Thứ Hai, ngày 17 tháng 3 năm 2014
Lời dẫn của Lâm Khang chủ nhân: Họa sĩ Trần Duy qua
đời lúc 22h ngày 14/3/2014 tại Hà Nội, hưởng thọ 95 tuổi. Lễ viếng bắt đầu từ
8h30 ngày 21/3/2014, tại Nhà tang lễ 125 Phùng Hưng – Hà Nội. An táng cùng ngày
tại Công viên Vĩnh Hằng – Ba Vì – Hà Nội.
Trong
niềm kính tiếc, tiễn đưa Họa sĩ Trần Duy về miền Tản Lĩnh - Đà Giang bạn cùng
hạc nội mây ngàn và đoàn tụ cùng các văn nhân hiền triết, chúng tôi xin giới
thiệu bài viết của Nhã Thuyên, đăng trên Da Màu.
-----------------------
13.01.2009
Họa sỹ Trần Duy, nay đã vào tuổi 88, hiện diện trước
tôi như một câu chuyện lớn, một pho sách nằm lặng yên bao năm, nhưng ánh mắt
vẫn rạng lên sôi nổi những ý nghĩ sâu về nghệ thuật, về đất nước, con người.
Một phản sách đầy những cuốn sách cũ được gói ghém, chằng buộc cẩn thận, hỏi ra
mới biết là ông “chạy lụt” trong trận mưa lũ ở Hà Nội vừa rồi và cũng là để
chuẩn bị chuyển nhà, vì căn nhà thuê này phải trả. Phòng tranh của họa sỹ cũng
chỉ còn đôi bức phác thảo và vài ba bức lụa cuộn lại. “Thì tôi sống bằng tranh
vẽ mà”, ông nói.
Tôi đã nghĩ không hỏi nhiều về câu chuyện Nhân Văn
mà đến giờ, như đã “chẳng còn gì để nói”, mà lại như “chẳng thể biết nói gì”,
tôi cũng chẳng biết phải hỏi gì vì nói gì cũng là không tới, nhất là những
người chứng cứ khuất nẻo dần và những thế hệ sau cũng quên lãng đi. Nhưng tôi
thấy cần phải ghi lại đây một phần tiếng nói của họa sỹ Trần Duy, sau nửa thế
kỉ im lặng, bởi ông là một trong những người chứng cuối cùng của thời kì đó, và
ông thấy thật sự cần nói ra những điều còn nhiều mắc mớ của Nhân Văn. Câu
chuyện của họa sỹ Trần Duy và chúng tôi diễn ra trong nhiều buổi, xoay quanh
hai mảng là Chuyện Nhân Văn và hội họa, liên quan đến cuốn sách của liên quan
đến cuốn sách “Suy nghĩ về nghệ thuật” của ông vừa mới ra mắt bạn đọc, một cuốn
sách nén chặt và gợi mở nhiều suy tư về nghệ thuật trong sự chiêm ngẫm, lý giải
về con người và thời đại. Phần về hội họa đã đăng trên báo Lao
Động Cuối Tuần Số 52, Ngày 28/12/2008.
Xét thấy không có gì “nghiêm trọng”, tôi tự ý muốn
đăng lại toàn văn bài phỏng vấn này như một sự đóng góp nhỏ về tư liệu. ( Tác
giả Thụy Khuê trước đó đã thực hiện cuộc trò chuyện kĩ lưỡng và kín kẽ, thấu
đáo về cuộc đời và quá trình hoạt động sáng tạo của họa sỹ Trần Duy, trên RFI [1]–
trên cơ sở tư liệu là bài viết về Phan Khôi – nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân đã
đưa lên talawas trước đó, sau in trong cuốn “Suy nghĩ về nghệ thuật”. Tuy
nhiên, phần về Nhân Văn, tôi muốn nhấn mạnh – theo ý ông, những điều cần nói
nhất và muốn được nói ra, chứ không hỏi về các chi tiết cụ thể. Về Nhân Văn,
đến nay, mỗi người trong nhóm có những ý kiến và câu trả lời khác nhau, sự sai
đúng và thống nhất như thế nào vẫn là để ngỏ và đợi ở các nhà nghiên cứu và sự
trung thực của việc nhìn lại quá khứ.)
Khi tôi gửi lại bài phỏng vấn này, họa sỹ đã hoàn
tất việc chuyển nhà “để có một chỗ làm việc”. Ông vẫn viết và đang sắp xếp
không gian để vẽ.
***
Họa sỹ Trần Duy: Điều cần nói về Nhân Văn
Ông
đến với Nhân Văn như thế nào, và vai trò của ông trong Nhân Văn là gì, thưa
ông?
