Chủ tịch hoàng đế Trung Hoa: Tập Cận Bình thắt chặt quyền kiểm soát
Elizabeth C. Economy
Trần Ngọc Cư dịch
Tháng 12 14, 2014
http://www.procontra.asia/?p=5984
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đưa ra một viễn kiến đơn giản nhưng quyết liệt: phục hưng nước Trung Hoa. Đó là tiếng gọi thúc đẩy hành động yêu nước, lấy cảm hứng từ quá khứ vàng son của các đế chế Trung Hoa và các lý tưởng xã hội chủ nghĩa hiện tại để củng cố sự đoàn kết chính trị trong nước và tăng cường ảnh hưởng ở nước ngoài. Chỉ sau hai năm tại chức, Tập đã tiến lên phía trước như một lãnh đạo có khả năng thay đổi đất nước, theo đuổi một nghị trình để cải tổ, nếu không muốn nói cách mạng hóa, các quan hệ chính trị và kinh tế không những trong nước mà còn với phần còn lại của thế giới.
Bệ đỡ cho viễn kiến của Tập là một ý
thức ngày càng trở nên bức thiết về tình trạng khẩn cấp. Tập tiếp nhận
quyền lực vào một thời điểm mà Trung Quốc mặc dù thành công về kinh tế,
nhưng bấp bênh về chính trị. Đảng Cộng sản Trung Quốc, bị băng hoại do
tham nhũng và thiếu hẳn một ý thức hệ hấp dẫn, đã mất uy tín trước dân
chúng, trong khi bất ổn xã hội ngày một lan rộng. Kinh tế Trung Quốc, dù
vẫn còn tăng trưởng ở một tốc độ đầy ấn tượng, nhưng bắt đầu để lộ
những dấu hiệu căng thẳng và bấp bênh. Còn trên mặt trận quốc tế, mặc dù
với địa vị của một cường quốc kinh tế toàn cầu, Trung Quốc không có
những thành tích lớn. Bắc Kinh không đáp ứng có hiệu quả các cuộc khủng
hoảng tại Libya và Syria và đã đứng bên lề khi các biến chuyển chính trị
làm rúng động hai trong những đối tác thân cận nhất của mình, Myanmar
(còn gọi là Miến Điện) và Bắc Hàn. Đối với nhiều nhà quan sát, hình như
Trung Quốc không có một chiến lược đối ngoại bao quát toàn diện nào cả.
Tập đã phản ứng lại ý thức vô vọng này
bằng một cuộc chiếm đoạt quyền hành – cho bản thân, cho Đảng Cộng sản,
và cho Trung Quốc. Ông từ bỏ truyền thống lãnh đạo tập thể của Đảng Cộng
sản và thay vào đó tự khẳng định mình như một lãnh đạo tối cao trong
một hệ thống chính trị trung ương tập quyền chặt chẽ. Ở trong nước,
những cải tổ kinh tế do ông đưa ra sẽ nâng cao vai trò của thị trường,
tuy nhiên chúng vẫn cho phép Nhà nước giữ quyền kiểm soát đáng kể. Ở
ngoài nước, Tập đang tìm cách nâng cao địa vị của Trung Quốc thông qua
việc bành trướng thương mại và đầu tư, tạo ra các định chế quốc tế mới,
và tăng cường sức mạnh của quân đội. Nhưng viễn kiến của Tập mang trong
mình một nỗi sợ hãi ngấm ngầm: rằng một chính sách mở cửa đối với các tư
tưởng chính trị và kinh tế phương Tây sẽ xói mòn quyền lực của Nhà nước
Trung Quốc.
Nếu thành công, các cải tổ của Tập có
thể đưa đến một quốc gia độc đảng, mạnh về kinh tế, cố kết về chính trị
và không có tham nhũng: một Singapore khổng lồ. Nhưng không có gì đảm
bảo rằng những cải tổ này sẽ thay hình đổi dạng Trung Quốc như Tập hi
vọng. Các chính sách của Tập đã tạo ra những ổ bất mãn sâu sắc ở trong
nước và kích động một phản ứng quốc tế quật lại Trung Quốc. Nhằm dập
tắt các tiếng nói bất đồng chính kiến, Tập phát động một cuộc đàn áp
chính trị, gây bất mãn cho nhiều công dân Trung Quốc có tài năng và tháo
vát, thành phần mà các cải tổ của ông muốn khuyến khích. Những biện
pháp kinh tế thử nghiệm của ông đã nêu lên nhiều nghi vấn về viễn tượng
tăng trưởng kinh tế bền vững của Trung Quốc. Não trạng
thắng-là-hưởng-hết [winner-take-all mentality] của Tập đã gây tổn thương
cho các nỗ lực để ông có thể trở thành một lãnh đạo toàn cầu.
Mỹ và phần còn lại của thế giới không
thể chờ xem các cải tổ của Tập sẽ diễn ra như thế nào. Mỹ nên sẵn sàng
chấp nhận một số sáng kiến của Tập như những cơ hội hợp tác quốc tế,
đồng thời phải coi các nỗ lực khác của Tập là những xu thế đáng lo ngại
cần phải chặn đứng trước khi chúng được củng cố.
