Phan
Thành Đạt
Posted by News on March 23rd, 2014
Việt Nam là quốc gia nằm ở Đông Nam Á, có diện tích
300.30.000 km². Với dân số 90 triệu người, Việt Nam là nước đông dân trên thế
giới. Nhờ có một nền văn hiến lâu đời cùng với lịch sử hào hùng khoảng 3000
năm, đất nước này có nhiều di sản văn hóa, kiến trúc được xây dựng từ nhiều thế
kỷ. Việt Nam cũng là mảnh đất sinh sống của 54 dân tộc anh em, trong đó dân tộc
Kinh là dân tộc đa số, chiếm 87 % dân số toàn quốc. Lịch sử của Việt Nam gắn
liền với các cuộc đấu tranh chống quân xâm lược phương bắc để bảo vệ toàn vẹn
lãnh thổ và giữ vững nền độc lập. Lịch sử thời kì hiện đại của Việt Nam cũng
gắn liền với các cuộc chiến tranh. Trong thế kỉ XX, Việt Nam là nơi diễn ra
nhiều cuộc chiến tranh: Chiến tranh Đông Dương, chiến tranh với Mỹ, chiến tranh
biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc, hay cuộc chiến giữa quân tình nguyện
Việt Nam và Khmer đỏ nhằm giải phóng Campuchia.
Việt Nam thống nhất ngày 30 tháng 4 năm 1975, sau
khi quân đội miền Bắc được Liên bang Xô viết và Trung Quốc ủng hộ tiến vào Sài
Gòn. Quân đội Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam trước đó được Mỹ ủng hộ, đã thua
quân đội miền Bắc trong cuộc chiến ý thức hệ.
Giải phóng Sài Gòn (theo cách gọi của phe Xã hội chủ
nghĩa) và Sài Gòn bị thất thủ (theo cách gọi của phương Tây) đã chấm dứt cuộc
chiến tàn khốc kéo dài 20 năm. Việc các nhà lãnh đạo Việt Nam áp dụng các chính
sách kinh tế và chính trị theo mô hình xã hội chủ nghĩa ở miền Nam đã khiến hơn
800.000 người Việt Nam phải rời bỏ quê hương để chạy chốn chủ nghĩa cộng sản.
Từ “thuyền nhân” được nhắc đến trên nhiều trang báo ở các nước phương Tây để
chỉ những người Việt Nam rời bỏ đất nước bằng thuyền hoặc bằng bè tự tạo, họ
lênh đênh trên biển với hi vọng sẽ có tàu nước ngoài cứu giúp. Đây là một giai
đoạn đen tối trong lịch sử của đất nước.
Việt Nam ngày nay vẫn là một nước nghèo, được xếp
vào nhóm các nước đang phát triển. Tuy nhiên, đất nước có nhiều tiềm năng to
lớn. Việt Nam có dân số trẻ vì 70 % người Việt Nam sinh ra sau chiến tranh, đây
là nguồn nhân lực quan trọng để phát triển và đổi mới đất nước. Di sản văn hóa
phong phú và độc đáo cũng trở thành nguồn lực cho phát triển du lịch, dịch vụ…
Hơn 4 triệu người Việt Nam sống ở 70 nước trên thế giới luôn hướng về quê
hương, họ có nhiều đóng góp trong sự nghiệp đổi mới đất nước. Họ mong muốn các
nhà lãnh đạo Việt Nam sớm thay đổi cách thức quản lí và điều hành đất nước bằng
cách xây dựng thể chế chính trị kiểu mới.
