Tài
liệu tham khảo đặc biệt của THÔNG TẤN XÃ VIỆT NAM
Posted by News on March 21st, 2014
(Foreign Affairs, số tháng 9-10/2013)
Bây giờ là lúc Washington phải lo lắng.
Phần lớn tranh luận về sự trỗi dậy của Trung Quốc
trong những năm gần đây tập trung vào các mối nguy hiểm tiềm tàng mà Trung Quốc
có thể gây ra với tư cách một đối thủ cạnh tranh ngang hàng cuối cùng với Mỹ
kiên quyết thách thức trật tự thế giới hiện nay. Nhưng một vấn đề khác còn gây
áp lực hơn nhiều. Ít nhất trong thập kỷ tới, trong khi Trung Quốc vẫn tương đối
yếu so với Mỹ, có một nguy cơ thực sự rằng Bắc Kinh và Washington nhận thấy
mình đang ở trong một cuộc khủng hoảng mà có thể nhanh chóng leo thang thành
một cuộc xung đột quân sự. Không như một cuộc ganh đua nước lớn chiến lược
trong dài hạn có thể hay không thể phát triển trong tương lai, nguy cơ xảy ra
một cuộc khủng hoảng liên quan đến hai nước vũ trang hạt nhân là một mối lo
ngại rõ ràng và trong thời gian gần – và những sự kiện xảy ra trong vài năm qua
cho thấy nguy cơ này có thể đang tăng lên.
Kể từ khi kết thúc Chiến tranh Lạnh, Bắc Kinh và
Washington đã xoay xở để tránh những cuộc quyết đấu nghiêm trọng trong một vài
thời điểm : trong thời gian 1995-1996, khi Mỹ trả đũa những cuộc thử tên lửa
của Trung Quốc mà nhằm mục đích cảnh báo các cử tri Đài Loan về sự nguy hiểm
của việc đòi độc lập; vào năm 1999, khi các máy bay chiến đấu của Mỹ tình cờ
ném bom sứ quán Trung Quốc ở Belgrade trong cuộc không kích của NATO nhằm vào
Serbia; và vào năm 2001, khi một máy bay do thám của Mỹ va chạm một máy bay
chiến đấu của Trung Quốc, khiến phi công Trung Quốc thiệt mạng và Bắc Kinh ra
lệnh bắt giữ máy bay và phi hành đoàn của Mỹ. Nhưng việc không có sự leo thang
nghiêm trọng những giai đoạn này không nên làm nảy sinh sự tự mãn. Không một sự
kiện nào trong số chúng đủ tiêu chuẩn là một cuộc khủng hoảng thực sự: một cuộc
đối đầu đe dọa những lợi ích sống còn đối với cả hai phía và do đó tăng mạnh
nguy cơ xảy ra chiến tranh. Nếu Bắc Kinh và Washington tự nhận thấy mình đang ở
trong kiểu quyết đấu đó trong tương lai gần, họ sẽ có động lực mạnh mẽ phải sử
dụng đến vũ lực. Hơn nữa, những sự cám dỗ và những áp lực buộc leo thang sẽ có
thể là cao nhất ở những giai đoạn đầu của cuộc đối đầu, khiến khó có thể sử
dụng ngoại giao hơn để ngăn chặn cuộc chiến tranh.
Những
giới hạn đỏ mong manh
Dường như những triển vọng cho cuộc khủng hoảng theo
kiểu này trong mối quan hệ Mỹ-Trung đã giảm đi trong những năm gần đây khi
những căng thẳng về Đài Loan dịu bớt, tháo ngòi nổ thùng thuốc súng đã thúc đẩy
phần lớn việc đặt kế hoạch quân sự của Trung Quốc và Mỹ ở Đông Á kể từ giữa
những năm 1990. Nhưng những điềm xung đột tiềm tàng khác đã xuất hiện. Khi
Trung Quốc và các nước láng giềng tranh cãi về những hòn đảo và quyền hàng hải
ở biển Hoa Đông và biển Hoa Nam (Biển Đông), Mỹ đã lặp lại những cam kết thỏa
thuận của mình bảo vệ 2 nước đang không thừa nhận những đòi hỏi lãnh thổ của
Trung Quốc là Nhật Bản và Philippines và nuôi dưỡng mối quan hệ ngày càng thân
thiết với Việt Nam. Hơn nữa, “sự xoay trục” hay “tái cân bằng” của Chính quyền
Obama sang châu Á, một sự chuyển hướng ngoại giao phù hợp với việc tái triển
khai quân sự có kế hoạch, đã cho thấy Washington sẵn sàng can thiệp trong
trường hợp xung đột khu vực.