- Năm 1947- 48, tôi tham gia hội nghị văn hóa tại
Phú Thọ, rồi lớp chỉnh huấn tại Việt Bắc, lần đầu tiên tôi tiếp xúc với ông
Phan Khôi. Rồi sau đó, tôi được ăn ở cùng lán với ông tại cơ quan của Hội Văn
Nghệ. Khi đó tôi biết nhưng không quen với Lê Đạt. Tôi cũng không biết Trần
Dần. Nhưng có sự việc chấn động là cuộc họp ở 51 Trần Hưng Đạo về bài “Nhât
định thắng” của Trần Dần. Ông Phan Khôi và tôi ngồi cạnh nhau, nói rằng không
thể quy kết bài thơ là có tay gián điệp. Tôi đứng trên quan điểm của Phan Khôi
mà ủng hộ Trần Dần. Vậy là từ ông Phan Khôi mà tôi biết được nhóm Lê Đạt, Trần
Dần. Sau đó, năm 1956- 57, một số anh em đề nghị ông Phan Khôi làm chủ nhiệm
báo Nhân Văn, còn tôi làm thư kí tòa soạn. Tôi đi vào Nhân Văn không có mục
đích lớn. Tờ báo lúc bấy giờ như cái hội chợ, không ai có trách nhiệm gì cả.
Ông Phan Khôi làm chủ nhiệm, nhưng thực ra Lê Đạt, Nguyễn Hữu Đang là những
người chủ trương bài vở và nội dung tờ báo, còn tôi lo việc in ấn, tổ chức. Vấn
đề này tôi đã trình bày trong bài “Tưởng niệm về Phan Khôi” trong cuốn sách mới
của tôi. Có thể nói ông Đang ông Đạt là cái đầu, còn tôi thì là tay chân của
Nhân Văn, tổ chức tờ báo, vẽ tranh và tham gia viết bài.
Thưa
ông, từ sau Nhân Văn bị đóng cửa đến trước đổi mới, cuộc sống của ông như thế
nào?
- Thì cuộc sống của tôi cũng rơi vào hoàn cảnh điêu
đứng, nhà không còn một đồng xu nào cả. Tôi nhớ lên lĩnh lương, người ta bảo
tôi không có lương. Cuối tháng lại lên lĩnh, người ta bảo “không có lương của
anh”. Vợ đẻ đứa con thứ tư, tôi mang 1 xe đạp xuống chợ giời bán, đi 1 xe và 1
xe đem bán, giữa đường bị giật mất, đành phải bán cái xe đạp đang đi. Có lần,
tôi gặp Trần Danh Tuyên, nguyên bí thư Thành Ủy Hà Nội, đang đi ô tô, ông ta
dừng xe lại gặp tôi và hỏi tôi sống như thế nào. Trần Danh Tuyên giới thiệu đến
xưởng may để nhận khăn mùi xoa về may. Rồi Trần Danh Tuyên lại giới thiệu để
tôi có được một chiếc máy khâu, mang về để vợ khâu khăn mùi xoa, mỗi chiếc được
4 xu. Có lần, ông Dương Thông bên Bộ Công An hỏi tôi muốn gì? Tôi nói “Tôi là họa
sỹ, chỉ muốn được vẽ”. “Nếu anh cần vẽ, chúng tôi sẽ cho giấy để anh đi vẽ.
Nhưng anh đừng cho Hội Mỹ Thuật biết”. Tôi nhận được giấy chứng nhận họa sỹ
Trần Duy “được đi vẽ các danh lam thắng cảnh, trừ các nơi quân sự”. Con tôi đỗ
ra trường, nhưng đi đến đâu người ta cũng không cho học đại học. Lý do ghi vào
học bạ là “Bố: Trần Duy – tham gia Nhân Văn, Mẹ: phiên dịch nước ngoài; gia
đình: phản động”. Sau, nhờ sự giúp đỡ của Bộ Công An, con tôi lại được vào
trường Kiến Trúc.
Chuyện nhân văn, tôi thấy chính phủ, ban tuyên giáo
và công an có những cách ứng xử riêng của họ. Chuyện Phùng Quán câu cá, họ
biết, nhưng “bỏ qua”, cho nên không phải Phùng Quán câu cá trộm mà là câu cá
rất đường hoàng, ăn bao nhiêu cũng được, miễn là không đem bán. Tôi nói vậy là
để thấy rằng, cái oan nợ nhân văn, không chỉ có oan mà còn có nợ. Công an không
phải là cơ quan đàn áp mà chỉ ngăn chặn. Họ nói “anh hiện đang là một người bị
bệnh, anh dễ bị lây, cần điều trị và tránh tiếp xúc”.
