chắc ông Hank Paulson rất
buồn.
Cuộc gặp “thượng đỉnh” giữa tổng thống Barack Obama
và chủ tịch Tập Cận Bình (đại diện hai cường quốc mạnh nhất hành tinh) mà hai
bên trông đợi và chuẩn bị rất công phu, cũng không giải quyết được bế tắc nào.
Nó giống như một màn kịch được dàn dựng công phu nhưng kết thúc bằng
“anti-climax” (mà không bên nào “lên đỉnh”).
Tại LHQ, ông Tập Cận Bình đã diễn xuất một cách khá ấn
tượng bằng những lời hoa mỹ trong một bài diễn văn rất mỵ dân, và bằng một kiểu
ngoại giao “ký séc” (checkbook diplomacy) mà trước đây người Nhật đã nổi tiếng.
Ông Tập đã cam kết đóng góp 1 tỷ USD cho quỹ phát triển TQ-LHQ (China-UN
Development Fund), 100 triệu USD cho African Union để ứng phó với các trường hợp
khẩn cấp, và 8000 quân cho lực lượng gìn giữ hòa bình LHQ…
Chính sách ngoại giao dùng tiền để mua chuộc lòng
người và xây dựng uy tín quốc tế vẫn còn tác dụng trong một thế giới đang khủng
hoảng kinh tế. Nhưng về lâu dài, dùng tiền và sức mạnh để mua chuộc lòng người
(charm offensive) không hiệu quả. Hiện nay, Trung Quốc có rất nhiều tiền và sức
mạnh cứng, nhưng đáng tiếc lại thiếu sức mạnh mềm. Tại sao 64% người trung Quốc
có tài sản trên 1,6 triệu USD đã hoặc định di cư khỏi Trung Quốc? (Elizabeth
Economy). Xu hướng này là gót chân Asin của Trung Quốc.
Khi
mặt trời mọc lại
Có hai sự kiện sẽ đi vào lịch sử như bước ngoặt làm
thay đổi cục diện địa chính trị tại khu vực Đông Bắc Á và Đông Nam Á. Thứ nhất
là Trung Quốc biến tranh chấp quần đảo Điếu Ngư (Senkaku islands) thành khủng
hoảng quan hệ Trung-Nhật, áp đặt “khu vực nhận diện phòng không” (ADIZ) tại biển
Hoa Đông (23/11/2013). Thứ hai là Trung Quốc đặt giàn khoan HD-981 tại vùng
lãnh hải của Việt Nam tại Biển Đông (1/5/2014), xây đảo nhân tạo và hạ tầng
quân sự, gây ra khủng hoảng quan hệ Trung-Việt và xung đột lợi ích
Trung-Mỹ.
Hệ quả của các hành động vũ đoán này của Trung Quốc
dường như không thể tính trước được (“unintended consequences”). Có lẽ Trung Quốc
không hề muốn thúc đẩy Nhật Bản thay đổi hiến pháp để tái vũ trang, và cũng
không định xô đẩy Việt Nam trở thành đồng minh của Mỹ. Trước đây, nhắc đến Nhật
Bản tái vũ trang và quân sự hóa là một điều cấm kỵ, không những đối với các nước
láng giềng, mà còn đối với cử tri Nhật. Không một chính khách Nhật nào dám cả
gan và dại dột như vậy, vì điều đó đồng nghĩa với tự sát chính trị.
Nhưng hiện nay chính điều đó đang diễn ra, biến điều
không thể thành có thể, biến điều cấm kỵ thành chính đáng và được hoan nghênh.
Thủ tướng Abe sẽ đi vào lịch sử như là thủ tướng đầu tiên của Nhật từ sau Đại
chiến II đã làm được một điều phi thường là thay đổi hiến pháp để tái vũ trang,
mở đường cho Nhật trở thành một cường quốc quân sự ở Đông Á. Tuy đây là ác mộng
đối với Trung Quốc, nhưng chính sự đe dọa của Trung Quốc mới làm được điều này.
Có lẽ người Nhật phải cám ơn người Trung Quốc đã tháo xích cho nước Nhật.
