Orville
Schell
Biên
dịch: Lương Khánh Ninh | Hiệu đính: Nguyễn Thị Nhung
Posted on 19/12/2014 by The Observer
Nguồn:
Orville Schell, “China Strikes Back!”, The New York Review of Books, October
23, 2014
Khi Đặng Tiểu Bình đến thăm Căn cứ Không quân
Andrews gần thủ đô Washington vào năm 1979, đất nước Trung Quốc mới chỉ thức dậy
sau một thời gian dài chìm trong giấc ngủ của cuộc Cách mạng Văn hóa. Không nhiều người biết rõ
thân thế của nhà lãnh đạo Trung Quốc có chiều cao chưa đầy mét rưỡi này. Ông bất
ngờ quay trở lại sân khấu chính trị sau hai lần bị Mao Trạch Đông cách chức. Bản
thân Mao đã từng có câu nói nổi tiếng mô tả Đặng là “một cái kim nằm trong bọc.”
Tuy nhiên, vào năm 1979, Đặng hiểu rõ mình muốn gì: đó là một mối quan hệ tốt đẹp
hơn với Hoa Kỳ. Đặng Tiểu Bình và Tổng thống Jimmy Carter đã tỏ ra hết sức
nghiêm túc trong việc giải quyết những khác biệt giữa hai bên. Trong thời gian
làm công việc đưa tin về những buổi họp giữa Đặng và Carter, tôi có ấn tượng là
hai vị lãnh đạo này đã coi mình đang diễn xuất trong một bộ phim tình bằng hữu,
và cùng nhân cơ hội này để truyền tải một thông điệp rõ ràng rằng họ đã sẵn
sàng để hợp tác.
“Ngày hôm nay chúng ta tiến thêm một bước nữa trong
tiến trình bình thường hóa quan hệ mang tính lịch sử giữa hai nước mà chúng ta
đã bắt đầu từ năm nay,” Carter nói trong bài phát biểu chào mừng Đặng tại buổi
chiêu đãi cấp nhà nước tổ chức ở Nhà Trắng.
Chúng ta cùng chia sẻ niềm hy vọng nảy mầm từ sự hòa
giải những bất đồng trong quá khứ và từ viễn cảnh đầy hy vọng của một chuyến đồng
hành trong tương lai… Chúng ta hãy cùng cam kết rằng cả Hoa Kỳ và Trung Quốc sẽ
cho thấy sự hiểu biết, lòng kiên nhẫn và sự quyết tâm cần thiết để mối quan hệ
mới giữa hai quốc gia chúng ta có thể tồn tại và duy trì.
Sau đó hai nhà lãnh đạo khởi hành đến Atlanta,
Houston và Seattle với một kỷ niệm không thể nào quên ở Simonton, Texas. Khi Đặng
tham dự vào một buổi biểu diễn, một nữ cao bồi đã cưỡi ngựa phi nước đại đến
trước chỗ ngồi của Đặng và tặng ông một chiếc mũ cao bồi. Khi Đặng đội chiếc mũ
biểu tượng của người Mỹ lên đầu, nó gần như che mất tầm nhìn của ông ta. Nhưng
Đặng đã đạt được mục tiêu: cho người dân hai nước thấy những gì đã qua chỉ còn
là quá khứ và bây giờ là thời điểm bắt đầu của một giai đoạn hoàn toàn mới.
Đặng Tiểu
Bình tại Simonton, Texas, 2/1979. Nguồn: AP
Thậm chí đến ngày hôm nay những bức ảnh chụp những sự
kiện kể trên vẫn còn truyền tải nguyên vẹn tình bằng hữu và ý nghĩa lớn lao khi
hai nhà lãnh đạo đã gạt ngờ vực sang một bên và tin tưởng nhau đến mức cho phép
giao lưu theo những cách hoàn toàn mới mẻ. Dù vậy, những nỗ lực của họ chỉ đưa
đến thay đổi phần nào cho mối quan hệ. Một điều mà “quá trình bình thường hóa”
đã không và không thể thay đổi là hình thái nhà nước độc đảng theo kiểu
Leninist của Trung Quốc. Thêm vào đó, bởi vì hai hệ thống chính trị cũng như hệ
thống giá trị giữa hai nước vẫn còn đối lập nhau, một rào cản bất đồng to lớn vẫn
còn tồn tại. Dẫu vậy, lần gặp gỡ này vẫn tạo cảm giác thân tình khi nó giúp Đặng
và Carter có thể hình dung được rằng (dù theo những cách khác nhau) hai quốc
gia và hai xã hội vẫn có thể dần dần tìm ra nhiều lĩnh vực có thể hợp tác hơn.
