Nguyễn Ngọc Bích
Friday, October 2, 2015 8:42:34 PM
Một
nhà văn lớn, một ngôi sao sáng trong vườn văn học Việt Nam vừa mới ra đi. Hôm
qua, trong lúc tôi đang lái xe trên đường từ Maryland về thì anh Bùi Bảo Trúc
kêu tôi từ Quận Cam nói: “Anh Bích ơi, anh Võ Phiến chắc sắp ra đi rồi. Chị Võ
Phiến đã mời Thầy Viên Lý đến tụng kinh cho anh và gia đình đoán là bất cứ giờ
nào anh ấy có thể sẽ quy tiên.” Quả như rằng, đến 7 giờ tối Thứ Hai, 28 tháng
9, 2015, nhà văn Võ Phiến, một cây bút hàng đầu của Việt Nam tự do và của cộng
đồng hải ngoại, đã trút hơi thở cuối cùng.
Không
bất ngờ
Sự ra đi của ông không phải là một chuyện bất ngờ. Từ
nhiều năm nay, ông đã phải ngừng viết vì chứng bệnh Alzheimer của tuổi già, lúc
nhớ lúc quên. Nhà văn Trùng Dương, cách đây hơn 5 năm, đã đến thăm ông
bà Võ Phiến, kể:
“Buổi viếng thăm
anh chị lần này đã để lại trong tôi một xúc động mãnh liệt... Ðến nơi lúc 11 giờ
đã thấy chị đứng sẵn ở cổng bên mấy bụi hoa hồng chờ khi tôi lái xe vào khoảng
sân trước nhà để xe (nay đã biến thành kho chứa sách vì đã nhiều năm anh chị
không lái xe). Bước vào nhà đã thấy anh áo quần tề chỉnh, cả đội mũ nữa, chắc
cho ấm đầu, với mái tóc trắng còn lưa thưa, đang chờ khách. Tôi cảm động lắm,
vì rõ ràng là anh chi đang ngóng chờ khách phương xa.”
Tác phẩm Võ Phiến. (Hình: Vương Ngọc Minh)
Kinh nghiệm này hoàn toàn ăn khớp với hình ảnh vợ chồng
tôi có mỗi khi có dịp sang Quận Cam và đến thăm anh chị Võ Phiến. Vẫn một sự hiếu
khách và ân cần săn đón niềm nở dành cho một người chỉ đáng tuổi em mình, vẫn một
sự tò mò hỏi han về công việc văn học của khách (khác hẳn nhiều người gặp khách
chỉ kể về mình). Tôi còn giữ được không ít những lá thư anh viết cho tôi, khuyến
khích tôi trên mỗi chặng đường nghiên cứu của tôi. Như năm 1983, vợ chồng tôi
có viết chung một tiểu phẩm mang tên Những địa tầng ngôn ngữ trong lịch sử tiếng
Việt được cụ Nguyễn Khắc Kham khen, trong khi anh Võ Phiến thì vui hẳn:
“Bản Tin Văn Hóa của
Cung Tiến ở Minnesota liên tiếp mấy kỳ đăng loạt bài về ngữ học của Anh, đọc
thích ơi là thích. Không dám khen các tác giả về kiến thức rộng..., tôi lấy làm
thích thú đặc biệt là những suy tìm, nghĩ ngợi, nhận xét rất thâm thúy và tinh
tế... Tôi ngờ những bài này ở trong một cuốn sách, cắt đăng từng kỳ báo chậm
quá, người đọc phải chờ đợi lâu quá. Anh có dự tính nào về việc in cuốn này
chăng? Nếu có xin anh báo tin cho tôi biết với. Tôi chắc ở vùng Nam Cali này có
nhiều người muốn mua đấy.”