Nhưng có một lý do nữa đã thúc đẩy người Nhật ủng hộ
ông Abe trong quá trình cải cách hiến pháp để tái vũ trang, đó chính là “tiếng
kèn ngập ngừng” của người Mỹ. Mặc dù chính quyền Obama nhận thức được sự trỗi dậy
đầy thách thức của Trung Quốc đang đe dọa lợi ích của Mỹ và đồng minh ở Đông Á,
và đang triển khai chính sách “xoay trục sang Châu Á” để cân bằng chiến lược và
ngăn chặn Trung Quốc, nhưng hành động của Mỹ lại ngập ngừng, thiếu nhất quán
làm đồng minh lo ngại. Đã đến lúc Nhật Bản phải tự lo cho mình.
Trong khi một số nước trong khu vực sợ cái gậy (hay
cần củ cà rốt) của Trung Quốc, nên phải có thái độ hai mặt, thì một số nước
khác đẩy mạnh tái vũ trang và thúc đẩy quan hệ đối tác chiến lược với Mỹ để làm
đối trọng với Trung Quốc. Vì ASEAN yếu và chia rẽ trước sự thao túng của Trung
Quốc, nên cần một cơ chế an ninh tập thể mới ở Đông Á, trong đó Nhật Bản là nước
có vai trò đầu tàu. Nói cách khác, vì Trung Quốc giơ gậy đe dọa và Mỹ lại chơi
kèn ngập ngừng, làm Nhật lo ngại bức xúc, nên Mặt trời đang mọc lại ở Đông Á.
Trong bối cảnh đó, tam giác Mỹ-Trung-Việt càng trở
nên nhạy cảm, không những ở Biển Đông mà còn ở cả khu vực Đông Á. Muốn tam giác
Mỹ-Trung-Việt chuyển đổi theo hướng tích cực (Mỹ-Việt gần nhau hơn) để duy trì
an ninh khu vực, thì cần sự hỗ trợ của một cơ chế an ninh tập thể mới ở Đông Á
hiệu quả hơn ASEAN. Cơ chế này có thể bao gồm 5 nước thành viên nòng cốt
(Japan, Korea, Vietnam, the Philippines, Indonesia) và 3 đối tác chiến lược
(America, Australia, India) để hình thành một cơ chế mở: “5+3 security
partnerships”.
Hãy
cùng xoay trục
Muốn “xoay trục” để thoát Trung và tái cân bằng quan
hệ với các nước lớn, Việt Nam phải dựa vào một liên minh mới do Mỹ-Nhật đứng đầu
tại Đông Á, để làm đối trọng với Trung Quốc. Vai trò của Nhật tại Đông Á sẽ
ngày càng quan trọng hơn, không những về hợp tác kinh tế, mà còn về hợp tác an
ninh khu vực. Quan hệ đối tác chiến lược với Mỹ và Nhật sẽ dựa trên khuân khổ
TPP cũng như cơ chế an ninh tập thể Đông Á.
Đã đến lúc Việt Nam phải xem xét lại chính sách ngoại
giao “3 không”, vì không thể làm vừa lòng tất cả các bên (nhất là Trung Quốc).
Một trong những vấn đề nổi cộm là vai trò của quân cảng Cam Ranh. Đối với
Philippines, thì quân cảng Subic trở thành một điểm tựa quan trọng trong chiến
lược xoay trục sang châu Á và tái cân bằng lợi ích an ninh của Mỹ. Đối với Việt
Nam, thì quân cảng Cam Ranh cũng có ý nghĩa tương tự như vậy.
Một điều kiện tiên quyết để trở thành đối tác chiến
lược với Mỹ và tham gia sân chơi TPP là cải thiện hồ sơ nhân quyền. Đây vừa là
thỏa hiệp trước mắt theo “luật chơi” (rule of engagement) vừa là mục tiêu phát
triển lâu dài của một quốc gia tiến bộ. Quốc hội Việt Nam trì hoãn việc thông
qua dự luật về lập hội tuy là một hành động cụ thể nhưng có thể cản trở quá
trình hợp tác chiến lược và dẫn đến hậu quả đáng tiếc nếu xung đột Trung-Việt xảy
ra ngoài ý muốn. Các chuyên gia quân sự cảnh báo “giai đoạn cuối 2016 và đầu
2017 là thời cơ tốt nhất để Trung Quốc chiếm toàn bộ phần còn lại của Trường
Sa” (Joshua Kurlantzick).