Từ 1945 đến nay, đảng cộng sản Việt Nam luôn giữ độc
quyền lãnh đạo. Một số nguyên tắc được đặt ra từ thời điểm đó đến nay vẫn không
có gì thay đổi: Các đảng phái chính trị khác bị cấm không được phép hoạt động,
trừ đảng cộng sản, sùng bái lãnh tụ vẫn được duy trì, báo chí thuộc quyền quản
lí của Nhà nước, các quyền tự do bị hạn chế bằng các đạo luật mơ hồ thiếu cơ
sở…
Con rồng Annam đã bắt đầu thức giấc và đảng đã bắt
đầu biết sợ vì đảng không còn nắm độc quyền về thông tin. Đã qua rồi thời kì
công dân chỉ được đọc những gì mà đảng muốn, hôm nay, công dân có quyền đọc
những gì mà mình thích, nhờ có sự phát triển của Internet và nhờ sự xuất hiện
của các trang mạng xã hội. 30 triệu người Việt Nam trong đó chủ yếu là những
người trẻ tuổi có cơ hội sử dụng Internet. Một số nhà trí thức đã sử dụng các
trang báo mạng để trao đổi thông tin và truyền bá tri thức cho đồng bào mình.
Họ phê bình thẳng thắn một số chính sách của đảng và Nhà nước, họ khuyên đảng
thay đổi cho phù hợp với thời cơ và vận hội mới. Nhiều người Việt Nam mong muốn
đảng nên chấp nhận đa nguyên, để cạnh tranh với các đảng phái khác, theo họ đất
nước cần sớm áp dụng thể chế dân chủ theo kiểu phương Tây, (theo chế độ nghị
viện hoặc chế độ tổng thống). Họ mong muốn Việt Nam nên xa rời Trung Quốc, một
Nhà nước cộng sản theo kiểu maoïs, vì nước này hay can thiệp vào công việc nội
bộ của các nước khác.
Việt Nam cần xa rời cái bóng của người láng giềng
phương bắc mới có cơ hội trở thành một nước dân chủ, lớn mạnh. Càng gần Mỹ và
phương Tây, Việt Nam càng có nhiều cơ may rời xa vòng kiềm tỏa củaTrung Quốc,
để thoát khỏi tầm ảnh hưởng của con rồng lớn này. Tuy nhiên, đối lập với những
nguyện vọng chính đáng của nhiều người yêu nước, các nhà lãnh đạo bảo thủ của
Việt Nam luôn lo sợ thay đổi vì đảng có thể mất quyền điều hành đất nước, và
điều này, những người cộng sản chưa sẵn sàng chấp nhận. Vì thế cuộc đấu tranh
cho dân chủ tự do ở Việt Nam sẽ còn lâu dài. Điều đáng mừng là càng ngày càng
có nhiều người tham gia vào sự nghiệp cao cả này, các nhà lãnh đạo tỏ ra lo
lắng và họ tìm ra nhiều kế đối phó.
Diễn trình lịch sử của Việt Nam trong thế kỉ XX gắn
liền với các phong trào dân tộc dân chủ trong nửa đầu thế kỉ. Trong nửa sau thế
kỉ, lịch sử mang đậm dấu ấn của quá trình trưởng thành và lớn mạnh của đảng
cộng sản Việt Nam. Lịch sử của đất nước trong thế kỉ XXI sẽ gắn với các hoạt
động đấu tranh cho dân chủ và nhân quyền, tiếp đến là sự nghiệp xây dựng đất
nước để theo kịp Nhật Bản, Hàn Quốc và phương Tây. Vì vậy nghiên cứu thể chế
chính trị của Việt Nam từ 1945 đến nay để rút ra những bài học cho tương lai là
công việc hết sức quan trọng. Ôn lại lịch sử một cách trung thực không phải để
gây chia rẽ giữa những người Việt với nhau, trái lại, càng làm cho tất cả người
Việt chúng ta gắn bó, quý mến nhau hơn, để cùng nhau xây dựng một tương lai tốt
đẹp, lấy văn hóa Việt cùng truyền thống của cha ông làm nền tảng cho mọi suy
nghĩ và việc làm.