Dù Trung Quốc chưa bao giờ có được một nhà nước dân
chủ thực sự, từ thời lãnh đạo của Tôn Dật Tiên, Tưởng Giới Thạch cho đến thời của
Hồ Diệu Bang, Triệu Tử Dương và Đặng Tiểu Bình, nhưng các nền dân chủ trên thế
giới vẫn có thể tạm hài lòng với niềm hy vọng mơ hồ rằng chừng nào mà Trung Quốc
còn mở cửa – và có lẽ cùng với sự trợ giúp từ thị trường mở, trao đổi học thuật,
các khoản từ thiện của Mỹ, vv… – Trung Quốc sẽ có thể dần trở nên dân chủ hơn.
Những giấc mơ này dường như đã được xác thực khi Bức
tường Berlin sụp đổ và khối Liên Xô tan rã. Nhưng trong khi những sự kiện kịch
tính này làm phương Tây hài lòng, chúng đã khiến các nhà lãnh đạo Trung Quốc
kinh ngạc và hoảng sợ. Họ không hề vừa lòng khi Tổng thống Bill Clinton, khi
nói về sự kiện Thiên An Môn năm 1989 trong chuyến công du Trung Quốc năm 1997,
đã chỉ trích Trung Quốc một cách trịch thượng vì đã “đi vào lề trái của lịch sử.”
Khi đó Tổng bí thư Giang Trạch Dân chẳng có lựa chọn nào khác ngoài phải im lặng
lắng nghe.
Đằng
sau chuyến thăm của cựu Tổng thống Carter
Nhưng hóa ra lịch sử không hẳn nghiêng về phương Tây
như ông Clinton đã nghĩ. Mặc dù biểu hiện bên ngoài chưa rõ ràng, nhưng thực chất
giấc mơ về một Trung Quốc dân chủ hơn đã gần như bị triệt tiêu kể từ vụ thảm
sát Thiên An Môn, khi nó tạo ra một tâm lý đề phòng cao độ, không-bao-giờ-cho-phép-tái-diễn
trong nội bộ Đảng. Sự kiện Tập Cận Bình trở thành Chủ tịch nước và Tổng Bí thư
Đảng Cộng sản năm 2013 đã giáng một đòn kết liễu xuống niềm hy vọng cải cách bộ
máy chính trị tại đây của cả phương Tây và người Trung Quốc.
Dựa vào thực tế hiện nay, có thể rút ra được thông
điệp mới của Đảng là: “Bởi vì Trung Quốc tuyệt đối chối bỏ mọi hình thái nhà nước
dân chủ kiểu phương Tây do chúng không phù hợp với Trung Quốc, người Mỹ
nên từ bỏ thứ giấc mơ truyền giáo của họ nhằm đưa tuyển cử, nhân quyền và dân
chủ đến Trung Quốc đi. Những điều các người đang nhìn thấy cũng chính là những
gì các người sẽ nhận được! Chúng tôi không muốn thay đổi bất cứ điều gì.”
Tại cuộc gặp giữa Tổng thống Obama và Chủ tịch Tập Cận
Bình được tổ chức tại biệt thự Sunnylands vào tháng 6 năm 2013, ông Tập có lẽ
đã cố gắng lặp lại kỳ tích năm xưa thời Carter-Đặng khi bày tỏ mong muốn chứng
kiến hai quốc gia hình thành một “mối quan hệ cường quốc kiểu mới.” Ông ta ám
chỉ rằng mỗi bên nên chấp nhận tình hình thực tế của đối phương. Ý tưởng này của
Tập chưa bao giờ được đón nhận.
Tuy nhiên trong tháng 9 vừa qua, Jimmy Carter, người
có công giúp khởi động quan hệ Mỹ-Trung, đã quay trở lại Trung Quốc. Đây chẳng
phải là cơ hội tốt để khôi phục bầu không khí tôn trọng lẫn nhau như xưa và để
cùng nhau tìm kiếm những bước tiến mới trước khi ông Obama đến Trung Quốc vào
tháng 11 hay sao? Còn ai phù hợp hơn Carter trong việc góp phần cải thiện một mối
quan hệ mà giờ đây chồng chất những tranh chấp, căng thẳng và hoài nghi, thêm
vào đó là để đạt được một mối quan hệ “kiểu mới”?