Rồi anh kết luận thật dí dỏm:
“Lâu quá tôi ít thư
từ cho ai, không có thư thăm anh, nhưng mới nhận được Bản Tin Văn Hóa mới hôm
qua, khoái quá, không thể không ba hoa với anh vài lời.” (Thư từ Los đề ngày 20 tháng 9 năm 1983)
Lần khác, anh nhận định chung về tình hình nghiên cứu
ở hải ngoại:
“Tình hình biên khảo
về văn học Việt Nam do người Việt hải ngoại lâu nay khá bi quan. Từ sau cụ
Hoàng Xuân Hãn, thường thường không mấy ai phát giác ra cái gì mới mà chỉ tổng
kết những thành quả khảo cứu của các học giả trong nước. Vì vậy khi được đọc những
bài của anh với những phát giác mới, những bài khảo cứu có tinh thần sáng tạo,
tôi thật khoái và thêm tin tưởng ở hoạt động văn hóa của bà con hải ngoại chúng
ta.” (Thư đề ngày 7 tháng 12, 1983)
Sang đầu năm 1984, anh lại viết cho tôi về hai chữ
Nôm nhức óc mà cho đến gần đây chưa mấy ai đọc được cho chính xác:
“Vụ ‘song viết’ tôi
cũng nghĩ là anh thắng, các nhà nghiên cứu ngoài Bắc thua... Nhân dịp Ðào Duy
Anh bị ‘chôn’ sống [ở ngoài Bắc], tôi có ý kiến là anh nên tìm cách phổ biến
bài nghiên cứu của anh càng rộng càng hay. Ðề phòng một ngày kia, Hà Nội dùng
ngay những phát giác của anh mà tỉnh bơ không nhắc tới tên anh. Lúc bấy giờ
mình lấy những tờ báo đã đăng bài của anh ra làm bằng chứng” (Thư đề ngày 25 tháng 1, 1984) mà tố cáo sự gian lận của họ.
Sở dĩ tôi hơi dông dài nhắc về một vài kỷ niệm của
tôi (cái tôi đáng ghét) với anh Võ Phiến như trên đây là để thấy là như một người
đàn anh trong văn đàn, anh lúc nào cũng ưu ái theo dõi công việc của người khác
mà anh coi như đồng nghiệp chứ không phải đòi ăn trên ngồi trốc như một ông
tiên chỉ trong làng văn. Ðó là một đặc điểm của cái mà nhà văn Mai Thảo gọi là
“Cộng Hòa chữ nghĩa” (“la République des lettres” nói theo kiểu Pháp) trong đó
chỉ có anh em chứ không có ai chiếu trên, ai chiếu dưới - một điểm đặc thù của
văn học miền Nam và của hải ngoại.
Một
tổng tác phẩm đồ sộ
Sinh năm 1925 ở Bình Ðịnh, ông có tên thật là Ðoàn
Thế Nhơn nhưng lấy tên vợ, Viễn Phố, đảo lại thành bút hiệu Võ Phiến - một ý tưởng
vừa ngộ nghĩnh vừa đáng yêu. Bắt đầu viết từ rất sớm (1943 trên Trung Bắc Tân
Văn), tham gia kháng chiến xong bỏ về thành, cùng với một số bạn ra tạp chí văn
học Mùa Lúa Mới ở miền Trung. Thời gian trước năm 1975 vì làm trong ngành kiểm
duyệt của Bộ Thông Tin nên có dịp theo dõi rất sát sinh hoạt văn học của miền
Nam. Nhờ những hiểu biết này mà về cuối đời, ông đã viết được ra một cuốn văn học
sử rất giá trị mang tên “Văn học Miền Nam: Tổng quan” (Văn Nghệ, 1987, đã được
Võ Ðình dịch sang tiếng Anh và G.S. Nguyễn Xuân Thu xuất bản ở Úc) và dựa vào
quyển này ông lại thu thập và tuyển chọn được một bộ hợp tuyển “Văn học miền
Nam” gồm 7 quyển, trong đó có ba quyển giới thiệu truyện dài và truyện ngắn, một
quyển dành cho ký, một quyển dành cho kịch và tùy bút, và một quyển dành cho
thơ (tất cả đều do nhà xuất bản Văn Nghệ của ông Võ Thắng Tiết in ra).