MỘT ĐỢT ĐÀN ÁP TRONG NƯỚC
Viễn kiến của Tập về một nước Trung Hoa
phục hồi sức sống [a rejuvenated China] trước hết dựa vào khả năng thực
hiện thương hiệu đặc biệt về cải tổ chính trị của ông: củng cố quyền lực
cá nhân bằng cách tạo ra các định chế mới, dập tắt các tiếng nói đối
lập chính trị, và hợp thức hóa quyền lãnh đạo của ông và quyền lực của
Đảng Cộng sản trong mắt người dân Trung Quốc. Từ khi nhậm chức, Tập đã
nhanh chóng thu tóm quyền lực chính trị và trở thành, không phải là
người đứng đầu trong tập thể đứng đầu [first among equals], mà giản dị
là người đứng đầu của giới lãnh đạo Trung Quốc. Ông đứng đầu Đảng Cộng
sản và Quân ủy Trung ương, hai cột trụ truyền thống của ban lãnh đạo
Đảng Cộng sản Trung Quốc, cũng như đứng đầu các nhóm lãnh đạo về kinh
tế, cải tổ quân đội, an ninh mạng, vấn đề Đài Loan, và cả Ủy ban An ninh
Quốc gia. Khác với các Chủ tịch nước tiền nhiệm, vốn cho Thủ tướng của
mình có thẩm quyền nhà nước trong lãnh vực kinh tế, Tập nắm giữ luôn vai
trò này. Ông còn nắm giữ vai trò Tổng Tư lệnh quân đội Trung Quốc theo
một phong cách cá nhân cao độ: mùa Xuân vừa qua, Tập công khai nhận lời
tuyên thệ trung thành từ 53 quan chức quân đội cao cấp. Theo một cựu
tướng lãnh, lễ tuyên thệ trung thành theo cung cách này chỉ diễn ra ba
lần trước đó trong lịch sử Trung Quốc.
Trong nỗ lực ráo riết nhằm củng cố quyền
lực của mình, Tập còn tìm cách triệt tiêu các tiếng nói chính trị ngoài
luồng, đặc biệt trên mạng lưới Internet sinh động trước đây của Trung
Quốc. Chính phủ đã bắt giữ, bắt giam, hay công khai nhục mạ những
blogger nổi tiếng như các doanh nhân tỉ phú Phan Thạch Ngật [Pan Shiyi]
và Tiết Tất Quần [Charles Xue]. Những nhà bình luận này, có đến hàng
chục triệu người theo dõi trên mạng xã hội, thường xuyên thảo luận một
loạt vấn đề từ ô nhiễm môi trường, chế độ kiểm duyệt đến nạn buôn bán
trẻ em. Mặc dù tiếng nói của họ không hoàn toàn bị dập tắt, nhưng họ
không còn dám đi lạc vào lãnh vực chính trị nhạy cảm. Thật vậy, Phan,
một nhân vật trung tâm trong chiến dịch đòi chính phủ Trung Quốc cải
thiện chất lượng không khí tại Bắc Kinh, bị buộc phải tự phê trên truyền
hình quốc gia năm 2013. Sau đó, ông phải dùng Weibo, một dịch vụ microblog
phổ biến tại Trung Quốc để cảnh báo một tỉ phú địa ốc khác không nên
chỉ trích chương trình cải tổ kinh tế của chính phủ: “Hãy thận trọng,
nếu không ông có thể bị bắt.”
Dưới chế độ Tập Cận Bình, Bắc Kinh còn
đưa ra một loạt qui định Internet mới. Trong đó có cả một điều luật đe
dọa trừng phạt đến ba năm tù giam về tội đăng lên mạng bất cứ điều gì mà
nhà cầm quyền coi là một “tin đồn,” nếu thông điệp mạng [post]
này được hơn 5000 người đọc hoặc trên 500 lượt chia sẻ. Dưới những luật
lệ nghiêm khắt mới nhất này, nhiều công dân Trung Quốc đã bị bắt giữ
chỉ vì đăng các giả thuyết về sự biến mất của Chuyến bay 370 của
Malaysia Airlines. Trong một giai đoạn bốn tháng liên tục, Bắc Kinh đã
đình chỉ, xoá bỏ, hoặc trừng phạt hơn 100.000 tài khoản trên Weibo vì vi
phạm một trong bảy “điều cốt lõi” [bottom lines] được định nghĩa một
cách khái quát tiêu biểu cho những giới hạn của quyền bày tỏ được cho
phép [the limits of permissible expression]. Những hạn chế này đã giảm
thiểu 70 phần trăm số post trên Weibo từ tháng Ba 2012 đến
tháng Mười Hai 2013, theo một cuộc nghiên cứu dựa vào ý kiến của 1,6
triệu người sử dụng mạng Weibo được báo The Telegraph ủy nhiệm.
Và khi các công dân mạng Trung Quốc tìm các phương tiện khác để trao
đổi thông tin, chẳng hạn thông qua diễn đàn đưa tin nhanh WeChat, nhân
viên kiểm duyệt của chính phủ vẫn còn theo dõi họ. Tháng Tám 2014, Bắc
Kinh đưa ra những qui định mới về dịch vụ đưa tin nhanh, đòi hỏi người
sử dụng phải đăng ký bằng tên thật của mình, hạn chế việc chia sẻ tin
tức chính trị, và thực thi một qui tắc ứng xử [dành cho công dân mạng].