Hơn nữa, Mỹ khăng khăng rằng luật pháp quốc tế cho
nước này có quyền tự do hàng hải ở các vùng biển và không phận quốc tế, được
xác định là nằm ngoài giới hạn lãnh hải 12 dặm của một nước. Ngược lại, Trung
Quốc khẳng định rằng các tàu quân sự và máy bay chiến đấu của các nước khác
không được tự do bước vào “vùng đặc quyền kinh tế” rộng khoảng 200 dặm của mình
mà không xin phép – một sự ngăn cấm, theo những yêu sách lãnh thổ của Bắc Kinh,
có thể khiến các tàu và máy bay quân sự của Mỹ không được lai vãng đến phần lớn
biển Đông và không phận phía trên khu vực này. Những tranh chấp về quyền tự do
hàng hải đã gây ra những cuộc đối đầu giữa Trung Quốc và Mỹ, và chúng vẫn là
điều có khả năng gây ra một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng.
Sự thật là Trung Quốc và Mỹ hiện nay không phải là
đối thủ của nhau – chắc chắn là không theo cách mà Liên Xô và Mỹ từng có trong
Chiến tranh Lạnh. Nhưng nguy cơ xảy ra cuộc xung đột Mỹ-Trung có thể thực sự
lớn hơn nếu Bắc Kinh và Washington bị mắc kẹt trong cuộc đấu tranh được mất
ngang nhau, giữa sống và chết. Như các đối thủ có vũ trang đã sẵn sàng cảnh
báo, Liên Xô và Mỹ hiểu rằng những lợi ích mâu thuẫn nhau một cách cơ bản của
họ có thể dẫn đến một cuộc chiến tranh. Sau khi xem xét một số cuộc đối đầu
căng thẳng nghiêm trọng đối với vấn đề Berlin và Cuba, họ đã đạt được sự hiểu biết
về những lợi ích sống còn của mỗi bên – không bị thách thức nếu không có nguy
cơ xảy ra một cuộc khủng hoảng – và đã phát triển các cơ chế để tránh sự leo
thang. Trung Quốc và Mỹ chưa đạt tới một sự hiểu biết chung tương tự về các lợi
ích sống còn hay phát triển các biện pháp đáng tin cậy cho việc xử lý khủng
hoảng.
Cả Trung Quốc lẫn Mỹ đều không xác định rõ ràng
những lợi ích sống còn của mình khắp các khu vực rộng lớn ở Tây Thái Bình
Dương. Trong những năm gần đây, Trung Quốc đã đưa ra nhiều tuyên bổ không chính
thức khác nhau về “những lợi ích cốt lõi” của mình mà đôi khi tiến xa hơn việc
đơn giản là đảm bảo sự toàn vẹn lãnh thổ và chính trị của đại lục và yêu sách
chủ quyền đối với Đài Loan. Ví dụ, Bắc Kinh đã đề xuất rằng nước này có thể coi
các khu vực tranh chấp của biển Hoa Đông và Biển Đông là những lợi ích cốt lõi
của mình.
Washington cũng mập mờ về những gì nước này xem là
những lợi ích sống còn của mình ở khu vực này. Mỹ tránh trả lời câu hỏi liệu
Đài Loan có nằm dưới sự bảo trợ an ninh của Mỹ hay không. Và lập trường của Mỹ
về những tranh chấp biển liên quan đến Trung Quốc và các nước láng giềng của họ
có phần không rõ ràng: Washington duy trì lập trường trung lập về những tuyên
bố chủ quyền của đối thủ và khăng khăng rằng các tranh chấp cần được giải quyết
một cách hòa bình nhưng cũng tái khẳng định cam kết sát cánh với các đồng minh
của mình trong trường hợp có xung đột nổ ra. Sự mập mờ như vậy của Trung Quốc
và Mỹ về “những giới hạn đỏ” mà không thể vượt qua được nếu không có nguy cơ
xung đột làm tăng những cơ hội mà cả hai bên có thể thực hiện các bước đi mà họ
cho là an toàn nhưng hóa ra lại là bất ngờ mang tính khiêu khích.