Nhưng tôi còn nhiều ăn năn với những người tôi đã
“lôi kéo” họ vào. Phùng Cung thì là một nạn nhân lớn nhất của nhân văn bởi
Phùng Cung không tham gia Nhân Văn. Như Bác sĩ Đặng Văn Ngữ, anh ấy chỉ làm
khoa học. Anh Nguyễn Mạnh Tường và ông Đào Duy Anh, những trí thức chỉ mong có
cơ hội thuận lợi để được phục vụ bằng tri thức của họ.
Bây
giờ, cá nhân ông nhìn lại câu chuyện Nhân Văn như thế nào? Những điều gì muốn
nói nhất mà ông muốn được nói ra, thưa ông?
Nhân Văn thực ra bắt nguồn bằng nhiệt tâm đòi tự do
sáng tạo – để đổi mới thơ của các anh em làm thơ. Tôi không nghĩ nó xấu hay
tốt. Nhưng nó là đứa con sinh ra trong lúc chưa nên sinh ra. Đến khi sinh ra,
do cách anh em đối xử với nhau ở khóa học Thái Hà ấp do ông Tố Hữu tổ chức
thành ra hại lẫn nhau. Ngay cả về văn học cũng không đưa ra được điều gì mới
mẻ. Nhân Văn ra số thứ 4 thì chính ông Phan Khôi nói: “Chưa thấy cái gì mới
trong văn học cả. Chỉ còn chuyện gây sự, cãi cọ, đối phó, như trẻ con bị đánh
đâu đỡ đấy, không nêu ra được vấn đề gì. Mà đối phó với ai?”. Tìm cái mới là
nhiệt tâm. Nhưng tìm cái mới lúc đó khó. Vì mới là phải phản biện. Mà hoàn cảnh
đất nước lúc đó, với thực tế đó, thì phản biện xem như thọc gậy bánh xe. Thế
nên, những người hoàn toàn tốt, yêu chế độ, yêu cách mạng bị đẩy vào hoàn cảnh:
trở thành người phản động. Hoàn cảnh chính trị Việt Nam thời điểm ấy có những
khó khăn: đất nước chia đôi, Mỹ Diệm chủ trương thôn tính miền Bắc, Nhân Văn
đưa ra là không sợ địch lợi dụng, nhưng thực tế địch đã lợi dụng con bài Nhân
Văn… Cho nên, trong bối cảnh lịch sử của đất nước, đấu tranh đòi dân chủ không
có chừng mực, thì là một họa lớn đối với cuộc đấu tranh của dân tộc.
Tôi và Lê Đạt đều có ý nghĩ chính phủ cũng cần có
một tiếng nói dân chủ nên chủ trương cho phép Nhân Văn ra đời, nhưng như lời
thủ tướng Phạm Văn Đồng, Nhân Văn đấu tranh đối kháng đòi dân chủ tuyệt đối thì
không nên và không được. Nếu Nhân Văn dừng lại ở số 3 và 4 để đi vào sáng tác
thì tốt hơn. Điều ấy đã làm Lê Đạt, Văn Cao và một số người khác tham gia Nhân
Văn đồng tình.
Trong thời điểm ấy anh Mạc Ninh đến gặp tôi và nói
lại ý của ông Song Hào: “Các anh dừng lại, đừng nên đi quá sẽ có những tai biến
đối với các anh”. Đáng tiếc là chúng tôi không biết dừng lại ở lời khuyên khôn
ngoan ấy và để Nguyễn Hữu Đang tự động ra số 5 hướng đến đấu tranh trực diện
chính trị. Hành động phiêu lưu ấy đã đưa anh em đến góc chết. Và những người
như Bác sĩ Đặng Văn Ngữ, Đào Duy Anh, Nguyễn Mạnh Tường chỉ mong được làm công
tác nghiên cứu khoa học và học thuật cũng bị vạ lây.
Vì sao Nhân Văn từ tốt mà thành xấu? Vì hoàn cảnh
lúc đó, người ta cần phải bảo vệ chủ nghĩa yêu nước và bảo vệ một cách cực
đoan. Tố Hữu tổ chức lớp học, chia làm 4 loại: Phản động, xấu, lưng chừng, tốt.