Thật không đáng ngạc nhiên chút nào khi trong bản xếp hạng mức độ tự do
Internet trên toàn thế giới năm 2013, tổ chức vô vị lợi Freedom House có
trụ sở tại Mỹ đặt Trung Quốc vào vị thứ 58 trong số 60 nước – đồng hạng
với Cuba, và chỉ trên Iran.
Trong nỗ lực thúc đẩy thống nhất ý thức
hệ trong nước, Tập còn chụp mũ các tư tưởng du nhập từ ngoài vào và
thách thức chế độ chính trị Trung Quốc là phản lại tình yêu nước và thậm
chí là nguy hiểm. Theo đường lối này, Bắc Kinh đã cấm nghiên cứu và
giảng dạy bảy đề tài tại các đại học: đó là các giá trị phổ quát, xã hội
dân sự, các quyền của công dân, tự do báo chí, các sai phạm của Đảng
Cộng sản, các đặc quyền của chủ nghĩa tư bản, và tính độc lập của ngành
tư pháp. Mùa Hè vừa qua, một quan chức Đảng đã công khai đả kích Viện
Khoa học Xã hội Trung Quốc, một cơ quan nghiên cứu của chính phủ, với
cáo buộc là viện này “bị các thế lực nước ngoài xâm nhập.” Việc đả kích
này gặp phải sự chế giễu của nhiều trí thức Trung Quốc nổi tiếng bên
ngoài Viện Khoa học Xã hội, kể cả nhà kinh tế Mao Vu Thức [Mao Yushi],
giáo sư luật Hạ Vệ Phương [He Weifang], và nhà văn Lưu Dật Minh [Liu
Yiming]. Tuy vậy, những cáo buộc này có thể gây ra những hậu quả đáng sợ
cho công việc nghiên cứu và hợp tác quốc tế của các học giả.
Đợt đàn áp này có thể xói mòn sự gắn bó
chính trị [political cohesion] mà Tập đang theo đuổi. Cư dân Hồng Kông
vàMacao, vốn có truyền thống hưởng nhiều quyền tự do chính trị hơn dân
chúng lục địa, đã theo dõi những động thái này của Tập với một nỗi lo
ngại ngày càng sâu sắc; nhiều người đã lên tiếng kêu gọi cải tổ dân chủ.
Đối với một xã hội dân chủ có nhiều tiếng nói đa nguyên như Đài Loan,
khuynh hướng đàn áp của Tập không thể tạo điều kiện để thúc đẩy việc
thống nhất với lục địa. Và tại vùng Tân Cương, vốn bị phân hóa sắc tộc,
những chính sách của Bắc Kinh nhằm hạn chế sinh hoạt chính trị và văn
hóa đã đưa đến các cuộc biểu tình bạo động.
Thậm chí trong tầng lớp thượng lưu kinh
tế và chính trị Trung Quốc, nhiều người tỏ ra lo lắng về hành động gia
tăng kềm kẹp chính trị của Tập và họ đang tìm kiếm một chỗ giữ chân
[foothold] ở nước ngoài. Theo nguyệt san Hurun Report có trụ sở
tại Trung Quốc, 85 phần trăm những người có tài sản trên 1 triệu Mỹ kim
muốn gửi con ra học nước ngoài, và hơn 65 phần trăm những công dân
Trung Quốc có tài sản từ 1,6 triệu Mỹ kim trở lên đã di cư hoặc có kế
hoạch di cư ra nước ngoài. Việc các nhóm tinh hoa Trung Quốc bỏ nước ra
đi không những gây bối rối chính trị mà còn là một bước thụt lùi đáng kể
đối với các nỗ lực của Bắc Kinh nhằm chiêu dụ các khoa học gia và học
giả hàng đầu đã bỏ nước ra đi trong nhiều thập niên trước trở về.
MỘT THẨM QUYỀN ĐẠO LÝ?
Đặc điểm quan trọng nhất trong các cải
tổ chính trị của Tập là nỗ lực phục hồi thẩm quyền đạo lý của Đảng Cộng
sản. Ông lập luận rằng nếu không giải quyết được vấn đề tham nhũng đang
lan tràn trong Đảng, việc này có thể dẫn đến sự sụp đổ không những của
Đảng mà còn của nhà nước Trung Quốc. Dưới sự giám sát chặt chẽ của Vương
Kỳ Sơn [Wang Qishan], ủy viên Ban Thường vụ Bộ Chính trị, việc chống
tham nhũng trong giới quan chức đã trở thành một vấn đề mang dấu ấn của
Tập. Mặc dù các lãnh đạo Trung Quốc trước đây cũng từng thực thi các
chiến dịch bài trừ tham nhũng, nhưng Tập đã đưa vào mục tiêu này một
năng lượng mới, một thái độ nghiêm túc mới: hạn chế ngân quĩ dành cho
các bữa tiệc chiêu đãi quan chức, việc sử dụng ô tô, và các bữa ăn khi
đi công tác; theo dõi các nhân vật nổi tiếng trong báo giới, chính
quyền, quân đội, và khu vực tư; và nhanh chóng gia tăng số vụ tham nhũng
được đem ra tra xét chính thức. Năm 2013, Đảng đã trừng phạt hơn
182.000 viên chức về tội tham nhũng, cao hơn con số trung bình của 5 năm
trước đến 50.000. Hai vụ tai tiếng bùng nổ vào mùa Xuân vừa qua cho
thấy phạm vi rộng lớn của chiến dịch này. Trong vụ thứ nhất, chính quyền
trung ương bắt giữ một trung tướng trong quân đội Trung Quốc về tội bán
hàng trăm chức vị trong quân đội, đôi khi để đổi lấy những món tiền
khổng lồ; cái giá để trở thành một thiếu tướng, chẳng hạn, có thể lên
tới 4,8 triệu Mỹ kim. Trong vụ thứ hai, Bắc Kinh bắt đầu điều tra hơn
500 quan chức chính quyền khu vực tỉnh Hồ Nam vì đã tham gia một đường
dây mua phiếu bầu lên tới 18 triệu Mỹ kim.