Còn
nguy hiểm hơn cả Chiến tranh Lạnh?
Sự không chắc chắn về điều có thể đưa cả Bắc Kinh
lần Washington đến nguy cơ chiến tranh khiến một cuộc khủng hoảng có nhiều khả
năng xảy ra hơn, do cả hai phía đều không biết khi nào, ở đâu, hay chỉ là khó
khăn như thế nào mình có thể thúc đẩy mà phía bên kia không thúc đẩy lại. Tình
huống này có phần giống với những gì đã diễn ra trong giai đoạn đầu Chiến tranh
Lạnh, khi cả hai phía phải chịu nhiều cuộc khủng hoảng nghiêm trọng mới có thể
hiểu được nhau và học được luật đi đường. Nhưng môi trường ngày nay có thể thậm
chí còn nguy hiểm hơn nhiều.
Chẳng hạn, cán cân sức mạnh quân sự hạt nhân và
thông thường giữa Trung Quốc và Mỹ lệch lạc hơn nhiều so với cán cân đã tồn tại
giữa Liên Xô và Mỹ. Nếu Bắc Kinh và Washington tự nhận thấy họ đang ở trong một
cuộc xung đột, thì lợi thể khổng lồ của Mỹ về các lực lượng thông thường sẽ
tăng thêm sự cám dỗ đối với Washington đe dọa hay thực sự sử dụng vũ lực. Nhận
ra sự cám dỗ đang đối mặt với Washington, đến lượt mình, Bắc Kinh có thể cảm
thấy áp lực buộc phải sử dụng các lực lượng thông thường của mình trước khi
chúng bị phá hủy. Mặc dù Trung Quốc không thể đảo ngược lại sự mất cân bằng về
quân sự, nước này có thể cho rằng việc nhanh chóng áp đặt những cái giá cao đối
với Mỹ là cách tốt nhất để khiến Mỹ nhượng bộ.
Thực tế là cả hai phía đều có kho vũ khí hạt nhân
giúp kiểm soát tình hình, bởi vì cả hai phía đều muốn tránh những hành động sẽ
mang lại sự trả đũa hạt nhân. Quả thật, nếu chỉ những xem xét hạt nhân là quan
trọng, các cuộc khủng hoảng Mỹ-Trung sẽ rất ổn định và không đáng để lo lắng
quá nhiều. Nhưng các lực lượng thông thường của cả hai phía làm phức tạp vấn đề
và làm xói mòn sự ổn định mà sự răn đe hạt nhân mang lại. Trong một cuộc khủng
hoảng, cả hai phía có thể cho rằng việc sử dụng các lực lượng thông thường sẽ
mang lại đòn bẩy thương lượng, khiến phía bên kia lo sợ về sự leo thang thông
qua cái mà nhà kinh tế học Thomas Schelling gọi là “một cuộc cạnh tranh chấp
nhận mạo hiểm”. Trong một cuộc khủng hoảng, Trung Quốc hay Mỹ có thể cho rằng
mình đánh giá được cái gì đang bị đe dọa hơn người khác và do đó sẵn sàng chịu
mức độ rủi ro cao hơn. Nhưng bởi vì việc sử dụng các lực lượng thông thường sẽ
chỉ là bước đầu trong một tiến trình không thể dự đoán được dựa trên sự nhận
thức sai, những bước đi sai lầm, và sự tính toán sai, không có gì đảm bảo được rằng
chính sách bên miệng hố chiến tranh sẽ chấm dứt trước khi nó dẫn đến một thảm
họa hạt nhân bất ngờ.