Tôi chấp nhận lời mời cùng đi với Carter trong chuyến
thăm lần này. Dĩ nhiên, so với năm 1979, Trung Quốc đã phát triển vượt bậc về
nhiều mặt và quá trình thể chế hóa quan hệ song phương với Hoa Kỳ đã đạt được
những biến chuyển tích cực. Nhưng đáng kinh ngạc không kém chính là những ngờ vực
về động cơ và ý đồ vẫn còn tồn tại nguyên vẹn giữa hai bên. Thực vậy, nhìn vào
tình hình hiện nay, ta chỉ có thể đi đến kết luận rằng hai nước đang ngày càng
rời xa nhau, đây là một thực tế rõ ràng thậm chí trước cả khi Carter đáp máy
bay xuống Bắc Kinh. Lý do gì đã dẫn đến tình trạng này?
Carter lần đầu đến Trung Quốc vào năm 1949, với tư
cách là một sĩ quan hải quân trẻ tuổi phục vụ trên một tàu ngầm của Hoa Kỳ đang
ghé thăm Thanh Đảo và Bắc Kinh vào thời điểm chỉ mấy tháng trước khi nước Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa được thành lập. Ba thập niên sau, vào ngày 15 tháng 12
năm 1978, sau một loạt cuộc thương thảo bí mật kéo dài và cực kỳ gian truân,
Carter khiến cả thế giới kinh ngạc khi thông báo Hoa Kỳ và Trung Quốc sẽ tái
thiết lập quan hệ ngoại giao bình thường. Bất chấp sự phản đối gay gắt từ Quốc
hội Mỹ – Thượng Nghị sĩ Barry Goldwater đã buộc tội ông đã “lừa dối, khinh thường
Quốc hội, và bán rẻ Đài Loan” – sáu tuần sau đó Đặng Tiểu Bình xuất hiện tại
Nhà Trắng.
Khi Carter quay trở lại Bắc Kinh vào tháng 9 để dự lễ
kỷ niệm 35 năm “bình thường hóa quan hệ,” điểm dừng chân đầu tiên của ông là Đại
học Nhân dân Trung Quốc. Tôi đã tưởng rằng đây là một cơ hội không chỉ để ca ngợi
vai trò của Carter trong quan hệ Mỹ-Trung mà còn để ông bày tỏ quan điểm về những
sự kiện sau khi bình thường hóa và gặp gỡ các sinh viên. Nhưng thay vào đó,
chúng tôi nhận thấy mình bị nhét vào một hội thảo về nền tài chính toàn cầu do
trường tổ chức, đó là một trong vô số những cuộc hội thảo kinh doanh ngày nay
đang ngập tràn ở Trung Quốc bởi chủ đề này nằm trong diện an toàn. Chỉ sau bài
phát biểu không có gì đặc sắc của ông hiệu trưởng và một cựu chuyên viên về đầu
tư của Liên Hợp Quốc người Argentina, Carter mới có thể có một bài nói chuyện
ngắn và sau đó chỉ có một câu hỏi được đặt ra trực tiếp cho ông.
Hóa ra Carter được trả tiền cho bài nói chuyện này,
điều này khiến chuyến thăm lần này chỉ như một chặng dừng trong nỗ lực không ngừng
nghỉ trên phạm vi toàn cầu của ông nhằm duy trì nguồn quỹ cho Trung tâm Carter.
Nhìn cựu Tổng thống Hoa Kỳ bị đối xử một cách hờ hững ta mới thấy rõ được rằng
cán cân quyền lực giữa hai quốc gia đang dần dịch chuyển như thế nào: ngày nay
không chỉ có phương Tây mới là những kẻ giàu có. Và thực tế, Trung Quốc được dự
báo là sẽ sớm vượt Mỹ về GDP.
Sự dịch chuyển quyền lực mang tính cấu trúc trong
quan hệ Mỹ-Trung còn thể hiện ra theo nhiều cách khác. Dù Carter trước đó đã gặp
Tập Cận Bình bốn lần, trong chuyến thăm lần này ông không gặp cả Tập hay Thủ tướng
Lý Khắc Cường; điều này thật kỳ lạ, bởi nếu họ thực sự mong muốn quan hệ Mỹ-Trung
trở nên tốt đẹp hơn thì tại sao họ lại bỏ qua một nhân vật đã từng làm rất nhiều
điều để cải thiện mối quan hệ này?