Bên cạnh đó nhà xuất bản Văn Nghệ cũng in ra Toàn Tập
Võ Phiến gồm Tùy bút (I và II), Tạp Luận, Tiểu Luận, Truyện Ngắn (I và II), Tiểu
Thuyết (I và II), Tạp Bút. Tóm lại, một tổng tác phẩm rất đồ sộ. Sau này, nhà
xuất bản Người Việt cũng lại cho in một Tuyển Tập Võ Phiến bìa dầy rất trang trọng.
Trong những tác phẩm của ông mà được người ta nhắc đến nhiều có: các tiểu thuyết
Mưa Ðêm Cuối Năm (Giải văn chương toàn quốc 1960), Giã từ (Bách Khoa, 1962), Một
mình (Thời Mới, 1965), Ðàn ông (Thời Mới, 1966), và các tập truyện ngắn Chữ
tình (Bình Minh, 1956), Người tù (Qui Nhơn, 1957), Mưa đêm cuối năm (Tự Do,
1958), Ðêm xuân trăng sáng (Nguyễn Ðình Vượng, 1961), Thương hoài ngàn năm (Bút
Nghiên, 1962), Ảo Ảnh (1967), Phù Thế (1969), chưa kể ông còn có một số tác phẩm
dịch (Hăm bốn giờ trong đời một người đàn bà dịch Stefan Zweig, Các trào lưu lớn
của tư tưởng hiện đại dịch André Maurois, Truyện hay các nước I và II, dịch với
Nguyễn Minh Hoàng, và Ông chồng muôn thuở dịch Dostoyevsky). Ðặc biệt mê Võ Phiến
thì có Võ Ðình (có lần anh tả cho tôi cái óc quan sát đặc biệt tinh tế về một
con ruồi của Võ Phiến trong truyện “Một ngày để tùy nghi”), Thụy Khuê cũng đã
viết một thiên khảo cứu về Võ Phiến trên Hợp Lưu số 103 (tháng 12/2008) và Nguyễn
Hưng Quốc đã có nguyên một cuốn sách dài viết về Võ Phiến (1996). Một giáo sư
người Mỹ, ông John C. Schafer, cách đây gần 10 năm cũng đã có Võ Phiến and the
Sadness of Exile (“Võ Phiến và nỗi buồn lưu vong”), một cuốn chuyên đề do
Northern Illinois University in ra (Monograph Series on Southeast Asia, 2006).
Tỵ nạn sang Mỹ, ông bắt đầu viết lại với Thư Gửi Bạn
(1976), rồi Lại Thư Gửi Bạn (1978), Ly Hương (1977, viết chung với Lê Tất Ðiều)
và truyện dài Nguyên Vẹn (1978, đã được James Banerian dịch sang tiếng Anh). Tiểu-luận
của ông viết ở Mỹ đã được Nguyễn Ngọc Bích, Huỳnh Sanh Thông dịch sang tiếng
Anh và truyện ngắn của ông (do Võ Ðình, Phan Phan, và Huỳnh Sanh Thông dịch)
cũng đã được đưa vào sách Landscape and Exile (Marguerite Bouvard, ed., Boston:
Rowan Tree Press, 1985). Sang thập niên 1990, ông còn có thêm các tác phẩm Truyện
thật ngắn (1991), Quê (1992), Viết (1993), Ðối Thoại (1993), Sống và Viết
(1996), và Thơ Thẩn (1997), tất cả cũng do nhà xuất bản Văn Nghệ ở California
in ra.
Không chỉ viết, ông là một trong những cây bút cột
trụ của báo Bách Khoa trước năm 1975, ông còn lập ra nhà xuất bản Thời Mới để
in sách của mình và của những tác giả trẻ mà ông tin tưởng là có tương lai nên
muốn giới thiệu với công chúng.