I. Xây dựng chế độ chính trị dân chủ ở Việt Nam, sau thời điểm
năm 1945, ước muốn không thành hiện thực
Sau khi Nhật đảo chính Pháp vào ngày 9 tháng 3 năm
1945, Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp và các đại diện khác của Việt Minh ra lời kêu
gọi nhân dân Việt Nam nổi dậy giành chính quyền. Vua Bảo Đại thoái vị ngày 25
tháng 8 năm 1945, sau đó được mời làm cố vấn tối cao trong Chính phủ Liên hiệp.
Hồ Chí Minh đại diện cho chính quyền lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đọc
Tuyên ngôn độc lập tại quảng trưởng Ba Đình ngày mùng 2 tháng 9 năm 1945. Hiến
pháp đầu tiên của Việt Nam được các học giả đại diện cho các nhóm người khác
nhau trong xã hội biên soạn, Hiến pháp được công bố năm 1946 trước quốc dân
đồng bào. Đây là bản Hiến pháp dân chủ dựa theo các bản Hiến pháp của Pháp từ
thời nền cộng hòa đệ nhất đến nền cộng hòa đệ tam (1793-1940). Các nguyên tắc
cơ bản để xây dựng nền dân chủ và Nhà nước pháp quyền ở thời điểm đó đều được
nhắc đến trong văn bản này: Chế độ nghị viện, đa đảng, trưng cầu dân ý, tôn
trọng các quyền cơ bản của công dân, bảo vệ thiểu số… Nhưng điều đáng tiếc là
bản Hiến pháp này chưa bao giờ được áp dụng trong đời sống chính trị xã hội
Việt Nam, do những nguyên nhân khách quan và cả do ý chủ quan của các nhà lãnh
đạo.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, là thời kì
chiến tranh lạnh giữa hai phe tư bản và xã hội chủ nghĩa, Liên bang Xô viết và
các nước Đông Âu và Trung Âu theo chế độ cộng sản. Mỹ và Tây Âu theo chế độ
kinh tế chính trị tư bản. Chiến tranh hạt nhân giữa Mỹ và Liên bang Xô viết
không thể diễn ra vì nếu có, sẽ dẫn đến những hậu quả khôn lường. Raymond Aron
nhận xét: “Đó là thời kì chiến tranh không thể có và hòa bình không thể đạt
được”. Nếu như hai cường quốc về hạt nhân không đối đầu trực diện, chiến tranh
Triều Tiên (1950-1953) và chiến tranh Việt Nam (1954-1975) lại phản ánh quá
trình tham gia của các quốc gia này. Việt Nam với vị trí địa chính trị quan
trọng ở Đông Nam Á, lại ở bên cạnh nước láng giềng khổng lồ Trung Quốc, đã trở
thành tiền đồn của hai phe Tư bản và Xã hội chủ nghĩa. Trước năm 1954, Việt Nam
là thuộc địa của Pháp trong suốt hơn 80 năm. Nước Pháp đã công nhận độc lập cho
Việt Nam với điều kiện Việt Nam phải nằm trong khối Liên hiệp Pháp vì nước Pháp
muốn duy trì một số quyền lợi ở Đông Dương. Các cuộc thương lượng giữa hai bên
đã diễn ra tại Hội nghị Fontainebleau năm 1946, tuy nhiên mọi cố gắng đều dẫn
đến thất bại. Cuộc chiến không hề mong muốn từ cả hai bên đã diễn ra.
II. Xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa theo mô hình Liên xô, Trung
Quốc từ 1954 đến 1986
Sau hiệp định Genève, Việt Nam bị tạm thời chia cắt
thành hai miền, vĩ tuyến 17 được chọn làm giới tuyến phân chia. Miền Bắc Việt
Nam trong giai đoạn này trở thành đồng minh của Liên Xô và Trung Quốc. Đảng lao
động Việt Nam đã thông qua Hiến pháp 1959, dựa theo Hiến pháp Liên Xô năm 1936.