Thêm vào đó, người Trung Quốc trước đó đã không nể
nang khi không cho phép một thành viên trong đoàn của Carter đứng lên phát biểu
trong một diễn đàn được tổ chức tại Đại lễ đường Nhân dân. Bản thân ông Carter
cũng nhanh chóng nhận ra rằng nhiều tổ chức đón tiếp chính thức tại Trung Quốc
đã phải hủy bỏ hoặc tổ chức lại một số sự kiện tại Thượng Hải và Thanh Đảo. Và
nữa, một cuộc gặp của Trung tâm Carter dành cho Diễn đàn Học giả trẻ của Hoa Kỳ
và Trung Quốc trong chương trình Quan hệ Mỹ-Trung bị dời địa điểm tổ chức khỏi
Đại học Giao thông Thượng Hải cơ sở ở Tây An đến một khách sạn.
Trung
Quốc lãnh đạm với Carter
Phái đoàn Carter hay báo giới đã không thể lý giải
nguyên nhân tại sao những thay đổi kể trên lại được phép xảy ra, bất chấp chúng
làm tổn hại đến mục đích của chuyến thăm. Có lẽ chiến dịch chống tham nhũng
đang được tiến hành ở Trung Quốc đã làm những nhà tổ chức sự kiện lo lắng. Cũng
có thể bởi các quan chức tại đây biết được Carter từ lâu rất tận tâm với vấn đề
nhân quyền quốc tế và dân chủ, và vì vậy họ lo sợ sẽ xảy ra một sự cố không hay
nào đó.
Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, người ngoại quốc luôn gặp
rất nhiều khó khăn trong việc bày tỏ mối bất bình tại Trung Quốc. Tất cả các đại
sứ quán, doanh nghiệp, trường đại học, tổ chức phi chính phủ và các cơ quan
truyền thông nước ngoài đều nhận thức đươc rằng, ở đây người ngoại quốc phải chấp
nhận cảnh cho gì nhận nấy. Phàn nàn nhiều quá sẽ chỉ nhận lại sự trì hoãn hoặc
hủy bỏ hợp đồng, visa, chương trình, kế hoạch gặp mặt và các chương trình giao
lưu.
Đoạn cao trào nhất trong chuyến thăm của Carter diễn
ra tại buổi yến tiệc trong Đại lễ đường Nhân dân, một công trình kiến trúc rộng
và đầy khoảng trống có hình dạng giống hầm mộ được “nhân dân” chóng vánh xây
nên trong vòng mười tháng trong Phong trào Đại Nhảy vọt năm 1959 khi có khoảng
30-40 triệu người đang bắt đầu dần chết đói. Đây là một trong số những công
trình mang tính lịch sử, có ý nghĩa hết sức quan trọng của quá trình mở rộng Quảng
trường Thiên An Môn do Mao chỉ đạo. Những căn phòng đồ sộ của nó (mỗi phòng
dành riêng cho một tỉnh), tất cả đều được trang trí bằng những bức tranh phong
cảnh có kích thước khổng lồ, được tính toán nhằm mục đích khiến người ta cảm thấy
nể sợ và choáng ngợp. Thế nhưng bữa tối dành cho ông Carter lại đơn điệu một
cách đáng thất vọng. Phó chủ tịch Lý Nguyên Triều chủ trì tiếp đãi bữa yến tiệc
này, ông ta có một bài phát biểu ngắn nhưng không còn giữ thái độ nhiệt thành
và thân thiện như của những cuộc gặp ba mươi lăm năm về trước.
Trong khi chúng tôi ăn tối giữa một rừng bàn tiệc mà
một nửa số đó không có người ngồi, một giáo sư người Trung Quốc thầm nói với
tôi rằng cách đây mấy hôm Chủ tịch Tập Cận Bình có cuộc gặp với tổng thống
Zimbabwe Robert Mugabe, một người bị cộng đồng quốc tế tẩy chay lên án (còn Tập
gọi ông ta là “một người bạn lâu năm của nhân dân Trung Quốc mà chúng ta vô
cùng kính trọng”, người mà Trung Quốc “cùng đứng vai kề vai chống lại chủ nghĩa
đế quốc, chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa bá quyền”). Ông giáo sư tiếp tục cho
biết ông Tập thực ra cũng đang ở Đại lễ đường Nhân dân nâng cốc chúc mừng Quốc
vương Malaysia Abdul Halim Mu’adzam Shah ngay tại thời điểm chúng tôi dùng bữa
tối. Nhưng ông Tập đã không hề ghé qua buổi chiêu đãi ông Carter để chào lấy một
lời.