Hơn nữa, Trung Quốc hiển nhiên tin rằng sự răn đe
hạt nhân mở cửa cho việc sử dụng an toàn lực lượng thông thường. Do cả hai nước
đều lo ngại về một cuộc chiến tranh hạt nhân tiềm tàng, người Trung Quốc dường
như cho rằng cả họ lẫn người Mỹ đều không cho phép một cuộc xung đột quân sự
leo thang quá xa. Ngược lại, các nhà lãnh đạo Xôviết đã cho thấy rằng họ sẽ sử
dụng bất cứ biện pháp quân sự nào cần thiết nếu có một cuộc chiến tranh – đó là
một lý do tại sao chiến tranh không bao giờ xảy ra. Thêm vào đó, chính sách “
không sử dụng trước” hạt nhân, điều hướng dẫn sự chuẩn bị và huấn luyện cho
xung đột của Trung Quốc, có thể củng cố lòng tin của Bắc Kinh rằng một cuộc
chiến tranh có giới hạn với Mỹ sẽ không có nghĩa là có nguy cơ leo thang hạt
nhân. Vì những sự tin tưởng của mình, Bắc Kinh có thể ít thận trọng hơn về việc
thực hiện những bước có nguy cơ gây ra một cuộc khủng hoảng. Và nếu một cuộc
khủng hoảng xảy ra, Trung Quốc cũng có thể ít thận trọng hơn về việc bắn phát
súng đầu tiên.
Những sự tin tưởng như vậy là đặc biệt đáng ngại do
những sự phát triển gần đây về công nghệ đã cải thiện đáng kể tính chính xác và
tính hiệu quả của các khả năng quân sự thông thường. Tính sát thương của chúng
có thể mang lại cho bên tấn công trước lợi thế lớn, thứ mà nhìn chung không
thực sự là các hoạt động quân sự thông thường ở chiến trường chính châu Âu diễn
ra cuộc đối đầu Mỹ-Xôviết. Hơn nữa, do các hệ thống máy tính và vệ tinh phức
tạp hướng dẫn các vũ khí hiện đại dễ bị tổn hại trước các cuộc tấn công quân sự
thông thường hay các cuộc tấn công trên mạng, các vũ khí có độ chính xác cao
hơn hiện nay có thể hiệu quả chỉ khi chúng được sử dụng trước khi một đối thủ
tấn công hay chấp nhận các biện pháp chống trả. Nếu sự kiềm chế thời bình
nhường chỗ cho một cuộc tìm kiếm lợi thế trong một cuộc khủng hoảng, cả Trung
Quốc lẫn Mỹ đều không thể tự tin về tính lâu bền của các hệ thống quản lý các
vũ khí thông thường tiên tiến của mình.
Trong những bối cảnh như vậy, cả Bắc Kinh lẫn
Washington sẽ có động lực để bắt đầu một cuộc tấn công. Trung Quốc sẽ cảm thấy
phải chịu áp lực đặc biệt mạnh mẽ, do những vũ khí thông thường tiên tiến của
nước này hoàn toàn phụ thuộc hơn vào mạng máy tính, các điểm radar cố định, và
các vệ tinh dễ bị tổn hại. Tính hiệu quả của các lực lượng tiên tiến của Mỹ ít
phụ thuộc vào các hệ thống dễ bị tổn hại nhất này. Tuy nhiên, lợi thế Mỹ nắm
giữ có thể khuyến khích nước này tấn công trước, đặc biệt là chống lại các vệ
tinh Trung Quốc, do nước này sẽ có thể đối phó với sự trả đũa ăn miếng trả
miếng của Trung Quốc.
Sự
sụp đổ thông tin liên lạc
Cuộc khủng hoảng Mỹ-Trung cũng có thể nguy hiểm hơn
cả những cuộc quyết đấu thời Chiến tranh Lạnh vì tính không đáng tin cậy của
các kênh liên lạc hiện nay giữa Bắc Kinh và Washington. Sau cuộc khủng hoảng
tên lửa Cuba, Liên Xô trước đây và Mỹ đã thừa nhận tầm quan trọng của việc liên
lạc trực tiếp giữa các nhà lãnh đạo cấp cao nhất và thiết lập đường dây nóng
Moskva-Washington. Vào năm 1998, Trung Quốc và Mỹ cũng đã thiết lập một đường
dây nóng cho việc liên lạc trực tiếp giữa những người đứng đầu nhà nước của họ.