Cuộc thánh chiến chống tham nhũng của
Tập chỉ là một phần của một kế hoạch rộng lớn hơn để phục hồi thẩm quyền
đạo lý của Đảng Cộng sản. Ông cũng đã công bố các cải tổ nhằm đối phó
một số vấn đề bức thiết nhất của xã hội Trung Quốc. Dưới sự lèo lái của
Tập, lãnh đạo Trung Quốc đã phát động một chiến dịch cải thiện chất
lượng không khí tại Trung Quốc; cải tổ chính sách một con; duyệt lại chế
độ hộ khẩu vốn ràng buộc nơi ăn chốn ở, phúc lợi y tế, và việc học hành
của con cái với nơi cư ngụ chính thức của người dân, dành nhiều ưu đãi
cho cư dân thành thị hơn vùng quê; và đóng cửa hệ thống trại “lao cải”,
vốn cho phép chính phủ giam giữ người dân vô cớ. Chính phủ còn công bố
các kế hoạch làm cho hệ thống tư pháp minh bạch hơn và loại bỏ sự can
thiệp của các quan chức địa phương vào công việc của toà án.
Mặc dù nhịp độ và phạm vi của các nỗ lực
cải tổ do Tập đưa ra gây được nhiều ấn tượng, nhưng người ta vẫn chưa
rõ chúng là khởi điểm của một sự thay đổi dài hạn hay chỉ là những biện
pháp hời hợt nhằm mua chuộc lòng dân nhất thời. Dù thế nào chăng nữa,
một số cải tổ của Tập đã châm ngòi cho một cuộc chống đối mãnh liệt.
Theo tờ Thời báo Tài chính [Financial Time], cả hai cựu lãnh
đạo Trung Quốc Giang Trạch Dân và Hồ Cẩm Đào đã khuyến cáo Tập phải hạn
chế chiến dịch chống tham nhũng lại, và chính Tập cũng nhìn nhận các nỗ
lực của mình đã gặp phải sự chống đối đáng kể. Chiến dịch này đã gây ra
những tổn thất kinh tế thật sự. Theo Ngân hàng America Merrill Lynch,
GDP của Trung Quốc trong năm nay đã giảm bớt 1,5 phần trăm do hậu quả
các hàng hóa và dịch vụ xa xỉ bị ế ẩm, vì các quan chức ngày càng lo
ngại rằng các tiệc tùng lãng phí, các cuộc mua quan bán chức và sắm sửa
đắt tiền sẽ thu hút sự chú ý ngoài ý muốn của họ. (Dĩ nhiên, nhiều người
Trung Quốc vẫn tiếp tục mua sắm; nhưng họ chỉ làm việc này ở nước
ngoài.) Và thậm chí những người hậu thuẫn mục tiêu chống tham nhũng cũng
đặt nghi vấn về các phương pháp của Tập. Thủ tướng Lý Khắc Cường, chẳng
hạn, vào đầu năm 2014 đã kêu gọi tăng cường tính minh bạch và trách
nhiệm giải trình trong chiến dịch chống tham nhũng của chính phủ; nhưng
tuyên bố của ông nhanh chóng bị xóa bỏ khỏi các website.
Lập trường của Tập về vấn đề tham nhũng
cũng có thể gây rủi ro cho tư thế cá nhân và địa vị chính trị của ông:
gia đình Tập được xếp vào hạng giàu có nhất trong giới lãnh đạo Trung
Quốc, và theo tờ New York Times, Tập đã thúc đẩy thân nhân sang
nhượng bớt tài sản, nhằm giảm bớt nguy cơ ông có thể bị đả kích. Ngoài
ra, ông hoàn toàn bác bỏ những lời kêu gọi gia tăng tính minh bạch, bằng
cách bắt bớ những nhà hoạt động đòi quan chức nhà nước phải kê khai tài
sản và trừng phạt các hãng tin phương Tây đã điều tra tài sản của các
lãnh đạo Trung Quốc.