Anh em ai cũng muốn như con cá chép “vượt vũ môn” để làm người tốt, “cuộc thi”
tuyển chọn người tốt” này đã dẫn đến việc các anh em đánh nhau, giẫm đạp lên
nhau. Mà con cá chép, chỉ có râu mép thì không thể thành rồng được. Thực ra
Đảng cũng có nhiều thiện ý muốn gặp các anh em, vì Đảng cũng muốn nghe tiếng
nói của anh em, và thực tế đã gặp Nhân Văn 3 lần, một lần ở trụ sở ở Nguyễn Du,
một lần ở gần Nhà Hát Lớn và một lần ông Phạm Văn Đồng mời gặp, tôi thay mặt
anh em để gặp ông. Ông nói có đề xuất gì thì nói ra, đừng nên đấu tranh đối
kháng trên báo chí. Tôi nói với anh em. Lê Đạt đồng tình ngay, bởi anh em cũng
thấy mệt mỏi, không dành được thì giờ cho sáng tác. Nhưng Nguyễn Hữu Đang không
đồng ý. Đang là người khảng khái, chính trực và có tư tưởng khác anh em nghệ
sĩ. Nhân Văn lúc đó ở cái thế ngồi lên lưng hổ rồi.
Điều quan trọng nhất tôi muốn nói là: Nhân Văn không
phải một phong trào tự do dân chủ như báo chí và các anh em ở nước ngoài nghĩ.
Trần Duy – Phan Khôi – Văn Cao không đề xuất vấn đề dân chủ. Lúc đó việc tuân
thủ theo đường lối của một vài cá nhân lãnh đạo Văn học nghệ thuật làm phương
hại đến sáng tạo; anh em cần tự do sáng tạo. Tôi cũng cần sự hướng chỉ. Nhưng
nghệ thuật có con đường riêng của nó, “cần chỉ hướng vẽ nhưng đừng bắt tay họa
sĩ vẽ”. Khởi xướng là từ Văn Cao, nhưng ý thức phải dựa vào Đang, vì Đang là
người có tư tưởng. Lê Đạt dù sao cũng là cán bộ, Trần Dần thì có mâu thuẫn với
quân đội.
Tất nhiên, đòi tự do sáng tạo thì phong trào cũng
mang phần nào tính chất dân chủ. Điều cần phải nhìn lại cho đúng là cách ứng xử
của Đảng với Nhân Văn. Tôi không bao giờ ca ngợi Đảng, nhưng Đảng có ý thức rõ ràng
là không đàn áp Nhân Văn và phải nói đúng chữ là ngăn chặn. Ở Trung Quốc
có vụ Thiên An Môn, ở Hung, Tiệp Khắc, Ba Lan đã có những vụ đàn áo bằng bạo
lực, thì vụ Nhân Văn ở Việt Nam chỉ là một cử chỉ răn đè để đưa mọi người vào
nguyên tắc. Tôi còn nhớ nguyên văn: Giấy gọi Lê Đạt, Trần Dần, Hoàng Cầm, Tử
Phác, Trần Duy đến làm chứng tại phiên tòa xử bọn Nguyễn Hữu Đang, Thụy An can
tội “phá hoại hiện hành”. Tòa Án không xử Nhân Văn. Tôi nói thế, là để thấy,
với Nhân Văn, Đảng, Công An… có những sự thận trọng, dè dặt của họ, cân nhắn
vai trò của trí thức, không muốn làm tổn thương. Cả Nguyễn Hữu Đang cũng không
bị xử vì Nhân Văn mà vì tội trốn đi nước ngoài.
Và một điều nữa, tôi muốn nói thêm, bản thân các anh
em nhân văn, mỗi người một ý hướng khác nhau. Đang (Nguyễn Hữu Đang) là dân
chủ, chính trị là Đạt (Lê Đạt), sáng tác là Văn Cao và không cần gì cả là tôi (tức
Trần Duy) và ông Phan Khôi. Nhân Văn là một composite, một hợp chất, không
thống nhất một đường hướng nào cả..
Thưa
ông, có những nhân vật của Nhân Văn đến nay vẫn lặng lẽ. Như Phùng Cung, Tử
Phác. Ông có biết họ như thế nào không ạ?
- Phùng Cung hài hước, hóm hỉnh nhưng không có tư
tưởng về dân chủ. Phùng Cung không tham gia Nhân Văn vì lúc đó Phùng Cung đang
làm công đoàn, nhưng tác phẩm “Con ngựa giả của chúa Trịnh” in ra cũng gây lôi
thôi. Phùng Cung là một bi kịch, mà một phần cũng do anh em. Tôi nhớ cuộc họp
có Hà Minh Tuân, Nguyên Hồng, anh em đều tập trung lên án Phùng Cung, kiến nghị
Phùng Cung phản động, có tội với cách mạng, với Hồ chủ tịch. Nguyên Hồng nói:
“Bọn các anh ngày thường đối xử với nhau rất tri thức mà có chuyện xảy ra thì
không khác gì bọn trẻ chăn trâu”. Sau cuộc họp ở 51 Trần Hưng Đạo, tôi buồn
quá. Nguyên Hồng gặp bảo: “Mày sợ à” “Ừ, sợ lắm”, tôi đáp. Nguyên Hồng bảo: “Sợ
vừa thôi, sợ quá nó hèn người đi”. Với tôi, Nguyên Hồng vẫn là một người có
nhân cách lớn.