Những nguyên tắc cơ bản của chế độ xã hội chủ nghĩa được khẳng định trong Hiến
pháp mới, thay cho các nguyên tắc dân chủ của Hiến pháp năm 1946: Hệ tư tưởng
Mác-Lênin, đảng cộng sản nắm quyền (đảng lao động Việt Nam), nguyên tắc tập
trung dân chủ, loại bỏ sở hữu tư nhân đề cao sở hữu nhà nước… Miền Bắc đề ra
mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội và chi viện cho miền Nam.
Người Mỹ ngày càng can thiệp quân sự sâu vào Việt
Nam với mục đích chống lại sự phát triển của chủ nghĩa cộng sản ở châu Á và
trên toàn thế giới vì họ cho rằng học thuyết này đe dọa đến tự do của nước Mỹ.
Việt Nam Cộng hòa được Mỹ giúp đỡ để chống lại miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Chiến
tranh kết thúc ngày 30 tháng 4 năm 1975, khi quân đội miền Bắc tiến vào Sài
Gòn. Năm 1976, Quốc hội quyết định đổi tên gọi Sài Gòn thành thành phố Hồ Chí
Minh.
Kể từ ngày thống nhất đất nước đến nay, Việt Nam vẫn
chưa phải là Nhà nước dân chủ, sau năm 1975, đất nước rơi vào khủng hoảng kinh
tế, do cách điều hành và quản lí yếu kém của những người lãnh đạo. Bên cạnh đó,
Nhà nước có các biện pháp mạnh đối với những người “bên thua cuộc”. Hàng trăm
nghìn người Việt Nam trước đây là sĩ quan trong quân đội Việt Nam cộng hòa, hay
là các viên chức cao cấp trong bộ máy nhà nước Việt Nam Cộng hòa phải đi tập
trung cải tạo (không biết con số chính thức). Nhà nước chủ trương xây dựng nền
kinh tế bao cấp, nông dân lao động trong các hợp tác xã. Tự do trao đổi hàng
hóa bị hạn chế, quyền tự do đi lại và tự do ngôn luận của công dân bị vi phạm
nặng nề. Đời sống của người Việt Nam trong thời điểm đó hết sức khó khăn thiếu
thốn. Chính sách đổi mới và mở cửa bắt đầu được thực hiện từ năm 1986, bằng
cách xóa bỏ bao cấp và áp dụng nền kinh tế thị trường. Do Chủ nghĩa xã hội ở
Liên bang Xô viết và tại Đông Âu sụp đổ, Việt Nam không còn đồng minh cũng như
các đối tác thương mại. Đây là những lí do chính khiến đảng cộng sản Việt Nam
buộc phải mở cửa mạnh mẽ hơn và tiến đến bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc
để giữ vững quyền lãnh đạo đất nước.
III. Việt Nam tiếp tục kiên định chủ nghĩa xã hội hay lựa chọn
thể chế dân chủ trong tương lai?
Sau hơn hai thập niên đổi mới, Việt Nam đã đạt được
những thành tựu đáng khích lệ. Việt Nam đã thành công trong việc xóa đói giảm
nghèo, từ gần 50 % các hộ gia đình đói nghèo xuống còn 17 %. Tổng thu nhập quốc
nội đã tăng gấp 3 lần. Kinh tế đất nước tăng trưởng liên tục với mức độ trung
bình từ 6 % đến 7 %. Tuy nhiên Việt Nam vẫn là nước thuộc diện đói nghèo ở Đông
Nam Á, đứng trên Lào, Campuchia và Miến Điện. Trong tương lai gần, các nước này
sẽ có nhiều khả năng phát triển hơn Việt Nam. Là nước theo nền kinh tế thị
trường, nhưng Việt Nam lại không tuân theo quy luật cạnh tranh bình đẳng giữa
các thành phần kinh tế vì Nhà nước nắm giữ nhiều lĩnh vực kinh tế chủ chốt. Các
công ty nhà nước được hưởng nhiều ưu đãi, đây là nguyên nhân dẫn đến cạnh tranh
không lành mạnh giữa Nhà nước và tư nhân. Nhiều tổng công ty quốc doanh là môi
trưởng cho tham nhũng lãng phí, dẫn đến nguy cơ phá sản, gây thấp thoát rất lớn
cho đất nước. Tuy nhiên các nhà lãnh đạo xem ra vẫn chưa rút ra được bài học
gì.
