Xích Tử
Tác
giả gửi cho Dân Luận
Khách gửi hôm Thứ Hai, 10/03/2014
Đảng CSVN chuẩn bị họp Ban chấp
hành trung ương kỳ 9 khóa XI, có chuyên đề bàn về văn hóa.
Ban tuyên giáo trung ương đã
thành lập Ban chỉ đạo xây dựng Đề án, biên soạn dự thảo Đề án. Bản dự thảo 22,5
trang được gởi đến nhiều địa chỉ, trong đó có các cấp ủy tỉnh, thành phố để tổ
chức hội nghị lấy ý kiến. Mỗi tỉnh, thành phố triệu tập một cuộc họp 1 buổi,
với thành phần cán bộ chủ chốt cấp tỉnh (thành) và huyện (quận) tương ứng số
đại biểu trên dưới 100 người để làm cái công việc rất dân chủ và vô bổ này.
Đi sâu vào văn bản dự thảo, có
thể nhận định ngay mà không sợ mất lòng những người biên soạn rằng thực sự đây
chỉ là một mớ hổ lốn, với những nội dung lộn xộn, cũ rích, nhàm chán, tự mâu
thuẫn, được lắp ghép từ những chuyện rất cũ mấy chục năm trước cộng với sự làm
ra vẻ đỏm đáng bằng một vài chuyện mới, thuật ngữ khái niệm mới, được thu thập
từ các nhà chính trị, những chuyên gia nửa vời, và sự góp ý từ hội nghị tổng
kết 15 năm thực hiện nghị quyết TƯ 5 khóa VIII mà phần lớn đều không chạm được
đến bản chất của vấn đề và theo kiểu đẽo cày giữa đường. Có lẽ những người ngồi
viết, hội ý bàn bạc với nhau để cho ra bản dự thảo ấy cũng không tin mình lắm,
sợ thiếu nội dung và bị rơi vào trận đồ bát quái. Toát lên một cách chung nhất
từ đó là sự bế tắc cả về lý luận và thực tiễn, thể hiện tâm trạng đầu hàng về
sự giành quyền lãnh đạo của đảng đối với lĩnh vực bất kham này. Điều đó phản
ánh trong toàn bộ văn bản dự thảo, từ đánh giá tình hình, phân tích nguyên
nhân, dự báo khả năng và xác định phương hướng ”tiếp tục”.
Về lý luận, từ khi đảng lãnh
đạo văn hóa văn nghệ, quan điểm “marxist leninist” đã quán triệt, xuyên suốt,
kiên trì và thô bạo. Mấy chục năm trước, khi tiến hành ba cuộc cách mạng, văn
hóa là một trong đó; văn hóa là một mặt trận (cách mạng khoa học kỹ thuật, cách
mạng quan hệ sản xuất, cách mạng tư tưởng văn hóa). Phương châm tiên tiến đậm đà
bản sắc dân tộc cũng có tuổi bằng độ ấy chứ không đợi đến nghị quyết 5 mới thể
hiện “năng lực tư duy lý luận” về văn hóa như dự thảo nhận định. Vấn đề là, cho
đến nay, đảng cũng chưa xác định thế nào là tiên tiến, thế nào là văn hóa dân
tộc, là đậm đà, là sự kết hợp giữa hai phạm trù đó, là du nhập, hỗn dung văn
hóa, là tiếp biến giao thoa văn hóa, là lai căng, là truyền thống, thuần phong
mỹ tục, hệ giá trị mới... Những khái niệm đó được gọi lên, bày ra làm công cụ
lãnh đạo, nhưng chẳng được xác định nội hàm là gì, lâu dài, hằng tính cũng như
giai đoạn ngắn hạn. Chúng trôi nổi trong đời sống xã hội, đời sống và hoạt động
văn hóa văn nghệ cùng những biến động đa đoan của tâm trạng, thị hiếu, xu thế
của các trào lưu, motif, phong cách văn hóa với qui luật riêng của nó, trong đó
có qui luật về lạ, mới, lập dị, chống lại chính trị của nó, có qui luật về sự
nổi loạn, có qui luật về vòng quay thị hiếu cũ – mới – cũ... của các hiện tượng
văn hóa.