Tử Phác thì con nhà tư sản giàu có, là trí thức, làm
nhạc và lí luận về nhạc, cũng có phần tham gia nhưng không nhiều.
Thưa
ông, ông thấy đời sống báo chí hôm nay, so với thời Nhân Văn như thế nào?
Có bạn hỏi tôi nếu bây giờ được làm lại báo Nhân
Văn, tôi có làm không, tôi có trả lời nếu bây giờ bảo tôi làm, như đã làm báo
Nhân Văn thì tôi cũng không thể làm. Vì thật ra báo chí hiện nay như các bác
Thanh Niên, Tuổi Trẻ, Lao Động và ngay các báo An ninh cũng thường nêu lên
những vấn đề then chốt mà ngay Nhân Văn xưa kia cũng chưa hề đề cập đến. Cũng
vậy, hỏi tôi về dân chủ, tôi xin được dẫn lời anh Từ Chi bạn tôi: “Dân chủ lúc
nào cũng đẹp. Nhưng nó là một thứ xa xỉ phẩm”. Tranh luận dân chủ là nguy hiểm,
bởi bản thân khái niệm, bởi mục đích của tranh luận. Dân chủ là một khái niệm
ảo. Tôi không thích dân chủ kiểu Mỹ hay ở Châu Âu. Ở Việt Nam, tuy không nói ra
thành chủ trương, văn bản, nhưng trong thực tế đã có dân chủ, dân chủ đối với
đời sống trí tuệ con người, đối với trí thức, đối với thế giới…v.v., ngay đối
với cả nội bộ Đảng.
Thưa
ông, đến nay, với Nhân Văn, điều gì còn làm ông day dứt?Nhan Văn có phải là một
bi kịch không?
Là một bi kịch lớn lắm. Nó là một bước ngoặt trong
đời sống của tôi, và của nhiều người, nhất là nó đẩy một số trí thức vào “góc
chết”, khi họ không có gì xấu cả. Có nhiều cái đã qua, nhưng với mỗi cá nhân nó
vẫn còn có những điều không nói hết được. Câu chuyện Nhân Văn thời ấy, vẫn còn
nhiều khúc nôi lắm, chứ không đơn giản. Nó như là đã qua rồi, mà thực ra chưa
qua. Nó như cục nghẹn mãi trong cổ nuốt không trôi được. Nên nhìn nó, nói đến
nó, cũng phải thận trọng và có cái nhìn khoa học.
****
Họa sỹ Trần Duy “Suy nghĩ về nghệ thuật”
Thưa
ông, ông đã đến với hội họa như thế nào?
Tôi sinh ra trong một gia đình phong kiến, ba tôi
muốn bắt học chữ nho để ra làm quan. Học xong tú tài, tôi cũng không biết làm
gì cả. Thời kì đó tôi theo hướng đạo, dù ba mẹ tôi không thích, tôi vẫn cho
rằng cái hướng đạo có một vai trò lớn trong cuộc đời tôi. Vì theo hướng đạo mà
tôi có ý thức về xã hội và tạo cho tôi cái nhìn về thiên nhiên…Lúc đó tôi thấy
không khí gia đình rất ngột ngạt, con người mình muốn thoát ra mà không thoát
ra được. Năm 1940, tôi ra Hà Nội, cũng không biết học gì, may gặp bạn tôi học
Mỹ Thuật, tôi đến thăm, thấy đó chính là nơi tôi muốn học. Tôi nộp đơn, học một
năm dự bị và đỗ vào chính thức. Thời kì đó gia đình tôi cũng có những thay đổi,
rồi Nhật, Pháp đảo chính, Việt Minh đảo chính…Đứng trước thay đổi lớn về xã
hội, một con người không có một cái gì để nương tựa cả, tôi rất hoang mang và
cũng không biết đi đâu. Anh Phùng Quán sau này bảo dựa vào thơ mà sống. Thì cái
mà tôi vẫn bíu vào nó, là mĩ thuật. Chính mĩ thuật làm cho tôi sống lại được.
Lúc đó tôi rất bế tắc, khủng hoảng.