Các trí thức tiến bộ mong muốn đảng cộng sản tiến
hành cải cách triệt để về kinh tế và chính trị. Đợt sửa đổi Hiến pháp vừa qua
là thời cơ lớn cho đảng thay đổi thể chế chính trị để đáp ứng những đòi hỏi của
nhiều người Việt Nam trong và ngoài nước. Nhưng cơ hội hiếm hoi này đã bị bỏ
qua vì thế cuộc đấu tranh vì dân chủ và quyền con người vẫn sẽ là mục tiêu quan
trọng trong thời gian tới.
Một số đảng viên cộng sản ủng hộ thay đổi thể chế
chính trị bằng con đường ôn hòa, tránh dùng bạo lực. Họ hợp tác với các trí
thức ưu tú để xây dựng xã hội dân sự. Nhiều người yêu cầu đảng phải tôn trọng
các quyền cơ bản của con người đã được Hiến pháp công nhận. Cạnh tranh chính
trị và cạnh tranh kinh tế cần được đảm bảo. Về phía các nhà lãnh đạo, họ tỏ ra
lúng túng và thường đối phó bằng các biện pháp trấn áp cứng rắn. Họ đang ở giữa
“hai dòng nước”. Cần phải tiếp tục theo chế độ cộng sản do các nhà các mạng
sáng lập ra chế độ đã vạch ra, hay cần tiến hành cải cách chính trị toàn diện
theo mong muốn của nhiều người Việt Nam? Đây là điều khó khăn đối với đảng cộng
sản, nhưng đó là đòi hỏi của thời đại mới. Nếu các nhà lãnh đạo bỏ qua cơ hội
đổi mới, họ sẽ phải chịu trách nhiệm trước lịch sử. Các thế hệ tương lai sẽ
đánh giá đúng về con người cũng như những việc làm của họ.
Một câu hỏi lớn được đặt ra: Liệu thay đổi đất nước
bằng con đường ôn hòa, tránh xử dụng bạo lực có phải là phương pháp đúng đắn
không? Và liệu có đến đích được không?
Người viết bài này chỉ xin đưa ra một vài nhận xét
và đây cũng là kết luận cho bài viết:
Dân chủ là một quá trình lâu dài đòi hỏi người dân
có trình độ hiểu biết ở mức độ nhất định về văn hóa pháp luật và văn hóa chính
trị, điều này đang được nhiều nhà trí thức, cũng như nhiều người có tâm huyết
tiến hành bằng con đường khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh. Dân chủ được
củng cố nhờ đời sống vật chất đầy đủ, tầng lớp có thu nhập trung bình chiếm số
đông theo tỉ lệ dân số, dân chủ cũng gắn liền với phát triển đô thị.
Thay đổi đất nước bằng con đường ôn hòa bằng cách
phê phán cơ chế vận hành của thể chế hiện nay chứ không phải gạt bỏ những người
trong thể chế đó. Bởi vì thay đổi để cho xã hội tốt đẹp lên, nhằm phục vụ con
người tốt hơn nhờ tuân theo các nguyên tắc công bằng, bình đẳng đem lại hạnh
phúc cho con người, chính vì vậy không có lí do gì để đàn áp con người bằng bạo
lực để đạt được mục đích. Biện pháp này ẩn chứa nhiều nguy cơ và không hợp với
dân chủ vì dân chủ dựa trên phản biện đối kháng để tìm ra giải pháp.
Thay đổi đất nước bằng con đường ôn hòa là phương
pháp tốt để tạo nền tảng cho dân chủ lâu dài, dựa trên thỏa hiệp, tranh luận,
nhằm tạo thêm sức mạnh cho những người muốn thay đổi đất nước. Khi họ đã có đủ
lực tạo thế cân bằng với nhà cầm quyền, khi đó hai bên buộc phải có đối thoại.