NHÀ NƯỚC TIẾP TỤC GIỮ QUYỀN KIỂM SOÁT KINH TẾ
Trong khi Tập ra sức củng cố quyền lực
chính trị và phục hồi chính nghĩa của Đảng Cộng sản, ông còn phải tìm
cách thúc đẩy tăng trưởng kinh tế hơn nữa. Nói rộng ra, các mục tiêu của
ông gồm việc chuyển hóa Trung Quốc từ một trung tâm gia công của thế
giới thành một trung tâm phát kiến của thế giới, tái quân bình kinh tế
Trung Quốc bằng cách đặt ưu tiên tiêu thụ cao hơn đầu tư, và nới rộng
không gian cho doanh nghiệp tư. Các kế hoạch của Tập gồm cả cải tổ định
chế lẫn cải tổ chính sách. Chẳng hạn, ông đã có lịch trình cải tổ quan
trọng cho chế độ thuế má: thu nhập của chính quyền địa phương sẽ phát
xuất từ nhiều loại thuế khác nhau thay vì chủ yếu từ các vụ bán đất,
thường dẫn đến tham nhũng và bất ổn xã hội. Ngoài ra, chính quyền trung
ương, vốn có truyền thống hưởng khoảng một nửa lợi tức thuế quốc gia
nhưng chỉ trả một phần ba các chi phí phúc lợi xã hội, sẽ gia tăng ngân
sách dành cho các dịch vụ xã hội, giảm bớt phần nào gánh nặng cho các
chính quyền địa phương. Hàng chục sáng kiến mới về chính sách cũng đang ở
các giai đoạn thử nghiệm, gồm việc khuyến khích tư nhân đầu tư vào các
doanh nghiệp nhà nước và giảm bớt thù lao của các giám đốc xí nghiệp,
thiết lập các ngân hàng tư để đưa vốn đến các công ty nhỏ và trung bình,
và cắt ngắn thời gian chờ đợi phê chuẩn hành chính của các công ty mới
được thành lập.
Nhưng khi các chi tiết trong kế hoạch
kinh tế của Tập được triển khai, thì rõ ràng là, mặc dù Tập nhấn mạnh
vai trò của thị trường tự do, nhưng nhà nước sẽ tiếp tục giữ quyền kiểm
soát phần lớn nền kinh tế Trung Quốc. Việc cải tổ đường lối quản trị các
công ty nhà nước sẽ không xói mòn vai trò nổi bật của Đảng Cộng sản
trong việc ra quyết sách của những công ty này; Tập giữ nguyên các rào
cản quan trọng đối với đầu tư nước ngoài, và thậm chí trong khi chính
phủ hứa hẹn giảm thiểu sự lệ thuộc của tăng trưởng kinh tế dựa vào đầu
tư, các nỗ lực kích thích kinh tế của chính phủ vẫn tiếp tục, do đó làm
cho số nợ của các địa phương càng ngày càng tăng. Thật vậy, theo Hoàn cầu Thời báo, số nợ đáo hạn không sinh lợi trong sáu tháng đầu của năm 2014 đã vượt quá số nợ mới không sinh lợi cho cả năm 2013.
Ngoài ra, Tập còn đưa vào nghị trình
kinh tế của mình cùng một thứ tinh thần dân tộc chủ nghĩa – thậm chí bài
ngoại – vốn đã xâm nhập vào nghị trình chính trị của ông. Các chiến
dịch chống tham nhũng và chống độc quyền kinh tế của Tập nhắm vào các
tập đoàn đa quốc làm ra các sản phẩm như sữa bột, dụng cụ y khoa, dược
phẩm, và phụ tùng xe hơi. Thật vậy, vào tháng Bảy, 2013, Ủy ban Phát
triển và Cải tổ Quốc gia của Trung Quốc đã triệu tập đại diện của 30
công ty đa quốc với ý đồ buộc họ phải nhìn nhận đã có hành vi sai phạm.
Lắm khi, Bắc Kinh hình như đang cố tình phá hoại các công ty cung cấp
hàng hóa và dịch vụ nước ngoài: báo chí nhà nước dồn mọi chú ý vào điều
mà họ cho là những sai phạm tại các công ty đa quốc trong khi tương đối
giữ im lặng trước những vấn đề tương tự tại các công ty Trung Quốc.
Cũng như chiến dịch chống tham nhũng,
việc Tập cho điều tra các công ty nước ngoài nêu lên những nghi vấn về ý
đồ thầm kín của ông. Trong một cuộc tranh luận được phổ biến rộng rãi
trên truyền hình nhà nước Trung Quốc, giữa Chủ tịch Phòng Thương mại
Liên Âu và một quan chức của Ủy ban Phát triển và Cải tổ Quốc gia, viên
chức châu Âu này đã đưa người đồng nhiệm Trung Quốc vào thế phải chống
chế bênh vực những sự khác biệt giữa cách chính phủ Trung Quốc đối xử
với các công ty nước ngoài và các công ty trong nước. Cuối cùng, vị quan
chức Trung Quốc có vẻ nhượng bộ khi nói rằng thủ tục chống độc quyền
của Trung Quốc là một thủ tục “mang đặc tính Trung Quốc.”
Như vậy, những hứa hẹn cải tổ ban đầu
của Tập vẫn chưa được thực hiện. Một tập báo cáo dày 31 trang về cuộc
cải tổ kinh tế Trung Quốc, được Hội đồng Thương mại Mỹ-Trung công bố vào
tháng Sáu 2014, nêu ra hàng chục nhiệm vụ chưa hoàn thành. Nó chỉ coi
ba sáng kiến chính sách sau đây của Tập là thành công: cắt giảm thời
gian đăng ký công ty mới, cho phép các tập đoàn đa quốc sử dụng đồng
Nhân dân tệ để bành trướng công ty của mình, và cải tổ chế độ hộ khẩu.