Lăng
xê các cây bút trẻ
Một vài người ác ý cho rằng Võ Phiến chỉ thích giúp
và giới thiệu các cây bút nữ ra với công chúng. Nhưng theo Hồ Trường An, viết
trong sách Cảo thơm lần giở (Tổ Hợp Xuất Bản Miền Ðông Hoa Kỳ xb, 2015), nhà xuất
bản Thời Mới của ông, ngoài sách của chính Võ Phiến, còn in sách của Võ Hồng,
Lê Tất Ðiều, Thế Uyên, Y Uyên, Ðỗ Tấn bên cạnh Túy Hồng, Nguyễn Thị Thụy Vũ...
Ngoài ra, tuy không in tác phẩm của họ, ông Võ Phiến vẫn làm cho công chúng chú
ý đến Hoàng Ngọc Tuấn, Trùng Dương...
Sang Mỹ, Võ Phiến là một trong những người đầu tiên
cầm bút trở lại mặc dù ông thừa biết là nhà văn mà mất đi độc chúng thì cũng
như cá bị ném lên trên cạn. Mặc dầu vậy, ông vẫn viết và cho rằng chỉ cần còn bạn
tri kỷ là còn “thư gửi bạn” được. Ông tin tưởng đủ ở văn học Việt Nam hải ngoại
để cùng Nguyễn Mộng Giác lập ra một trong những tạp chí văn học đầu tiên ở xứ
người, tờ Văn Học Nghệ Thuật, sau này trở thành tờ Văn Học (do Nguyễn Mộng Giác
chủ trì một thời gian dài).
Mô tả cách viết của Võ Phiến, Trùng Dương nói khá
chính xác:
“Mặc thời đại vi
tính với Internet, anh vẫn viết tay. Tôi còn nhớ có lần nghe anh nói anh phải cảm
ơn thấy da thịt của tay mình tiếp xúc với mặt giấy mới yên tâm sáng tác được,
hay một ý tưởng tương tự. Tôi hình dung mặt tờ giấy đối với anh có lẽ cũng giống
như cái 'security blanket' đối với nhiều trẻ nhỏ. Nhưng từ vài năm nay anh
không viết nữa. Một đời gắn liền với chữ nghĩa bỗng như hụt hẫng, thừa, chị nói
với riêng tôi, nước mắt ứa ra. Anh không biết tại sao mình sống lâu như vậy.
Tôi vỗ về cánh tay trái mới té gãy và còn băng bột của chị. Chị rất sợ lỡ phải
‘đi’ trước anh, vì không biết ai sẽ chăm sóc anh được như chị chăm sóc anh. Chị
không muốn con cái phải bận tâm nhiều về cha mẹ già. Hôm chị té gẫy tay, mãi
sau khi đi bác sĩ băng bó xong, đến tối mấy người con mới hay..
.
“Tôi ra về, trong đầu
lởn vởn ba câu thơ của anh làm năm 1986, mà chị đọc cho tôi nghe trước đó. Tôi
đã hỏi chị ‘sao chỉ có ba câu, thay vì bốn?’ Chị đáp, ‘ai mà biết, cô hỏi tác
giả xem.’ Tôi đáp, nhìn sang cửa phòng đã khép, ‘thôi để anh nghỉ.’ Tôi xin
phép về, cũng để chị nghỉ nữa. Tôi nghĩ với riêng mình, có những điều tốt hơn
không cần giải thích. Vả, tôi nghĩ là tôi hiểu vì sao bài thơ chỉ có ba
câu:
Ra đi, tuổi chẳng năm mươi.
Năm mươi tuổi nữa, nào nơi ta về?
Ngàn năm mây trắng lê thê...”
Năm mươi tuổi nữa, nào nơi ta về?
Ngàn năm mây trắng lê thê...”
Bài
liên quan
No comments:
Post a Comment