Nhưng bất chấp tính khả dụng của đường dây nóng này, Nhà Trắng không thể liên
lạc với các nhà lãnh đạo cấp cao nhất của Trung Quốc đúng lúc sau vụ đánh bom
sứ quán Trung Quốc ở Belgrade vào năm 1999 hay vụ một máy bay do thám của Mỹ
đụng độ máy bay chiến đấu của Trung Quốc vào năm 2001. Thất bại của Trung Quốc
trong việc sử dụng đường dây nóng như dự tính có thể phản ánh sự miễn cưỡng
phản ứng của giới lãnh đạo nước này cho tới khi họ đạt được một sự đồng thuận
nội bộ hay cho tới khi họ đã bàn bạc mở rộng với quân đội của mình. Sự trì hoãn
này cũng có thể phản ánh những khó khăn của Trung Quốc trong việc phối hợp chính
sách, do Trung Quốc thiếu một đối tác đáng tin cậy với Hội đồng an ninh quốc
gia của Mỹ. Dù lý do là gì đi nữa, kinh nghiệm cho thấy rằng những trì hoãn gây
thất vọng trong liên lạc trực tiếp có thể diễn ra trong suốt thời gian cái sẽ
là những thời khắc ban đầu quan trọng của một cuộc khủng hoảng Mỹ-Trung đang
diễn ra.
Thay vào đó, sự liên lạc giữa hai nước ban đầu có
thể giới hạn ở các tuyên bố công khai hay những dấu hiệu ngầm được gửi đi thông
qua những hành động. Nhưng những tuyên bố công khai nhằm vào nhiều đối tượng
thính giả và những tình cảm dân tộc chủ nghĩa ở cả Trung Quốc lẫn Mỹ, cũng như
áp lực từ các đồng minh, có thể buộc cả hai phía phải có lập trường công khai
hung hăng hơn là họ thực sự cảm thấy cần thiết. Thiếu sự liên lạc trực tiếp và
đáng tin cậy, cả hai nước không thể chia sẻ thông tin mà có thể giúp ngăn chặn
một sự leo thang thảm họa, như những chi tiết bí mật về những khả năng quân sự
hay những cuộc thao diễn quân sự đang được thực hiện.
Liên lạc thông qua các hành động cũng khó khăn, với
nhiều khả năng thông tin bị bóp méo qua quá trình gửi thông điệp và hiểu sai
khi nhận được chúng. Các nhà phân tích Trung Quốc dường như đánh giá quá cao
việc phát đi những tín hiệu thông qua các hành động quân sự dễ dàng như thế nào
và đánh giá thấp những nguy cơ leo thang bắt nguồn từ việc mất liên lạc. Chẳng
hạn, các nhà phân tích Andrew Erickson và David Yang đã thu hút sự chú ý đối
với những văn bản quân sự của Trung Quốc đề nghị sử dụng hệ thống tên lửa đạn
đạo chống tàu của Trung Quốc được tạo ra để nhằm mục tiêu các tàu sân bay của
Mỹ, để truyền đạt giải pháp của Băc Kinh trong một cuộc khủng hoảng. Một số nhà
tư tưởng quân sự Trung Quốc cho rằng Trung Quốc có thể ra tín hiệu bằng việc
bắn cảnh cáo nhằm vào vùng đất gần một tàu sân bay đang di chuyển của Mỹ hay
thậm chí bằng việc thận trọng tấn công vào tháp chỉ huy của tàu sân bay Mỹ
trong khi không đụng đến phần còn lại của tàu. Nhưng như nhà khoa học chính trị
Owen Cote đã lưu ý, ngay cả một hệ thống tên lửa đạn đạo chống tàu rất chính xác
cũng sẽ không thể tránh khỏi mắc lỗi. Do đó, ngay cả một loạt đạn nhỏ nhất kiểu
này cũng sẽ kéo theo nguy cơ vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng và do vậy xảy ra
một cuộc leo thang không dự tính trước.