Về thực tiễn, suốt mấy chục năm
lãnh đạo theo quan điểm ưu việt đó, đảng đã mất dần quyền kiểm soát các định
hướng, về chuẩn mực, giá trị, thị hiếu, lối sống, qui hoạch các loại hình văn
hóa, các thiết chế văn hóa phù hợp. Pháp luật về văn hóa không đủ và không dám
can thiệp vào văn hóa qua những hiện tượng diễn ra từng ngày. Những khái niệm
công cụ không được và cũng không dám định nghĩa trong luật đã thả nổi những
hiện tượng được gọi tên là phản cảm, lố, dị hợm, choáng, sốc, đắng lòng, xót
lòng... trên báo chí, những trang báo câu khách bằng tin giật gân và khiêu dâm,
những trò gọi là tâm linh, ngoại cảm mà nhà nước có dự phần khuyến khích. Sự du
nhập ồ ạt của văn hóa ngoại lai hòa cùng với tình trạng đó đã làm cho nền văn
hóa nước nhà biến thành toa tàu chợ với đủ thứ heo gà tương cà mắm muối chồng
chất với con người. Dự thảo gọi một số trong những hiện tượng văn hóa du nhập
ngoại lai đó là “lai căng”, song lai căng là gì, như thế nào thì không chỉ ra
được. Liệu chủ nghĩa Marx – Lenin có phần lai căng không; và người góp phần du
nhập nó vào, tự gọi mình là Cha già dân tộc, là Bác, là Người; và người ấy xưng
tôi, gọi vị tướng chống ngoại xâm đã hiển thánh trong lòng nhân dân từ thế kỷ
XIII là bác là văn hóa gì? Cũng chính người, trong 5 điều dạy thiếu niên nhi
đồng, đã không nói gì đến gia đình, ông bà cha mẹ anh em bà con cả; đó là văn
hóa gì?
Từ chỗ không thể quản lý được,
hoặc không thể quản lý, hoặc quản lý thiếu khoa học, với nhiều ứng xử trái
ngược, lúng túng, mâu thuẫn, đảng, nhà nước cũng không còn đủ sức đầu tư cho
văn hóa xứng với sự lãnh đạo toàn diện của mình; thả nổi nó bằng cái gọi là xã
hội hóa như trong một số lĩnh vực khác.
Từ sự bế tắc nhưng bảo thủ và
sự thất bại trong quản lý thực tiễn đó, đã xuất hiện vô số những quái trạng
trong đời sống văn hóa Việt Nam đương đại; xét ở cấp hệ chuẩn mực giá trị, đó
là tình trạng suy đồi toàn diện và nghiêm trọng.
Bản chất của vấn đề, cũng là
nguyên nhân của tất cả nguyên nhân xuất phát từ chỗ văn hóa là một hiện tượng
xã hội phức tạp, đa dạng, phong phú, luôn vận động và biến động tự nhiên như
chính đời sống xã hội loài người; không thể khuôn nhốt văn hóa vào cái chuồng
để lãnh đạo, quản lý để phục vụ những mục tiêu chủ quan, phi tự nhiên, phi lý
của những học thuyết chính trị có tính viễn tưởng và thử nghiệm. Văn hóa bao
trùm hết cuộc sống, to lớn nhưng lại diễn ra trong hành vi của mỗi cá thể của
xã hội; nó có đại ngã (brahman) của biển lớn nhưng lại thể hiện trong tiểu ngã
(atman) đặc thù, độc đáo của từng giọt nước. Trong khi đó, đảng lại có tham
vọng quá lớn, thể hiện qua quyền lực muốn lãnh đạo, quản lý văn hóa, từ vĩ mô
đến vi mô, với cách quản lý quá đơn giản về quan niệm triết học văn hóa, lý
luận văn hóa và hành chính hóa trong quá trình điều chỉnh, điều hành, quản trị
và cả tham vọng đầu tư kiểu bao cấp hoạt động này.
Văn hóa, như từ nguyên Hán –
Việt và từ nguyên latinh của nó, luôn vận động (hóa) sinh động, sinh sôi nảy
mầm, đâm cành trổ hoa kết trái và phá hoại, hủy diệt để tồn tại và trưởng thành
phát triển tự nhiên. Bản chất của nó là phá phách, tự do, dân chủ, chống lại cả
sự chăm sóc, khen thưởng vô lối, lì xì vô duyên nhưng luôn tôn trọng qui luật
về cái đẹp, cái mới, cái lạ, sự cân bằng, bảo toàn; nó chống lại chính nó để đề
kháng, tự vệ và chống lại sự hướng dẫn cố ý, ràng buộc, nhốt vào chuồng, vỗ về,
cho ăn, huấn thị; đảng lại biến văn hóa như một thứ gà công nghiệp, nhốt
chuồng, dạy dỗ theo phản xạ có điều kiện, cho ăn, tưởng thưởng, tặng danh hiệu;
nếu không thành thì thịt. 22,5 trang của bản dự thảo đề án không thể đụng đến
bản chất và là nguyên nhân của tình trạng suy đồi của văn hóa nước nhà hiện
nay.