Trong cuộc họp báo chung với ông Tập Cận bình tại
Nhà Trắng (25/9/2015) tổng thống Obama ông đã bày tỏ “lo ngại đáng kể về việc lấn
biển, xây dựng và quân sự hóa khu vực tranh chấp” và nhấn mạnh là Hoa Kỳ sẽ “tiếp
tục dùng tàu thủy và máy bay đi qua và hoạt động ở bất cứ nơi nào mà công pháp
quốc tế cho phép.” Nhưng nếu ông Obama không biến tuyên bố thành hành động, thì
sẽ mất uy tín với đồng minh, và bị lãnh đạo Trung Quốc coi thường.
Theo Foreign Policy (2/10/2015) Bộ Quốc phòng Mỹ
đã thúc giục Nhà Trắng bật đèn xanh cho chiến dịch “tuần tra vì quyền tự do lưu
thông trên biển”, nhưng chưa được chấp thuận. Một trong những lý do khiến chính
quyền Obama dè dặt, là không muốn gây sự cố trước chuyến thăm của Tập Cận Bình,
trong bối cảnh hai nước đang có bất đồng nghiêm trọng.
Nhưng sau chuyến thăm của ông Tập, chính quyền Obama
đã tỏ ra thất vọng và đang chuẩn bị những biện pháp cứng rắn hơn để đối phó với
Trung Quốc. Theo Financial Times (8/10/2015) Hoa Kỳ sắp cho các chiến hạm đi đến
gần các hòn đảo nhân tạo của Trung quốc ở Biển Đông. Một quan chức cao cấp của
Hoa Kỳ nói rằng các chiến hạm này sẽ đi vào bên trong khu vực 12 hải lý mà
Trung Quốc nói là lãnh hải của họ quanh những hòn đảo nhân tạo mà họ đã xây dựng
ở Quần đảo Trường Sa, và việc này sẽ bắt đầu trong vòng hai tuần nữa…
Đô đốc Scott Swift (Tư lệnh Hạm đội Thái Bình Dương) đã khẳng định tại Hội chợ Thái Bình Dương năm 2015 tại Sydney (8/10/2015), “hơn bao giờ hết, Hoa Kỳ kiên quyết duy trì cam kết sẽ bảo vệ quyền tự do hàng hải” và “Tự do hàng hải phải được duy trì bất chấp những tranh chấp chủ quyền biển đảo, bất chấp những vụ tranh chấp này kéo dài bao lâu và bất chấp các đảo này là do thiên nhiên tạo ra hay bàn tay con người tạo ra.”
Căn cứ vào Công ước LHQ về Luật Biển, thì 4 bãi ngầm
Ga Ven (Gaven), Tư Nghĩa (Hughes), Vành Khăn (Mischief), Xu Bi (Subi) trước lúc
tôn tạo, thuộc diện “bãi cạn lúc chìm lúc nổi” (Low-tide elevations), nên chỉ
được quyền có hải phận 50 mét bao quanh. Ba bãi còn lại là Đá Châu Viên
(Cuarteron), Chữ Thập (Fiery Cross) và Gạc Ma (Johnson) thì được coi là “đảo
đá” (rocks), có lãnh hải 12 hải lý, nhưng không có vùng đặc quyền kinh tế.
Theo báo Diplomat (4/10/2015), có thể Mỹ sẽ chọn
phương án cho tàu chiến tiến sâu vào bên trong vùng 12 hải lý quanh các thực thể
như Xu Bi và Vành Khăn, vì là bãi cạn nửa chìm nửa nổi trước lúc được bồi đắp,
nên chỉ được phép tối đa có 50 mét bao quanh. Hãy chờ xem Mỹ triển khai “xoay
trục” như thế nào để đối phó với Trung Quốc (trước khi quá muộn).
NQD.
16/10/2015
Tác giả gửi cho viet-studies ngày
16-10-15
No comments:
Post a Comment