Không một tờ báo nào trong số sáu tờ báo Trung Quốc
mà tôi xem lướt qua vào ngày hôm sau đưa tin về buổi yến tiệc hay chuyến thăm của
Carter. Chỉ có duy nhất phiên bản tiếng Anh của tờ China Daily, một tờ
báo được người Mỹ làm việc ở Trung Quốc biết đến rộng rãi, là có đề cập chút
thông tin, tờ báo này đăng tải một bức ảnh không có mặt Carter mà thay vào đó
là đội văn nghệ sinh viên tại buổi yến tiệc, ở dưới là một bài báo ngắn có tiêu
đề: “Buổi chiêu đãi vinh danh quan hệ Trung-Mỹ.”
May mắn thay, tối hôm sau chúng tôi được thết đãi một
bữa tối được tài trợ bởi tờ Caijing Magazine và bà Đặng Dung, con gái của
Đặng Tiểu Bình. Với việc rất nhiều cựu quan chức Trung Quốc trước đây từng làm
việc với chính quyền Carter hiện diện ở đây, nghe nói ông cựu tổng thống cùng
phu nhân cảm thấy vô cùng hài lòng khi nhìn thấy rất nhiều “bạn cũ,” hầu như tất
cả bọn họ nay đều đã rời nhiệm sở.
Tác động nhìn chung của chuyến thăm – và đây cũng là
một “tác động” xuất hiện ở rất nhiều chuyến thăm khác giữa người Mỹ và người
Trung Quốc – là để khiến cho những vị khách đến thăm cảm thấy việc gây dựng những
mối quan hệ thực chất là điều bất khả thi. Trên thực tế, tôi đã nghe được từ những
nguồn tin thân cận với Carter rằng ông đã cảm thấy buồn chán đến mức tính đến
việc xách va li về nước ngay lập tức.
Yếu tố khiến bữa tối tại Đại lễ đường tạo cho người
ta khó chịu hơn cả là cảm giác “sỉ nhục” phảng phất nơi đây. Đảng Cộng sản
Trung Quốc từ lâu đã nhấn mạnh những năm tháng trong lịch sử Trung Quốc khi đất
nước bị người nước ngoài nhục mạ và bóc lột. Cảm nhận dường như người Trung Quốc
đang muốn trả đũa theo chiều ngược lại khiến tôi chỉ muốn rời bữa tiệc tối hôm
đó ngay từ đầu.
Tại
sao Trung Quốc ngạo mạn?
Trong lúc tôi đi bộ khỏi Đại lễ đường để đến Quảng
trường Thiên An Môn cùng với một học giả người Hoa gốc Mỹ, trên con đường được
thắp sáng như thể để trang hoàng cho đêm Giáng Sinh, chúng tôi đồng tình với
nhau rằng thật đáng thất vọng khi chứng kiến không chỉ riêng việc Carter bị
ngăn không cho tiếp xúc chính thức và tư cách của ông bị xúc phạm, mà cả việc
đây thực chất chỉ là một phần trong chuỗi sự kiện cũng diễn ra theo cách giống
như vậy mà gần đây chúng tôi đã tham gia. Hơn thế nữa, chúng tôi cũng cảm thấy
bàng hoàng khi thấy Trung Quốc ngày nay chính thức thể hiện cho thế giới hình ảnh
một quốc gia đầy ngờ vực, bí ẩn, kẻ cả và khắc nghiệt.
Những hình ảnh này đặc biệt được gửi tới những quốc
gia theo nền dân chủ, những nước mà Trung Quốc đặc biệt coi là tiếp tay cho phản
động và thậm chí thù nghịch. Có thời kỳ, cách đây chưa lâu, chính người Trung
Quốc đã từng chỉ trích phương Tây vì lối xử sự tương tự. Nhưng nếu cách hành xử
khi đó của những nước mà Trung Quốc coi là “đế quốc” không giúp gì cho quan hệ
của họ với Bắc Kinh, thì chẳng có lý gì để thấy lối hành xử hiện nay của Bắc
Kinh lại mang tính xây dựng hơn cả.
Tuy nhiên nhiều quan chức và sĩ quan quân đội của
Trung Quốc ngày nay dường như quá tự hào rằng đất nước của họ đã trở nên giàu
có và hùng mạnh đến độ họ cảm thấy hầu như nhẹ nhõm khi cuối cùng cũng có thể
dùng vũ lực chống lại Nhật Bản và Việt Nam – và ngay cả âm thầm sỉ nhục một nước
Mỹ hùng mạnh – mà không màng đến những hậu quả tiêu cực và thậm chí nguy hiểm
có thể xảy ra cho phần còn lại của thế giới khi họ hành xử ngang ngược như vậy.