Thời
kì tham gia Cách Mạng, rồi làm báo, ông vẽ như thế nào? Ông đã nuôi nấng một ý
thức nào về nghệ thuật chưa, thưa ông?
Vẽ, với tôi, đẹp nhất là thời đi học ở trường Mĩ
Thuật. Mỹ ném bom Hà Nội, trường dời về Sơn Tây, ở đó có những ngôi làng cổ
mang dấu ấn của dân tộc. Đó là lần đầu tiên tôi tiếp xúc với nông dân, những
điều đó nhập vào tôi đầy bỡ ngỡ. Tôi đặt giá vẽ giữa đồng nhiều ngày. Tôi háo
hức trước cái đẹp, nhưng cái đẹp đó không phải của mình nên cả mùa tôi không vẽ
được bức nào cả. Họa sỹ Tô Ngọc Vân xem tranh tôi vẽ cười và bảo: “cứ vẽ như
thế theo bốn mùa sao?”. Tôi không nhập được vào đề tài nông dân, có lẽ bởi thứ
nhất là tại mình không có khả năng, và thứ hai là không nắm được thực chất cuộc
sống. Tuy vậy, tôi đã bắt đầu nhập cuộc sống của tôi với cuộc sống nông thôn
trong hội họa từ thời kì đó. Đó cũng là một hành trình chuẩn bị để tôi có thể
bước vào kháng chiến.
Vào kháng chiến, trực tiếp vào với nhân dân, nhưng
tôi cũng không chưa định hình ý thức về nghệ thuật và về quan hệ của nghệ sĩ
với thời đại. Tôi là một cá nhân trôi nổi trong cuộc sống. Tôi không biết vẽ
gì. Giấy không có, bút chì không có. Chúng tôi làm bút bằng cây giang. Cây
giang dai, mềm, đập dập để làm bút, có một bức tôi vẽ bằng bút cây giang được
giải thưởng văn hóa năm 1957 – 1958. Thời kì này, chủ yếu kháng chiến có yêu
cầu gì thì mình làm. Vẽ ap-phich, địch vận, làm kí họa, bìa cho báo Vui
sống của Quân y cục. Là một thanh niên đi theo kháng chiến, kháng chiến
bảo gì tôi làm nấy. Mà kháng chiến mình theo, cũng không phải do mình hiểu biết
gì về nó.
Thưa
ông, sự vụ Nhân Văn ảnh hưởng thế nào đến hội họa của ông?
Thời làm báo Nhân Văn, tôi chỉ vẽ cho báo, nhưng tôi
không vắng mặt trong các đợt triển lãm như “Triển lãm đấu tranh thống nhất đất
nước”, “Ủng hộ độc lập Angiery”.. Sau Nhân Văn, tôi bị hẫng một thời gian.
Không có đất vẽ, không ai cho phép vẽ, cũng không biết vẽ để làm gì. Sau đó,
xunhasaba mở một con đường sống bằng cách đặt tôi vẽ bưu thiếp trên lụa. Và
cũng có một chỗ bán tranh để kí gửi ở đó, chừng 2 – 3 tranh một tuần nhưng
không kí tên Trần Duy. Lúc đó, tôi kí là Nhị Hà, tên con gái tôi. Thời gian này
tôi vẫn vẽ các tranh châm biếm, đả kích, đăng trên báo Văn, các phòng thông
tin, triển lãm nhưng không kí tên tôi. Tôi vẽ chính trị, minh họa đề tài đấu
tranh chính trị, để có sự hiện diện của mình trong cuộc đấu tranh cùng đất
nước, dân tộc.
Trong
hội họa, ông đã đến với chất liệu lụa như thế nào?
Tôi bắt đầu đến với lụa là bởi việc vẽ bưu thiếp để
bán. Nhưng trong quá trình vẽ, tôi cũng muốn tìm ra một cách vẽ của mình. Tôi
không thích vẽ kiểu Tàu, tôi thấy nó cụt đường, bởi hội họa Tàu mang tính
convention (quy ước) rất rõ. Tôi cũng không thích vẽ như Nguyễn Phan Chánh, vẫn
phảng phất nét của Tàu. Cái gốc đào tạo của tôi là Châu Âu nhưng hướng đi vẫn
nhìn vào hội họa Nhật Bản. Tôi cố gắng hết sức tìm ra cái của tôi trong lụa.
Lúc đầu chỉ có màu đen trắng, sau tôi đá thêm nhiều màu sắc khác, tìm được hình
thức trang trí mà từ khi học ở nhà trường, tôi đã làm rất kĩ lưỡng và có quy củ
trên tư liệu hội họa Nhật Bản.