Bằng giải pháp bạo lực, con người có thể giành chính quyền được một thời gian,
nhưng để giữ được chính quyền, người lãnh đạo phải cần đến bạo lực và “nuôi
dưỡng” bạo lực,và cứ như vậy bạo lực sẽ tiếp diễn, sẽ rất khó thiết lập được
nền dân chủ trong bối cảnh căng thẳng và bất ổn như thế vì nền dân chủ ở thời
kì đầu rất mong manh.
—
Un aperçu sur le Vietnam de 1945 jusqu’à aujourd’hui
Le Vietnam est un pays en Asie du Sud-Est. Sa
superficie est de 30030000 km². Sa population est de 90 millions d’habitants.
Ayant une histoire de 3000 ans, le Vietnam bénéficie de ses héritages
culturels, architecturaux laissés par les générations précédentes. Le Vietnam est
aussi un pays où vivent ensemble 54 ethnies différentes dont l’ethnie Viet
occupe de 87 % de la population. L’histoire de ce pays était très mouvementée
au XX ème siècle car le Vietnam a connu plusieurs guerres: La guerre
d’Indochine, la guerre avec les États-Unis, la guerre frontalière avec la
Chine, l’intervention vietnamienne au Cambodge contre les Khmers rouges. Le
Vietnam s’est réunifié, le 30 avril 1975, suite à la libération de Saigon par
les troupes vietnamiennes du Nord soutenues par les Alliés communistes russe et
chinois, tandis que l’armée de la République du Vietnam du Sud était soutenue
par les Américains.
La chute de Saigon et l’application du régime
politique très dur au Sud du Vietnam par les dirigeants communistes ont été à
l’origine de la fuite du communisme des millions de Vietnamiens. La notion de
boat-people a apparu dans les années 80 pour désigner les Vietnamiens qui ont
quitté leur pays en barque et en radeau fragiles sur la mer. Il s’agissait
d’une page d’histoire sombre du Vietnam au XX ème siècle.
Le Vietnam d’aujourd’hui est un pays en voie de
développement, pourtant, ce pays dispose de grands potentiels: Sa population
est jeune. 70 % des Vietnamiens sont nés après la guerre, la diaspora
vietnamienne dans le monde est de 4 millions de personnes. La richesse de
ressources humaines et naturelles sont considérables… Le parti communiste a le
monopole de diriger le Vietnam depuis 1945 jusqu’à présent. Certains principes
imposés par les gouvernants communistes sont immuables: L’interdiction du
pluralisme politique, le culte de la personnalité de Ho Chi Minh, la presse
appartient exclusivement à l’État, les droits et libertés sont restreints…
Le dragon d’Annam se réveille aujourd’hui et le
parti communiste au pouvoir trembloie car l’État ne détient plus le monopole de
l’information. Grâce au développement de l’internet et des réseaux sociaux, 30
millions de Vietnamiens ont l’accès à l’Internet. Certains intellectuels
courageux qui n’ont plus peur du régime, critiquent les politiques du parti
communiste. Beaucoup de Vietnamiens souhaitent que le parti communiste accepte
le pluralisme politique et un régime politique démocratique soit mis en place.
(le régime parlementaire ou le régime présidentiel reste le modèle typique de
la démocratie occidentale) et que le Vietnam s’éloigne de la Chine, pays
socialiste maoïste qui aime bien intervenir dans ses affaires intérieures.
Selon leurs avis, si le Vietnam souhaite devenir une vraie démocratie, il doit
s’approcher des États-Unis et de l’Europe, en adoptant leur modèle politique.
Pourtant, certains dirigeants vietnamiens conservateurs ont peur du changement
politique car le parti communiste peut perdre le pouvoir de gouvernance.