Lúc này đây cả hai phía có lẽ đang cảm thấy ngày một lúng túng với câu hỏi tại
sao mọi thứ lại quá khó khăn đến vậy, ngay lúc nước sôi lửa bỏng khi chúng ta cần
tìm cách để né tránh những xung đột mà rất nhiều người lo lắng sẽ có thể xuất hiện
cùng với sự trỗi dậy của một cường quốc mới.
Thái độ hờ hững ngăn cản hai phía chúng ta thực sự
tiếp cận nhau đến từ đâu? Có lẽ là từ một mối quan ngại cho rằng nếu người
Trung Quốc tỏ ra quá mềm mỏng và niềm nở, họ có thể sẽ bị hiểu sai thành sự yếu
đuối, nhu nhược mà Trung Quốc đã rất vất vả để xóa mờ đi bằng cách nỗ lực vươn
đến sự giàu có và quyền lực.
Nguyên nhân thứ hai có lẽ là do nhận thức của Bắc
Kinh cho rằng bất chấp tất cả những thành tựu kinh tế nước này đã đạt được, các
nước dân chủ kiểu phương Tây không những vẫn tiếp tục coi thường hệ thống quản
trị theo mô hình Leninist của Trung Quốc mà còn rất muốn nhìn thấy hệ thống này
có những thay đổi về căn bản. Không có gì bất ngờ khi thái độ của phương Tây về
các nguyên tắc của Đảng Cộng sản Trung Quốc được nhìn nhận là thứ tác phong trịch
thượng, và điều này khiến nhiều người Trung Quốc vốn rất tự tôn cảm thấy vô
cùng bực bội.
Giờ đây khi Trung Quốc đang tận hưởng thành tựu của
sự phát triển khiến cán cân quyền lực đã và đang nhanh chóng ngả về phía nước
này, người Mỹ nhận thấy họ đang đối mặt với một thực tế mới xuất hiện ở Bắc
Kinh. Kế hoạch cải cách của Tập Cận Bình giờ đây thậm chí còn không bao gồm một
chương trình cải cách chính trị thực chất. Đã xa rồi những ngày các quan chức
phải bao biện, “Hãy cho chúng tôi thêm thời gian. Trung Quốc không thể thay đổi
tất cả mọi thứ trong một sớm một chiều được.”
Thêm vào đó, việc chứng kiến cảnh tượng một Quốc hội
Mỹ tê liệt và các chính phủ châu Âu trượt dốc khiến cho Trung Quốc càng thêm tự
tin vào hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa theo mô hình Leninist cũng như có
thêm lý do để bắt đầu thể hiện thái độ cương quyết với thế giới bên ngoài.
Những thất bại của các mẫu hình dân chủ như vậy càng
củng cố niềm tin của các quan chức trong Đảng rằng họ đã hoàn toàn đúng đắn khi
chối bỏ các sản phẩm của nền dân chủ phương Tây: hệ thống cân bằng và kiểm
soát, nền chính trị bầu cử, các giá trị phổ quát, nhân quyền, xã hội dân sự độc
lập, nền truyền thông mở, và sự tự do của các nhóm tôn giáo. “Một trong những
nhược điểm của nền dân chủ phương Tây mà lâu nay giới lãnh đạo Trung Quốc luôn
phê phán là nó dễ dẫn đến trạng thái tê liệt, bế tắc và sau cùng là sự yếu kém
của chính quyền,” Tập Cận Bình đã nhận xét như vậy gần đây.
Trước đây, phương Tây từng tin chắc rằng Trung Quốc,
trước tác động của thị trường tự do, nền giáo dục chịu ảnh hưởng từ nước ngoài
và quyền lực mềm của phương Tây, sớm muộn gì cũng sẽ phải cởi mở hơn về chính
trị – điều mà nhiều người phương Tây cho là con đường cách mạng tất yếu (và thậm
chí đáng mơ ước) đối với bất kỳ xã hội nào. Nhưng giờ đây, niềm tin này bị các
nhà lãnh đạo Trung Quốc thẳng thừng và lớn tiếng bác bỏ với nội dung tóm lược
như sau: “Chúng tôi không muốn tham gia vào giấc mơ định hướng mục tiêu của các
người! Quan điểm “lề phải của lịch sử” do Tổng thống Clinton đưa ra không nằm
trong quan điểm chính thức về “giấc mộng Trung Hoa” của Tổng bí thư Tập Cận
Bình chúng tôi!”