Nhưng tôi nghĩ, kĩ thuật cũng không giải quyết được
gì. Sơn mài, lụa… chỉ là cơ sở, là phương tiện để vẽ thôi. Lụa cũng có nhiều
hạn chế, không vĩnh viễn được. Rất lâu tôi mới tìm ra cách để lụa không mốc.
Sơn mài rồi cũng hỏng. Không có gì chống lại được với thời tiết, thời gian…
Ngay ở bảo tàng Louvre, hàng nghìn người vào thăm hàng ngày thì cũng không màu
nào chịu nổi. Nhưng họ có một đội ngũ phục chế và bảo quản tốt.
Thưa
ông, trong cuộc đời hội họa của mình, ông có theo đuổi một quan niệm nghệ thuật
nào không? Người xem có thể cảm thấy một kiểu “chủ nghĩa duy mĩ” trong nghệ
thuật của ông, ông nghĩ sao?
Thực ra thì tôi không theo một chủ nghĩa nào cả. Cái
“duy mĩ” thực ra là vì cái đẹp. Cũng có thời kì tôi không biết vẽ gì nên tìm
đến những đề tài cổ, thiên nhiên, khai thác vốn liếng dân tộc, cũng là một cách
ẩn mình. Tranh của tôi mang tính chất trang trí rất rõ. Nếu nói một nét gì nổi
bật, thì tính trang trí là tính chất quyết định trong một bức tranh. Nhưng tôi
vẽ cây cối cũng như tôi vẽ con người. Trong cuốn sách “Suy nghĩ về nghệ thuật”
tôi đã trình bày: Nghệ thuật là tiếng nói của lịch sử con người. Những gì đeo
đuổi tôi, chỉ là vấn đề con người thôi. Hội họa không cần nêu nguyên tắc. Chỗ
dựa lớn nhất của nghệ thuật chính là nội tâm của người nghệ sĩ và sự hỗ trợ của
công chúng. Cho nên sáng tác mà tuột ra khỏi tâm hồn nghệ sĩ thì không thành
tác phẩm. Nghệ thuật là nghệ thuật, nghệ thuật không sống được bằng thứ thực
phẩm không thích hợp với nó.
Trong
cuốn sách mới nhất của ông, ông hay nhắc đến Mécène, tức người bảo trợ nghệ
thuật. Và một vấn đề nữa, là người xem… Ở Việt Nam đã có những người bảo trợ
nghệ thuật không, và người xem thì sao ?
Ở Việt Nam chưa có người bảo trợ nghệ thuật. Những
hội và giải thưởng làm hỏng nhiều người. Công chúng còn nghèo, còn những kẻ
trưởng giả học làm sang thì mãi mãi chỉ là trưởng giả, họ không thưởng thức
được nghệ thuật. Nghệ thuật sống và trưởng thành luôn phải có sự hỗ trợ
của công chúng, của nhiều người. Sự đánh giá của quần chúng có vai trò lớn lắm.
Nghệ thuật rất tự do, và cũng không có lý luận nào “dạy bảo” được người ta vẽ
cả, công chúng có quyền thích hay không thích, khen hay chê tác phẩm của người
nghệ sĩ.
Hiện
nay, ông có quan tâm đến mĩ thuật Việt Nam đương đại không? Với những người
trẻ, ông có điều gì gửi gắm không, thưa ông?
Với tôi, nghệ thuật không bao giờ là đương đại, nghệ
thuật không có tuổi. Nghệ thật là tâm hồn. Tôi còn nhiều điều muốn nói, không
nói được hết. Với những người trẻ cũng vậy. Tôi biết nói gì, có cần thiết
không, có ích lợi gì không… Làm nghệ thuật phải học để biết mình. Không biết
mình không hiểu được người. Đất nước mình đã có nhiều thay đổi và sẽ còn nhiều
thay đổi.
Đến
giờ nhìn lại cuộc sống cá nhân và cả cuộc đời làm nghệ thuật của mình, điều gì
làm ông vui nhất, buồn nhất, xin ông chia sẻ.
Với tôi, làm việc được, vẽ được là vui rồi. Tìm vinh
hoa trong đó, không nên. Thực ra, thời đại nào cũng có bóng tối của nó. Không
có ánh sáng nào không có bóng tối. Các họa sĩ thời Napoléon có lên đến bá tước
công hầu cũng không còn lại gì. Người ta nhìn Phục Hưng như thời kì ánh sáng.
Nhưng nó cũng đầy bóng tối. Thời Phục Hưng, các họa sĩ cũng sống cơ cực, như
Léonard de Vinci, Michel Ange. Chỉ có Raphael đi vào con đường quan lại thì
được sung sướng. Gauguin đâu có được sung sướng ngày nào. Mattisse cũng vậy.