La lutte pour la démocratie et la protection des
droits de l’homme au Vietnam attirent de plus en plus des couches sociales
différentes et le gouvernement communiste s’en inquiète. L’histoire mouvementée
du Vietnam au XX ème siècle s’est étroitement liée à la direction du parti
communiste dont le leader est Ho Chi Minh. Il est donc nécessaire d’étudier le
régime politique de ce pays depuis 1945 jusqu’à nos jours:
I.
Le souhait d’un régime politique démocratique au Vietnam dans la tourmente
historique en 1945-1946
Suite à la présence de l’armée japonaise au Vietnam,
le Vietminh sous la direction de Ho Chi Minh et de Vo Nguyen Giap a appelé les
Vietnamiens à se soulever pour l’indépendance du pays. Ho Chi Minh au nom du
gouvernement provisoire a proclamé l’indépendance du Vietnam, le 2 septembre
1945 à Hanoi. La Constitution vietnamienne a été rédigée et publiée en 1946,
mais ce texte constitutionnel très démocratique en calquant les Constitutions
démocratiques françaises n’était jamais appliquée. Sont tous énumérés dans
cette Constitution la plus démocratique, le régime parlementaire, le pluralisme
politique, le référendum, le respect des droits fondamentaux. Mais celle-ci
reste une Constitution morte-née, sous la mainmise du pouvoir du parti
communiste vietnamien.
Après la Seconde Guerre mondiale, le monde se divise
en deux camps politiques opposés: l’Union soviétique et les pays de l’Europe de
l’Est ont adopté le régime communiste. Les États-Unis et les pays de l’Europe
occidentale suivent toujours le modèle politique et économique capitaliste. Le
Vietnam, quant à lui, dispose d’une position géopolitique très importante en
Asie car il se trouve à côté de la Chine communiste de Mao et il possède une
position stratégique dans la mer pacifique où toutes les puissances veulent
avoir des influences politiques. Pourtant, le Vietnam reste une colonie
française en Indochine depuis 70 ans. La France reconnaît l’indépendance du
Vietnam à condition que le Vietnam demeure un État dans l’Union française. Les
négociations franco-vietnamiennes étaient en échec à la conférence de
Fontainebleau. Une guerre insouhaitable s’est déclenchée en Indochine.
II.
L’adoption du régime politique socialiste selon les modèles soviétique et
chinois, pendant la période de 1954 à 1990
Le Vietnam devient un allié de la Chine communiste
et de l’URSS. Le parti communiste vietnamien a adopté la Constitution de 1959
dont les principes essentiels sont inspirés de la Constitution soviétique de
1934 tels que le socialisme, l’économie planifiée, l’idéologie
marxiste-léniniste, le parti unique au pouvoir, le centralisme démocratique… Le
Vietnam du Nord s’est séparé du Vietnam du Sud au 17 ème parallèle par l’accord
de Genève. L’intervention militaire des États-Unis au Vietnam dans le but de
lutter contre l’expansion du communisme en Asie et dans le monde. Le Vietnam du
Sud devient une République qui s’oppose au Vietnam du Nord. La guerre du
Vietnam a pris fin au 30 avril 1975 lorsque les troupes du Nord sont entrées à
Saigon qui sera nommé Ho Chi Minh-ville, à partir de 1976.
Après l’indépendance, le Vietnam n’était pas encore
une démocratie, mais un régime autoritaire. Le pays était en crise à cause de
la mauvaise gestion économique du parti communiste. Des centaines de milliers
de Vietnamiens qui étaient au paravant officiers ou fonctionnaires du régime de
Saigon, devaient passer leur vie pendant un certain temps dans les camps de
rééducation. L’économie planifiée, l’agriculture organisée dans les
coopératives, l’interdiction de libre échange et de libre circulation
deviennent les grands obstacles du développement socio-économique du pays après
la guerre. La politique du renouveau et celle de l’ouverture du pays ont
commencé à se réaliser en 1986. La chute du communisme en Russie et en Europe
centrale et orientale a obligé le Vietnam d’adopter l’économie de marché pour
survivre.
III.
Le régime politique du Vietnam dans l’avenir, le choix du communisme ou le
choix de la démocratie ?