Một nhân tố quan trọng cuối cùng có thể khiến một
cuộc khủng hoảng Mỹ-Trung nguy hiểm hơn cả các cuộc khủng hoảng trong Chiến
tranh Lạnh là địa lý. Tiêu điểm của các cuộc đối đầu Chiến tranh Lạnh chủ yếu
là trên đất liền, đặc biệt là ở Trung Âu, trong khi cuộc đối đầu trong tương
lai giữa Trung Quốc và Mỹ gần như chắc chắn bắt đầu trên biển. Sự khác biệt này
sẽ định hình cuộc khủng hoảng Mỹ-Trung theo nhiều cách, đặc biệt là bằng cách
đòi hỏi cả hai phía ngay từ đầu phải có một số lựa chọn có tính quyết định. Hạm
đội nhỏ các tàu ngầm tên lửa đạn đạo được vũ trang hạt nhân (SSBN) và hạm đội
lớn hơn rất nhiều gồm các tàu ngầm tấn công vũ trang thông thường của Trung
Quốc an toàn nhất khi chúng vẫn ở các vùng nước nông gần đại lục, nơi độ vang
âm kém gây hại cho tính hiệu quả của các hoạt động chống tàu ngầm dưới biển của
Mỹ. Việc chúng ở gần các máy bay và các hệ thống phòng không được đặt trên đất
liền của Trung Quốc cũng làm hạn chế khả năng của Washington dựa vào không lực
và tàu nổi để chống lại chúng. Tuy nhiên, để lực lượng tàu ngầm Trung Quốc đóng
một vai trò trong cuộc quyết đấu với Mỹ, thì chúng phải di chuyển ra khỏi những
lãnh hải an toàn hơn đó.
Triển vọng các tàu ngầm Trung Quốc bước ra khỏi lãnh
hải an toàn sẽ làm tăng đáng kể tính bất ổn của cuộc khủng hoảng. Mặc dù công
nghệ chiến tranh chống tàu ngầm của Mỹ chống lại các tàu ngầm của Trung Quốc
hoạt động ở các vùng biển khơi ít tiếng ồn hơn (nơi Mỹ cũng có ưu thế trên
không) là hiệu quả hơn, nhưng nó không hoàn hảo: một số tàu Hải quân Mỹ đã xuất
hiện trong tầm ngắm của các tàu ngầm Trung Quốc sẽ gặp nguy hiểm. Do đó, ngay
từ đầu một cuộc khủng hoảng, Mỹ sẽ tìm cách giảm tối thiểu nguy cơ này bằng
cách đánh đắm các tàu ngầm tấn công Trung Quốc khi chúng tìm cách rời khỏi các
lãnh hải an toàn của mình. Đặc biệt là vì chỉ có một vài tuyến đường chật hẹp qua
đó các tàu ngầm Trung Quốc có thể đi tới những vùng nước sâu hơn, Mỹ sẽ tìm
cách tấn công sớm thay vì chấp nhận mối nguy hiểm tăng lên đối với các lực
lượng Hải quân Mỹ. Bất chấp quyết định của Mỹ, bất cứ tàu ngầm tấn công nào của
Trung Quốc xoay sở để đi tới những vùng nước sâu hơn ở xa sẽ đối mặt với thế bế
tắc “sử dụng chúng hay là đánh mất chúng” do tính dễ bị tổn hại hơn trước các
lực lượng chống tàu ngầm của Mỹ – thêm một nguyên nhân tiềm tàng gây ra sự leo
thang.
Các SSBN vũ trang hạt nhân của Trung Quốc cho thấy
một mối đe dọa khác. Dưới chính sách không sử dụng trước, Trung Quốc đã tuyên
bố rõ rằng bất cứ cuộc tấn công nào nhằm vào các lực lượng hạt nhân chiến lược
của nước này cũng sẽ biện minh cho sự trả đũa hạt nhân, khiến cho cuộc tấn công
của Mỹ chống lại các SSBN của Trung Quốc dường như không thể xảy ra. Do đó,
ngay từ đầu cuộc khủng hoảng, Bắc Kinh có thể tin rằng nước này có thể triển
khai một cách an toàn các SSBN của mình đến các vùng biển sâu hơn ở xa, nơi
chúng ở vào vị trí tốt nhất đế thực hiện các mệnh lệnh phóng. Tuy nhiên, sự
triển khai đến các vùng biển sâu hơn như vậy sẽ gây ra những mối nguy hiểm mới.