Tuy nhiên, nếu muốn xúc tiến những biện pháp cải tổ sâu rộng hơn nữa, có
khả năng Tập cần phải gây một cú sốc cho cả hệ thống, đưa đến sự sụp đổ
của thị trường địa ốc, chẳng hạn. Hiện nay, rất có thể Tập là kẻ thù tệ
hại nhất của chính mình: việc hô hào một vai trò nổi bật của thị trường
không thể đi đôi với tham vọng giữ quyền kiểm soát kinh tế của ông.
ĐÁNH THỨC CON SƯ TỬ
Những nỗ lực cải tổ chính trị và kinh tế
ở trong nước của Tập gắn liền với những nước cờ sinh động không kém
nhằm khẳng định địa vị của Trung Quốc như một cường quốc toàn cầu.
Nhưng, gốc rễ chính sách đối ngoại của Tập đã có sẵn trước khi ông trở
thành Chủ tịch nước. Giới lãnh đạo Trung Quốc bắt đầu công khai bàn đến
sự trỗi dậy của Trung Quốc như một cường quốc thế giới tiếp theo sau
cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008. Vào lúc đó, nhiều học giả
Trung Quốc lập luận rằng Mỹ đã bắt đầu một cuộc xuống dốc không thể
tránh và việc này sẽ dành chỗ cho Trung Quốc nắm vai trò lãnh đạo tối
cao trên toàn cầu. Trong một diễn văn đọc tại Paris vào tháng Ba 2014,
Tập nhắc đến những suy niệm của Napoleon về Trung Quốc: “Napoleon nói
rằng Trung Quốc là một con sư tử đang ngủ, và khi nó thức dậy, cả thế
giới sẽ run sợ.” Con sư tử Trung Quốc, Tập trấn an cử tọa của mình, “đã
thức dậy, nhưng đây là một con sư tử hiền lành, vui vẻ, và văn minh.”
Tuy nhiên, một số hành động của Tập vạch trần những lời trấn an này. Ông
đã thay thế câu kinh nhật tụng của cựu lãnh đạo Đặng Tiểu Bình được lặp
đi lặp lại hàng chục năm nay – “Thao quang dưỡng hối” — bằng một chính
sách đối ngoại khác hẳn, theo chủ nghĩa bành trướng và phô trương cơ
bắp.
Đối với Tập, mọi con đường đều dẫn đến
Bắc Kinh, nghĩa bóng cũng như nghĩa đen. Tập làm sống lại quan niệm xa
xưa về Con đường Tơ lụa – từng nối liền đế quốc Trung Hoa với Trung Á,
Trung Đông, và thậm chí với châu Âu – bằng cách đề xuất một mạng lưới
rộng lớn gồm đường sắt, ống dẫn dầu, xa lộ, và kinh đào theo địa hình
của con đường cổ đại. Hạ tầng cơ sở này, một dự án mà Tập tin chắc các
ngân hàng và công ty Trung Quốc sẽ tài trợ và xây dựng, nếu được thực
hiện sẽ cho phép các hoạt động mậu dịch giữa Trung Quốc và nhiều phần
còn lại của thế giới phát triển hơn nữa. Bắc Kinh còn cân nhắc việc xây
dựng một đường sắt cao tốc liên lục địa dài khoảng 8.100 dặm Anh [hay
gần 13.500 km] để nối Trung Quốc với Canada, Nga, và Hoa Kỳ đi qua Eo
biển Bering. Ngay cả Bắc Băng Dương cũng trở thành một sân sau của Trung
Quốc: các học giả Trung Quốc mô tả nước mình như một quốc gia “cận Bắc
Băng Dương.”
Cùng với cơ sở hạ tầng mới, Tập còn muốn
thiết lập các định chế quốc tế mới để hậu thuẫn địa vị của Trung Quốc
như một cường quốc lãnh đạo khu vực và toàn cầu. Ông đã giúp thành lập
một ngân hàng phát triển mới, được điều hành bởi các nước BRICS –
Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc, và Nam Phi – nhằm thách thức địa vị đứng
đầu của Quĩ Tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng Thế giới. Ông còn đề nghị
thành lập Ngân hàng Đầu tư Cơ sở hạ tầng châu Á, một dự án có thể giúp
Trung Quốc trở thành nhà tài trợ hàng đầu của việc phát triển khu vực.
Hai nỗ lực này là những dấu hiệu cho thấy Tập muốn khai thác những bức
xúc đối với việc Mỹ không chịu thúc đẩy các tổ chức kinh tế quốc tế phản
ánh nguyện vọng của các nước đang phát triển hơn nữa.
Tập còn đưa ra các sáng kiến về an ninh
khu vực. Ngoài Tổ chức Hợp tác Thượng Hải đã thành hình, một định chế an
ninh do Trung Quốc lãnh đạo gồm Nga và bốn quốc gia Trung Á, Tập còn
muốn xây dựng một cơ cấu an ninh châu Á-Thái Bình Dương sẽ không có sự
tham gia của Mỹ. Nói chuyện tại một hội nghị vào tháng Năm 2014, Tập
nhấn mạnh chủ điểm: “Phải để cho người châu Á điều hành công việc nội bộ
của châu Á, giải quyết các vấn đề châu Á, và củng cố an ninh của châu
Á.”