Mặt
trái của “Giấc mộng Trung Hoa”
“Giấc mộng Trung Hoa” là ý tưởng do Tập khởi xướng,
ngày nay được tung hô trên những biển quảng cáo, trạm dừng xe buýt và trên mọi
nẻo đường khắp đất nước; giấc mơ này phục vụ cho khát khao lâu đời của Trung Quốc
về sự thịnh vượng, quyền lực, nể trọng, và vị thế toàn cầu. Nhưng trong đó
không chứa đựng bất cứ khát vọng nào đối với các khái niệm tự do dân chủ và các
giá trị nhân văn của phương Tây. Chính cái bóng của những xung đột tư tưởng này
và những dịch chuyển quyền lực to lớn ban đầu trong quan hệ đối với châu Á đã hủy
hoại chuyến thăm của Jimmy Carter. Dẫu sao, ông cũng là tổng thống Mỹ đầu tiên
đưa nhân quyền phổ quát trở thành một trong những tiêu chí trọng tâm khi xây dựng
chính sách đối ngoại của Nhà Trắng.
Quyền lực mới của Trung Quốc giờ cho phép đất nước
này kháng cự lại hầu hết các hình thức gây sức ép từ bên ngoài. Khi những người
từ những vùng đất “man di mọi rợ” như ông Carter đến thăm, các quan chức hàng đầu
của Trung Quốc sẽ hào hứng hơn nhiều với việc buộc họ tuân thủ một thứ hệ thống
giống như “triều cống” của các vương triều khi xưa, chính hệ thống này đã từng đặt
ra những quy tắc ngặt nghèo đối với các sứ thần đến từ các quốc gia phụ thuộc
như Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam, Miến Điện. Những vị sứ thần như vậy được cho
phép đến Bắc Kinh, chờ đợi được diện kiến với hoàng đế, dâng tặng những lễ vật
lên Thiên Tử như những “cống phẩm,” và rồi nhanh chóng lui ra. Họ chưa bao giờ
được hưởng vị thế ngang hàng, bởi vì suy cho cùng thì không có cường quốc nào
“ngang hàng” được với Trung Quốc mà chỉ có thể kém hơn.
Bởi vì những người Trung Quốc yêu nước đã chờ đợi rất
lâu để thấy được ngày đất nước của họ “phục hưng”, nên ta có thể hiểu được tại
sao họ lại cảm thấy hân hoan với vị thế ngày một lớn mạnh của đất nước và thèm
muốn thể hiện khả năng kháng cự của họ đối với sức ép từ phương Tây, thứ sức mạnh
mà họ đã không có được trong một thế kỷ rưỡi.
Tuy nhiên sự cương quyết, cứng nhắc và thái độ chủ
nghĩa dân tộc ngày một hằn học hơn của Trung Quốc trong thời gian gần đây đang
thổi bùng làn sóng phản kháng trong khu vực ảnh hưởng của nước này. Trên thực tế,
một vài người đang đặt ra câu hỏi, “Trung Quốc có bất kỳ bạn bè nào không?”. Những
hành động của Trung Quốc cũng đang khiến người ta quan ngại sâu sắc về ý đồ của
họ, đặc biệt trong nhóm ủng hộ Trung Quốc mà ta có thể tạm gọi là “phe thỏa hiệp”
tại Mỹ và những nơi khác trên thế giới vốn đang nỗ lực để hai nước xích lại gần
nhau.
Rất nhiều người ủng hộ Trung Quốc như vậy đang bắt đầu
tự hỏi liệu hy vọng về loại hình hợp tác Mỹ-Trung – mục tiêu mà Tổng thống
Carter đã cố gắng thúc đẩy ba mươi lăm năm về trước nay được ông nhắc đi nhắc lại
ở Bắc Kinh hồi tháng 9 này – liệu bây giờ đã trở thành ngây thơ quá hay không.
Thực vậy, ngày càng có nhiều những người ngoại quốc sau môt thời gian tham gia
sâu vào các vấn đề của Trung Quốc tỏ ra vỡ mộng và lo lắng về cách cư xử gần
đây của quốc gia này. Đặc biệt đáng chú ý là số lượng CEO người nước ngoài, những
người từng một thời là nền tảng của mối quan hệ khởi sắc giữa Mỹ và Trung Quốc,
bắt đầu tự hỏi liệu họ có còn tương lai nào ở đất nước này hay không.
Chuyến thăm gần đây của Carter là một cơ hội quý
giá, được nhiều mất ít cho Trung Quốc để bắt đầu đảo chiều lòng tin đang dần xuống
dốc này. Tất cả những gì họ cần làm chỉ là ca ngợi quan hệ đối tác tuyệt vời giữa
Carter và Đặng năm 1979 và nói thêm rằng mối quan hệ hệ trọng nhất trong các mối
liên kết toàn cầu này giờ cần được tiếp nối.