Một là khả năng các lực lượng hải quân Mỹ có thể nhầm một SSBN của Trung Quốc
là một tàu ngầm tấn công thông thường và bắn nó, dẫn đến một cuộc trả đũa bằng
hạt nhân của Trung Quốc, Một mối nguy hiểm nữa là một SSBN của Trung Quốc có
thể leo thang cuộc xung đột mà không có những mệnh lệnh rõ ràng từ Bắc Kinh, do
sự liên lạc hạn chế mà các tàu ngầm như vậy vẫn duy trì với đại lục đế tránh bị
phát hiện.
Xử
lý mối đe dọa
Những cơ hội cho một cuộc khủng hoảng Mỹ-Trung trong
những năm tới là rất thấp, nhưng chúng không phải là không đáng kế, và chúng
đang gây nhiều rắc rối hơn do nguy cơ xảy ra một cuộc leo thang đối đâu như
vậy. Những bước đi quan trọng nhất mà Bắc Kinh và Washington có thể thực hiện
là những bước đi có thể giúp ngăn chặn các cuộc khủng hoảng không phát triển
ngay từ đầu. Do tình trạng không chắc chắn về phạm vi những lợi ích sống còn
của các bên sẽ là nguyên nhân gây ra những cuộc khủng hoảng như vậy, hai nước
này cần phải làm sâu sắc những sự trao đổi chính trị và quân sự mà tập trung
chặt chẽ vào vấn đề này. Cho dù không thể đạt được tính hoàn toàn minh bạch,
các cuộc thảo luận có thể giúp thu hút sự chú ý vào những gì cả hai bên cho
rằng gây ra những nguy cơ lớn nhất.
Mặc dù sẽ khó có thể loại trừ khả năng xảy ra các
cuộc đối đầu Mỹ- Trung, cả hai nước có thể làm nhiều hơn để giải quyết những
nguyên nhân gây ra sự bất ổn tiềm tàng và cải thiện khả năng của họ xử lý các
nguy cơ mà họ đối mặt trong một cuộc khủng hoảng. Các nhà lãnh đạo ở Washington
có thể chia sẻ kinh nghiệm dồi dào của mình trong việc xử lý khủng hoảng với
các đồng nghiệp Trung Quốc, nhấn mạnh tầm quan trọng của sự phối hợp chính
sách. Thêm nữa, Mỹ cần nhấn mạnh việc Trung Quốc cần phải sử dụng đường dây
nóng đang tồn tại để có được sự liên lạc tức thời và trực tiếp giữa các nhà
lãnh đạo cấp cao của hai nước trong một cuộc khủng hoảng.
Trung Quốc và Mỹ cũng nên làm sâu sắc những sự trao
đổi giữa quân đội hai nước ở mức độ vừa phải hiện nay. Không gây tổn hại cho
những bí mật cơ bản, việc tăng sự hiểu biết về hệ thống quân sự và những thực
tiễn của mỗi bên sẽ làm giảm những nguy cơ xảy ra sự leo thang không chủ đích
trong một cuộc đối đầu. Sẽ là khôn ngoan nếu cả hai phía thúc đẩy sự hiểu biết
cá nhân lớn hơn giữa các sĩ quan chỉ huy ở cả hai nước mà trong sự kiện có
khủng hoảng, sẽ thiết lập được đôi chút lòng tin mà sẽ hữu ích nếu các nhà lãnh
đạo chính trị tìm cách xuống thang cuộc xung đột.
Việc để Bắc Kinh và Washington giải quyết nhiệm vụ
khó khăn là kiềm chế một cuộc khủng hoảng trong tương lai sẽ là không dễ dàng.
Cuối cùng, có thể lấy kinh nghiệm của việc sống sót một cuộc quyết đấu khủng
khiếp theo kiểu đã xác định cuộc Chiến tranh Lạnh lúc trước. Nhưng điều đó
không hẳn phải xảy ra./.
No comments:
Post a Comment