Xu thế của Tập nhắm tới một chính sách
khu vực dùng sức mạnh cơ bắp bắt đầu biểu hiện rõ nét trước khi ông trở
thành Chủ tịch nước. Năm 2010, Tập đứng đầu nhóm lãnh đạo chịu trách
nhiệm về chính sách biển Hoa Nam của Trung Quốc, một chính sách nới rộng
việc định nghĩa quyền lợi cốt lõi của Trung Quốc để bao gồm các đòi hỏi
chủ quyền lãnh hải rộng lớn trong biển Hoa Nam [Biển Đông]. Kể từ đó,
Tập đã sử dụng mọi phương tiện từ hải quân Trung Quốc đến tàu đánh cá
dân sự để ra sức củng cố những đòi hỏi này – những đòi hỏi đang bị các
quốc gia khác tiếp giáp Biển Đông bác bỏ. Vào tháng Năm 2014, xung đột
giữa Trung Quốc và Việt Nam bùng nổ khi Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Trung
Quốc đưa một giàn khoan vào một vùng tranh chấp trong Biển Đông; căng
thẳng tiếp tục gia tăng cho đến khi Trung Quốc rút giàn khoan vào giữa
tháng Bảy. Nhằm giúp việc thực hiện chủ quyền của Trung Quốc trong biển
Hoa Đông, Tập đã tuyên bố một “vùng nhận diện phòng không” trên một phần
của biển này, chồng lấn với các vùng nhận diện phòng không của Nhật và
Nam Hàn. Không một nước láng giềng nào của Trung Quốc nhìn nhận bất cứ
biện pháp nào trong chuỗi hành động này là hợp pháp. Tuy thế, Bắc Kinh
thậm chí còn vẽ lại bản đồ Trung Quốc và cho in lên hộ chiếu Trung Quốc
gồm cả những vùng đang tranh chấp với Ấn Đô, cũng như với các nước Đông
Nam Á, gây nên một trận bão lửa chính trị trong khu vực.
Những thao diễn chính trị này của Tập đã
nhen nhúm tình yêu nước của người dân Trung Quốc nhưng cũng khơi dậy
chủ nghĩa dân tộc độc hại không kém tại các nước khác. Các lãnh đạo mới
có tinh thần dân tộc chủ nghĩa tương tự tại Ấn Độ và Nhật Bản đã bày tỏ
mối quan ngại về các chính sách của Tập và do đó đã sử dụng các biện
pháp nâng cao hình ảnh an ninh của nước mình. Thật vậy, trong cuộc vận
động tranh cử chức Thủ tướng Ấn Độ vào đầu năm 2014, Narendra Modi đã
lên tiếng chỉ trích các xu thế bành trướng chủ nghĩa của Trung Quốc, và
kể từ đó, Modi và Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe đã nâng cấp các quan hệ
quốc phòng và an ninh giữa hai nước. Nhiều nỗ lực mới về an ninh khu vực
đang được tiến hành không có sự tham dự của Bắc Kinh (cũng như
Washington). Chẳng hạn, Ấn Độ đã và đang huấn luyện một số lực lượng hải
quân Đông Nam Á, gồm hải quân Myanmar và ViệtNam. Nhiều quân đội trong
khu vực – như quân đội Australia, Ấn Độ, Nhật Bản, Philippines,
Singapore, và Nam Hàn – đã có kế hoạch diễn tập phòng thủ hỗn hợp.
MỘT PHẢN ỨNG MẠNH MẼ
Đối với Mỹ và phần còn lại của thế giới,
sự tỉnh dậy của nước Trung Hoa dưới quyền lãnh đạo của Tập đã kích động
hai phản ứng khác nhau: một mặt là sự hào hứng về những điều mà một
Trung Quốc hùng mạnh hơn, ít tham nhũng hơn có thể đạt được; và mặt khác
là sự lo lắng đáng kể về những thách thức mà một Trung Quốc độc tài
quân phiệt có thể đặt ra cho trật tự tự do mà Mỹ bảo trợ.
Về mặt tích cực, những kế hoạch của Bắc
Kinh về một Con đường Tơ lụa hiện đại sẽ đặt cơ sở trên ổn định chính
trị tại Trung Đông; việc này có thể khuyến khích Bắc Kinh hợp tác với
Washington để đảm bảo hòa bình trong khu vực này. Một cách tương tự,
việc các công ty Trung Quốc ngày càng muốn đầu tư ở nước ngoài có thể
tạo cho chính quyền Washington một thế đòn bẩy lớn hơn khi họ đẩy mạnh
một hiệp ước đầu tư song phương với Bắc Kinh. Mỹ còn phải khuyến khích
Trung Quốc tham gia Quan hệ Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP), một
hiệp định tự do mậu dịch khu vực quan trọng đang trong thời kỳ đàm phán.
Cũng như những cuộc đàm phán của Trung Quốc trước đây để gia nhập Tổ
chức Thương mại Thế giới trong thập niên 1990 đã thúc đẩy các nhà cải tổ
kinh tế Trung Quốc đưa ra những thay đổi nội bộ, những cuộc đàm phán để
gia nhập TPP ngày nay có thể sẽ mang lại hậu quả tương tự.