Từ những bế tắc, lúng túng về
lý luận và thất bại thực tiễn đó, bản dự thảo đã không giấu diếm được những hạt
sạn diễn đạt để xứng với trí tuệ của một tập thể chuyên gia cao cấp của Ban
tuyên giáo.
Khi nhận định tình hình, bản dự
thảo cho rằng kết quả 15 năm thực hiện nghị quyết 15 “chưa tương xứng với tiềm
năng, điều kiện...” nhưng không chỉ ra là tiềm năng nào, tại sao thấy được tiềm
năng mà lại không thực hiện đến kết quả. Logic của sự đánh giá giống như cách
diễn đạt phát ngôn ngoại giao về các quan hệ song phương, trong khi chuyện phát
triển văn hóa theo nghị quyết chỉ là chuyện đơn phương, nội bộ. Cuối cùng, cách
đánh giá ấy giống như một võ sĩ bại trận nhưng lại tự phê phán mình chưa đấu
hết tiềm năng. Tương tự, khi nói chưa tương xứng với điều kiện, bản dư thảo
cũng không nêu được điều kiện gì; trong khi đó, phần sau lại nói đến những hạn
chế của điều kiện, hết sức mâu thuẫn và cẩu thả.
Trong hạn chế, bản dự thảo nói
đến việc chưa xây dựng được “hệ giá trị mới”, nhưng hệ giá trị mới là gì thì
ngay trong nghị quyết 15 cũng chưa hình dung được, và chắc chắn là không được.
Và ngay trong dự thảo, khi trưng cái khái niệm đó ra một cách dễ dãi thì nhưng
chuyên gia biên soạn cũng đã tự mâu thuẫn ngay với những diễn đạt khác như “hệ
giá trị truyền thống không còn được coi trọng” và “những giá trị mới chưa hình
thành”; bởi, có nghĩa là, nếu giá trị truyền thống còn được xem trọng thì tình
hình sẽ tốt hơn và không cần hệ giá trị mới; mặt khác, hệ giá trị mới là cái đang
hình thành chứ không phải là xây dựng một cách phi tự nhiên. Ngay hai cụm từ HỆ
GIÁ TRỊ MỚI và NHỮNG GIÁ TRỊ MỚI xuất hiện trong một đoạn văn là đã có vấn đề
tâm thần lý luận.
Ở một đoạn khác, dự thảo nói
đến nguy cơ biến mất một số hiện tượng văn hóa của các dân tộc thiểu số với tư
duy siêu hình một chiều rằng đó là tiêu cực. Cách tư duy đó không phải là nhãn
quan văn hóa duy vật, đúng với bản chất của đời sống văn hóa. Trong thời gian
qua, chính cách nghĩ này đã mở đường cho những chủ trương, dự án duy bản tồn,
vị bảo tồn, cả ở cấp trung ương và địa phương, rất tốn kém và làm lợi cho một
số người, rồi trở thành lãng phí, vô dụng.
Một sai lầm lý luận thuộc hàng
kiến thức sơ đẳng là việc sử dụng khái niệm “thiết chế văn hóa” khi dự thảo
viết “Các thiết chế văn hóa được xây dựng từ nhiều nguồn khác nhau, đa dạng về
sở hữu...”. Như kiến thức sơ đẳng đã xác lập, thiết chế xã hội, trong đó có
thiết chế văn hóa, gồm các yếu tố hệ chuẩn mực - giá trị, tổ chức xã hội thể
hiện qua nhóm người tham gia hoạt động trong thiết chế, hình thức, phương pháp
vận hành hoạt động thực tiễn các chuẩn mực giá trị, và cơ sở vật chất, phương
tiện thiết bị, tài chính hậu cần bảo đảm hoạt động. Chẳng hạn, tôn giáo có đấng
tối cao (nhiên xuất hoặc nhân hóa, đa thần hoặc hữu thần, phiếm thần, cả vô
thần), giáo lý (kinh điển, pháp điển), thầy tu, tăng ni, sư sãi, giáo chủ...,
giáo lễ nghi thức hành đạo hoằng pháp hoằng hóa chủng thiện..., nhà thờ nhà
nguyện thánh thất chùa chiền. Tương tự, thiết chế văn hóa phải được kể đến hệ
giá trị chân – thiện – mỹ, pháp luật và hệ thống công cụ quản lý, điều hành,
hướng dẫn nghiệp vụ văn hóa và bản thân phương pháp thực hành các hoạt động văn
hóa, những người quản lý, sáng tác, biểu diễn và thụ hưởng văn hóa, hệ thống cơ