Thay vào đó, người Trung Quốc lại hết lần này đến lần
khác chọn gửi đi những thông điệp gây phức tạp hóa tình hình: “Kể từ bây giờ,
các người chơi theo luật của chúng tôi, nếu không các doanh nghiệp nước ngoài sẽ
bị hạn chế quyền lợi, các chuyến thăm chính thức sẽ bị hạ thấp tầm quan trọng,
visa dành cho các học giả và nhà báo có tư tưởng tự do sẽ bị cấm, và những người
tỏ ra có đầu óc mơ mộng đến chuyện dân chủ sẽ bị loại trừ thẳng thừng. Và bởi
vì chúng tôi biết rằng chẳng một ai có thể gánh chịu được thiệt hại khi bị đá
khỏi thị trường Trung Quốc béo bở, nên chúng tôi ở Bắc Kinh có thể viết lại luật
của cuộc chơi này.”
Nói vậy không có nghĩa là Trung Quốc không muốn có một
quan hệ tốt đẹp hơn với Mỹ, quốc gia này chỉ muốn xây dựng nó theo cách của họ.
Một lý do nữa góp phần vào tình trạng bế tắc này là ở chỗ những quan chức ở Nhà
Trắng và Bộ Ngoại giao Mỹ hiện không có mấy hứng thú cũng như kinh nghiệm đối với
Trung Quốc, và họ cũng bị phân tâm bởi nhiều vấn đề cấp bách khác trên thế giới.
Hơn nữa, chúng ta có một vị tổng thống sở hữu một phong thái khá lãnh đạm, cho
đến bây giờ vẫn chưa thể làm gì để kết thân với người đồng cấp Tập Cận Bình,
cũng là một người dường như rất kín đáo và tiết chế bản thân với một nụ cười bí
ẩn.
Nói tóm lại, những quốc gia mà trước đây từng được
coi là “phương Tây” ngày nay phải đối mặt với một tình thế ngày càng khó khăn,
khi cán cân quyền lực đang thay đổi, đây là một sự thật mà hầu như chưa ai thực
sự chú tâm để thừa nhận, chứ chưa nói đến việc tính đến những cách tiếp cận mới
đối với Trung Quốc. Chúng ta vẫn còn hoài niệm về những tháng ngày xa xôi, khi
các nhà lãnh đạo Trung Quốc vẫn nghe theo lời dặn dò hãy “giấu mình chờ thời”
(thao quang dưỡng hối) của Đặng Tiểu Bình. Điều ông ta muốn nói đến trong câu
thành ngữ này không phải là Trung Quốc nên mãi mãi kiềm chế bản thân, mà là thời
điểm để Trung Quốc thể hiện tham vọng toàn cầu vẫn chưa chín muồi. Dẫu vậy, dường
như các nhà lãnh đạo nước này đang ngày càng tin rằng thời cơ ấy cuối cùng cũng
đã đến và họ không còn muốn nhấn mạnh đến khái niệm “trỗi dậy hòa bình” nhằm ru
ngủ nước khác nữa.
Ẩn đằng sau thái độ gần đây của Trung Quốc là một lời
cảnh báo ngầm: “Nếu như Trung Quốc không thể có cái mình muốn một cách hòa
bình, thì chúng tôi bây giờ có đủ sức mạnh để đạt được mục đích đó bằng những
cách khác, và chúng tôi cũng không ngại phải đụng chạm ai cả.” Lời đe dọa này gợi
nhắc đến hình bóng của Vladimir Putin. Thông điệp mà người Trung Quốc dường như
muốn gửi đi nhưng không muốn nó quá thẳng thừng (họ luôn là bậc thầy về lối nói
bóng gió) là họ muốn được nhìn nhận theo cách mà họ muốn, chứ không phải theo
cách của chúng ta. Dù muốn hay không thì đây vẫn chính là thực tế thế giới mới.
Thử thách mới này vẫn còn lạ lẫm với chúng ta và nó
đặt ra một câu hỏi hóc búa: Liệu các quốc gia dân chủ phương Tây có thể chấp nhận
Trung Quốc đúng như bản chất hiện nay, để chúng ta có thể đối phó hiệu quả hơn
với hàng loạt vấn đề toàn cầu mới xuất hiện đang đe dọa tất cả chúng ta như biến
đổi khí hậu, bệnh dịch, chủ nghĩa khủng bố, và phổ biến vũ khí hạt nhân hay
không?
*Các tiểu mục do Nghiencuuquocte.net tự đặt.
Biên
tập: Lê Hồng Hiệp
No comments:
Post a Comment