Ngoài ra, mặc dù Trung Quốc đã có một
vai trò đáng kể trong hệ thống quốc tế, Mỹ cần phải ra sức giữ Trung
Quốc ở lại trong hệ thống này. Chẳng hạn, Quốc hội Mỹ phải phê chuẩn
những tu chính được đề xuất cho hệ thống bầu cử nội bộ của Quĩ Tiền tệ
Quốc tế để cho phép Trung Quốc và các nước đang phát triển khác có một
tiếng nói lớn hơn trong việc quản lý quĩ này và do đó làm giảm quyết tâm
của Bắc Kinh trong việc thành lập các tổ chức cạnh tranh mới.
Về mặt tiêu cực, luận điệu dân tộc chủ
nghĩa và lập trường quân sự quyết đoán của Tập đặt ra một thách thức
trực tiếp đối với lợi ích của Mỹ ở trong khu vực và đòi hỏi một phản ứng
mạnh mẽ. Chiến lược “tái quân bình lực luợng” hoặc “xoay trục” hướng về
châu Á của Washington không phải chỉ là một phản ứng đối với hành vi
ngày một quyết đoán hơn của Trung Quốc. Nó còn phản ánh những giá trị
thiết thân nhất trong chính sách đối ngoại của Mỹ: tự do trên biển, trên
không, và trong không gian; tự do mậu dịch; chế độ pháp trị; và các
quyền cơ bản của con người. Nếu thiếu một chiến lược xoay trục mạnh mẽ,
vai trò của Mỹ như một cường quốc khu vực sẽ suy yếu, và Washington sẽ
bị từ chối những lợi ích phát sinh từ việc hợp tác sâu sắc hơn với đa số
trong những nền kinh tế năng động nhất của thế giới. Vì thế, Mỹ phải
hậu thuẫn việc xoay trục chiến lược bằng một sự hiện diện quân sự hùng
hậu trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương để chặn đứng hay chống lại chủ
trương xâm lược của Trung Quốc; đạt được sự đồng thuận và phê chuẩn Hiệp
định TPP; và tăng cường các chương trình của Mỹ nhằm hậu thuẫn các định
chế dân chủ và xã hội dân sự tại các nước như Cambodia, Malaysia,
Myanmar, và Việt Nam, là những nơi dân chủ mới manh nha nhưng đang phát
triển.
Đồng thờiWashingtonphải biết rằng có thể
Tập sẽ không thành công trong việc chuyển đổi Trung Quốc theo đúng
đường lối ông đưa ra. Tập vạch ra cho mình một viễn kiến, nhưng các sức
ép từ bên trong lẫn bên ngoài Trung Quốc sẽ ảnh hưởng lên con đường
trước mặt của nước này trong nhiều cách rất bất ngờ. Một số nước giàu về
hàng hóa đã ngần ngại khi giao dịch với các công ty Trung Quốc, vì họ
không yên tâm về hồ sơ trách nhiệm xã hội yếu kém của chúng, khiến Bắc
Kinh phải thăm dò các đường lối mới để tiến hành việc kinh doanh. Các
nước láng giềng của Trung Quốc, hoảng hốt trước thái độ ngang ngược của
Bắc Kinh, đã bắt đầu hình thành những quan hệ an ninh mới. Thậm chí
những chuyên gia nổi tiếng về chính sách đối ngoại hiện sống tại Trung
Quốc, như Vương Tập Tư [Wang Jisi] thuộc Đại học Bắc Kinh và Đại sứ nghỉ
hưu Ngô Kiến Dân [Wu Jianmin], đã bày tỏ do dự về nội dung chủ yếu
trong chính sách đối ngoại của Tập.
Sau cùng, mặc dù gần như không có một
yếu tố nào trong chính sách đối nội và đối ngoại của Tập tỏ ra khuyến
khích một sự hợp tác sâu đậm hơn với Mỹ, nhưng Washington phải chống lại
việc hình thành quan hệ với Trung Quốc dưới hình thức cạnh tranh. Coi
Trung Quốc như một đối thủ hay kẻ thù chỉ nuôi dưỡng lập trường chống
phương Tây của Tập, và chẳng đóng góp gì cho việc đẩy mạnh hợp tác song
phương mà chỉ làm suy yếu thêm địa vị của Mỹ mà thôi. Thay vào đó, Nhà
Trắng phải đặc biệt theo dõi những diễn biến trong các chính sách của
Tập, vận dụng những chính sách nào có thể tăng cường quan hệ với Trung
Quốc và đẩy lùi những chính sách làm xói mòn các lợi ích của Mỹ. Đối
diện với sự bấp bênh về tương lai của Trung Quốc, các nhà làm chính sách
của Mỹ phải giữ thái độ linh động và nhanh nhạy.
ELIZABETH C. ECONOMY là Nhà Nghiên
cứu cao cấp [trong chương trình vinh danh C.V. Starr] và là Giám đốc Ban
Nghiên cứu châu Á tại Council on Foreign Relations
Nguồn: “China’s Imperial President. Xi Jinping Tightens His Grip”, Foreign Affairs tháng Mười Một/ tháng Mười Hai 2014
Bản tiếng Việt © 2014 Trần Ngọc Cư & pro&contra
No comments:
Post a Comment