Tôi tự bằng lòng với cuộc sống của mình, không được điều gì là do ở mình thôi.
Cái được lớn nhất là tôi sống được bằng nghề của mình, không chạy vạy, quỵ lụy
ai.
Bối cảnh lịch sử lúc nào cũng cần. Cái đẹp thay đổi,
không thể nương dựa vào cái đẹp cũ. Bây giờ tôi ít vẽ, vì sức khỏe tôi cũng có
hạn, và tôi ít đi lại được. Hội họa phải là sự sống vui sinh động, ngồi một chỗ
không vẽ được. Không đi lại được thì không tìm ra cái mới mà vẽ. Tôi cũng rơi
vào tình cảnh bất lực: biết vẽ gì? khi không được sống nhiều, đi nhiều… Nhưng
cái tôi bằng lòng nhất, đó là đã sống được bằng nghề của mình.
***
Họa sỹ Trần Duy nhắc lại truyện “Tiếng sáo
tiền kiếp”, một truyện ngắn xuất sắc đã làm ông “lôi thôi” dạo trước.
Tưởng như ông vẫn day dứt một câu hỏi: ứng xử với dĩ vãng như thế nào? Trong
truyện, người chết đi chỉ trối lại cho người sau một lời nguyền“ Cuộc sống
mai hậu đừng nên thổi sáo này. Tiếng sáo tuy có hay, nhưng hay gì mà lại sống
những nghiệp chướng đã qua.” Nhưng cái nỗi day dứt của mỗi cá nhân con
người, về mỗi cá nhân con người, những người đã lặng lẽ trong bóng tối, dễ gì
mà quên được. Bởi “muốn quên và quên được là hai việc không giống nhau”
Tháng 12.2008
|
------------------------
Chú
thích:
Ảnh họa sỹ Trần Duy
– N.T
Bìa cuốn sách Suy
nghĩ về nghệ thuật (HNV, 2008)
----------------------
[1] Bài phỏng vấn của Thụy Khuê
trên website của Thụy Khuê: thuykhue.free.fr
-------------------------------
Bài đã
đăng của Nhã Thuyên :
- Lời cảm ơn - 29.10.2012
- Những tiếng nói cộng hưởng[1] - 25.10.2012
- Nguyễn Quốc Chánh - 24.10.2012
- Cuộc nổi dậy của rác thải[1] - 23.10.2012
- Thơ ca của sự phủ định và sự phủ định thơ[1] - 22.10.2012
- Những va chạm: thơ ca, bối cảnh, cá nhân - 19.10.2012
- Những tiếng nói ngầm: Lời ngỏ - 18.10.2012
- con tàu - 28.11.2011
- Rìa Vực: tập thơ Nhã Thuyên - 14.11.2011
- kí ức và người sáng tạo trẻ - 15.10.2011
- Vương Ngọc Minh: thơ và chính trị, chuyện “bất khả tư nghị” - 11.10.2011
- tấm gương soi tôi - 30.09.2011
- giấc ngủ - 28.09.2011
- Văn học dấn thân hôm nay - 31.08.2011
- Ngón Tay Út – tập truyện ngắn Nhã Thuyên- - 30.08.2011
- Trò chuyện với Lý Đợi và Bùi Chát: Khước từ thỏa hiệp để lựa chọn tự do - 30.05.2011
- Gió cứ thổi trong bầu trời xám - 24.12.2010
- 24 Nảy - 03.09.2010
- Người Kể Chuyện vào mùa thu - 15.07.2010
- Điều nói ra sẽ giết chết tất cả - 11.06.2010
- Da Màu phỏng vấn Nhã Thuyên - 11.06.2010
- Lí do để sống - 04.06.2010
- Câu chuyện về một nhà thơ can đảm ♦ Lại Romeo & Juliet - 25.05.2010
- Trong thành phố ♦ Một buổi chiều quạnh quẽ - 10.05.2010
- Người gieo trồng muôn dặm sao - 24.08.2009
- thức canh nhau bốn mùa - 20.08.2009
- linh hồn chảy mịn - 09.04.2009
- Trò chuyện với họa sỹ Trần Duy - 13.01.2009
- Trò chuyện với Đặng Thân - 24.12.2008
- Collecting Dreams - 23.12.2008
- Two Diggers of Graves - 14.10.2008
- Ghi chú cá nhân về độc giả (của tôi) & tôi - 14.10.2008
- Tại Sao - 14.10.2008
- Người Bệnh Nằm Đó - 13.10.2008
- Đêm & Song sinh - 13.10.2008
No comments:
Post a Comment