sở vật chất và phương tiện, thiết bị phục vụ các hoạt động văn hóa...Dự thảo,
khi diễn đạt như vậy là chỉ hiểu văn hóa ở phạm vi chùa chiền của tôn giáo. Và
đây cũng là cách hiểu phiến diện, thô thiển, thực dụng, bóc lột nhân dân nói
chung về “xã hội hóa” một số lĩnh vực hoãt động xã hội ở Việt Nam
Sai lầm rất lớn, thể hiện sự
phiến diện của trình độ lý luận của các “chuyên gia” chính là tiêu đề của của
khoản 1, mục IV Phần thứ ba “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện,
trọng tâm là nhân cách”. Các nhà tâm lý học, giáo dục học chắc sẽ có dịp bàn
rộng hơn tiêu đề này. Ngắn gọn, theo thiển ý của người viết bài này, nhân cách
là toàn bộ sự thể hiện của con người trong đời sống cộng đồng xã hội; nó được
tập thành từ quá khứ nhiều thế hệ đến thời điểm đang thể hiện, và sẽ tiếp tục
hoàn thiện cho đến hết cuộc đời. Marx đã nói rằng xét cho cùng, về mặt hiện
thực, nhân cách con người là sự tổng hòa các quan hệ xã hội. Người ta đánh giá
cao câu đó bởi nó luôn đúng về yêu cầu khái quát, trong đó có sự khái quát về
quan hệ xã hội của bố và mẹ để tạo ra phần cơ thể sinh học của đứa bé. Nó chỉ
sai dần khi qui luật đó được cụ thể hóa bằng những nhân tố sinh học của cá thể
và đặc thù, kể cả ngoại lệ của quá trình “tổng hòa” nhân cách cho/của từng cá
thể.
Từ quan niệm đó, các nhà nước
xã hội chủ nghĩa đã thực hành quãng canh đào tạo con người đồng phục bằng cách
thiết kế những nhân cách toàn diện đức trí thể mỹ đồng loạt thông qua hệ thống
giáo dục duy nhất trước đây, và biến thể hiện nay. Như vậy, tính toàn diện đó
đã phản ánh qua mục tiêu và nội dung chương trình giáo dục, trong và ngoài nhà
trường, chính qui và phi chính qui. Không có lý gì tách con người toàn diện với
nhân cách hoặc nhân cách là một phần (trọng tâm) của con người toàn diện.
Có thể còn nhiều chuyện khác
trong bản dự thảo, song nhặt ra để bàn vài việc như vậy cũng đủ cho nhận định
khái quát ở đầu bài viết. Thiết nghĩ, với sự tổng hợp cẩu thả, thiếu chọn lọc,
cầu toàn bằng một sự lắp ráp cơ học như vậy, dù bản dự thảo cố ý đưa vào những
khái niệm thời thượng như dân chủ, nhân quyền, năng động, sáng tạo, nhiều lựa
chọn v.v... cùng những thay đổi tiểu tiết của quan điểm lý luận, các kiến nghị
hoành tráng thì kết quả cũng chỉ là sản phẩm khoán ăn lương, nhằm tham mưu cho
những hoạt động lấy lệ, bảo thủ của một hội nghị trung ương để khẳng định điều
4 Hiến pháp.
Có điều, không biết nên khen
hay chê bản dự thảo bởi tính tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc của nó khi những
người biên soạn rất cố gắng đổi mới văn phong, tìm tòi và sử dụng những từ ngữ,
khái niệm thời thượng nói trên đúng ngữ cảnh thì cũng không ngại tái sử dụng
một cách nói rất “truyền thống” trong khoản 3, mục IV “Chăm lo xây dựng văn hóa
chính trị và văn hóa kinh tế”. Thương làm sao cái từ “chăm lo” đó; nó vừa có vẻ
“chi phụ mẫu” của thời phong kiến và xã hội chủ nghĩa bao cấp, vừa tạo hình ảnh
tưởng tượng về cảnh ríu rít chiu chít run sợ của những chú gà con chuyên gia
tuyên giáo làm bản dự thảo để trình ra hội nghị. Bởi, khi nói về các nhiệm vụ
khác, bản dự thảo đi thẳng vào động từ chính của mệnh đề vị ngữ; còn ở đây,
đụng đến văn hóa chính trị, thì co lại, để chăm lo, có quyền chăm lo và được
chăm lo. Tội thật.
Xích Tử
No comments:
Post a Comment