Après plus de 20 ans de renouveau, le Vietnam a
acquis de belles réalisations: Le Vietnam a réussi dans sa lutte contre la
pauvreté. L’économie du pays est en croissance permanente. Mais le respect des
droits de l’homme, la démocratie et l’économie de marché restent toujours les
exigences des Vietnamiens à l’égard du parti communiste, car le pays a suivi
l’économie de marché mais paradoxalement, l’État détient toujours le monopole
économique dans plusieurs secteurs importants. L’égalité dans la concurrence
économique est une condition indispensable.
Les intellectuels vietnamiens souhaitent que le
parti communiste entame des réformes profondes en matière politique et
économique. La rédaction d’une nouvelle Constitution démocratique peut ouvrir
la voie au changement du régime politique. La lutte des Vietnamiens en faveur
de la démocratisation du pays et du changement politique radical constitue une
grande occupation.
Certains cadres du parti communiste favorisent un
changement politique pacifique, ceux-ci collaborent avec les intellectuels
vietnamiens pour encourager la construction de la société civile. Les
Vietnamiens demandent solennellement au parti communiste de respecter les
droits constitutionnellement protégés. Il faut qu’il respecte également la
concurrence politique et économique, c’est à dire la garantie du pluralisme
politique et de l’économie de marché. Les dirigeants vietnamiens sont dans
l’embarras, face à la vive contestation de plusieurs couches sociales. Il faut
continuer à suivre le régime communiste choisi par les fondateurs ou il faut
changer dès maintenant du régime politique en faveur des intérêts du peuple.
Ménager la chèvre et le chou, c’est difficile en ce moment pour le parti
communiste, car le peuple veut vivre dans une vraie démocratie dont les
premières conditions sont réalisées depuis 23 ans de renouveau du pays.
Une question importante peut être toujours posée par
les personnes qui se doutent de la philosophie de la lutte sans violence: Est-ce
que ce choix de cette méthode de lutte est correct et réaliste face aux
gouvernants ayant une force de domination totale? Et peut-on parvenir au but
suprême en l’appliquant. Je me permets de donner quelques remarques sur la
lutte sans violence en faveur de la démocratie et des droits de l’homme au
Vietnam. Il s’agit de ma conclusion de cet article:
La démocratisation reste un long processus qui aura
des succès si le niveau de connaissance du peuple sur la culture juridique et
politique s’améliore. Les intellectuels d’élite vietnamiens prennent conscience
de cette exigence c’est pourquoi l’augmentation du niveau de connaissance,
l’ouverture de l’esprit et l’amélioration de la qualité de vie du peuple
constituent les éléments essentiels en faveur de la démocratie et l’État de
droit. La démocratie sera mieux assurée par les conditions matérielles
correctes, la naissance de la classe moyenne majoritaire dans la société et
l’urbanisation.
La lutte sans violence pour la démocratie se lie à
la critique permanente vis-à-vis du régime politique, elle n’a pas pour but
d’écarter les personnes qui servent ses institutions. Car la démocratie
garantit bien des droits humains s’agissant de l’égalité, de la justice et de
la recherche du bonheur. Il sera irraisonnable de répresser l’homme ou de
l’évincer pour y parvenir. L’usage de violence provoque de grands risques au
contraire des valeurs démocratiques.
La lutte sans violence pour la démocratie demeure
toujours une bonne méthode dans le but de consolider la démocratie se référant
à la négociation, au débat. Les militants disposent plus de force et de chance
de réussir. Lorsque leur influence sera importante il y aura certainement des
négociations entre les gouvernants tenant le pouvoir et les gouvernés
souhaitant le changement. On peut prendre le pouvoir par la violence mais on
doit toujours avoir besoin de la violence pour le préserver. C’est malheureux!
Car le pouvoir est l’opium du prince. La violence devient permanente et
évidente dans une société autoritaire. Il sera difficile d’établir une vraie
démocratie dans une telle société.
No comments:
Post a Comment