Posted by chepsuviet
on 11/03/2014
Hơi mất thì giờ và mệt vì phải
đọc và bình phẩm về thứ ngôn ngữ kỳ quái trên những bài thuộc chuyên mục “Bình
luận – Phê phán” của tờ báo đầu đảng gọi là “Nhân dân”, nên chỉ xin ghi chú,
trích dẫn (*) bài viết dưới đây, giúp độc giả dễ nhận ra các bài cùng những
người được “đánh”, mà không đi vào bình về cách “tham lam” trong bài, khi tác
giả xông vào phê phán, chỉ trích bừa bãi hàng loạt bài viết, trả lời phỏng vấn
của những nhà văn, trí thức có tiếng.
Có điều buồn cười nho nhỏ là
một tác giả có thể tạm gọi là “vô danh tiểu tốt” vì dùng “bí danh”, “ẩn danh”
đúng kiểu báo đảng (chứ chẳng phải bút danh của một cây viết tiếng tăm nào cả),
thế mà dám lớn giọng bàn chuyện học thuật rất ghê, chê trách, chụp mũ “lập
trường quan điểm” của những “cây đa cây đề” trong làng văn hóa. Có lẽ không dám
để tên thật, mặc dù có đảng và lực lượng “còn đảng còn mình” đầy quyền sinh sát
chở che, chính là sợ thiên hạ chê cười cái lối “táo gan” (vì nhờ nấp đóng …
đảng) kiểu này.
Và xin nhắc lại một nghi vấn mà
ở bài trước - Báo
Nhân dân “đánh” các nhà văn Võ Thị Hảo và Nguyễn Bình Phương đã
nêu, là “Phải chăng đây sẽ là một khởi đầu cho chiến dịch tấn công những nhà
văn đã và có thể sẽ tham gia vào Văn đoàn độc lập Việt Nam, mà mới
cách đây ít ngày đã ra đời Ban
vận động thành lập, do Nhà văn Nguyên Ngọc đứng đầu?” Bởi vì trong
số các nhân vật được “đánh” lần này, cũng có tên 2 vị trong danh sách vận động
“Văn đoàn độc lập VN”.
*
Thứ hai, 10/03/2014 – 10:32 PM
(GMT+7)
“Xét lại lịch sử” như vậy để làm gì?
Xét lại lịch sử để rút ra bài
học cho hiện tại, đó là một trong những biểu hiện của sự trưởng thành của ý
thức dân tộc trong khi tự đánh giá về mình, để qua đó phát huy các giá trị tích
cực, khắc phục các hạn chế.
Nhưng xét lại lịch sử để đề cao
một số nhân vật, triều đại vốn không được khẳng định với ý nghĩa tích cực, thậm
chí khơi dậy một số xu hướng tinh thần trong quá khứ để phủ nhận hiện tại là
hiện tượng cần phải xem xét, bởi nếu không sẽ đưa tới sự ngộ nhận…
Hơn 60 năm về trước, trên khu
đất cạnh đền Bà Kiệu (Hà Nội) có đặt tấm bia liên quan tới A. de Rhodes (Ðắc
Lộ) – nhà truyền giáo người Pháp, đã được một số người xác định là “có công chế
tác chữ Quốc ngữ”. Về sau, tấm bia không còn và cũng không thấy ai nhắc tới.
Vậy mà năm trước, tấm bia cùng “công ơn” của A. de Rhodes đã trở lại. Có người
còn yêu cầu phải tạc tượng, đặt tên đường mang tên A. de Rhodes. Thậm chí có
người coi tấm bia thất lạc là “do tư tưởng hẹp hòi không phù hợp với đạo đức
của dân ta”, và “vào thập niên 80 trên vị trí này đã dựng tượng đài Cảm tử
cho Tổ Quốc quyết sinh và người ta cũng quên luôn nhà bia đó”!
(1) Một số tác giả đã cố chứng
minh, khẳng định “công lao” A. de Rhodes, nhưng hầu như không ai nhắc tới vai
trò của những người đi trước ông này. Thí dụ, dù là tham khảo thì vẫn nên lưu ý
mục từ A. de Rhodes trên Wikipedia cho biết vào năm 1961, trên nguyệt san MISSI
của các linh mục dòng Tên người Pháp từng viết: “Dĩ nhiên, không phải chỉ riêng
mình cha Ðắc Lộ khởi xướng ra chữ Quốc ngữ. Trước đó, các cha thừa sai dòng Tên
người Bồ Ðào Nha ở Ma Cao đã nghĩ ra một số phát âm tiếng Việt, viết bằng các
mẫu tự la-tinh rồi”, và A. de Rhodes cũng đã thừa nhận: “Khi tôi vừa đến Nam Kỳ
và nghe người dân bản xứ nói, đặc biệt là phụ nữ, tôi có cảm tưởng mình đang
nghe chim hót líu lo, và tôi đâm ra ngã lòng, vì nghĩ rằng, có lẽ không bao giờ
mình học nói được một ngôn ngữ như thế… Chỉ có cha Francois Pina là hiểu và nói
được tiếng Việt, nên các bài giảng của cha Pina thường đem lại nhiều lợi ích hơn
là của hai cha Fernandez và Buzomi”. Nghĩa là trước A. de Rhodes đã có người
phương Tây hiểu và nói được tiếng Việt.
Các nhà nghiên cứu có thể còn
bàn thảo về việc chữ Quốc ngữ hình thành thế nào, phát triển ra sao,… nhưng dù
vậy khó có thể bác bỏ điều nhà báo Phan Quang đã viết trong bài Quá trình hình
thành chữ quốc ngữ: “Tuyệt đại bộ phận các nhà nghiên cứu phương Tây cũng như
Việt Nam từ trước tới nay không ai quy công đầu cho một tác giả đơn nhất mà đều
khẳng định chữ quốc ngữ là sáng tạo tập thể, mỗi người góp phần một ít; những
vị đi trước mở đường, những người kế tiếp hoàn thiện, nâng cao. Hình thành chữ
quốc ngữ là một quá trình. Hoàn thiện nó cũng là một quá trình chỉ có thể tạm
ngừng chứ không kết thúc, vì nó là một cơ thể sống đang phát triển”.
Thời gian gần đây việc “đánh
giá lại” một số người vốn không được đề cao trong lịch sử đang được một số tác giả
quan tâm như kết quả của “nhận thức mới”!? Ðề cập việc đánh giá một triều đại
chỉ trong hơn thế kỷ từng xảy ra hàng trăm cuộc khởi nghĩa nông dân, một nhà sử
học đã cho rằng “chưa thỏa đáng, chưa khách quan” vì đó là “thời kỳ mà nền sử
học Mác-xít đang hình thành nên sự ấu trĩ, giáo điều, công thức buổi đầu là
không tránh khỏi” (2). Ðánh giá như thế, phải chăng ông đã quên các câu
nói lưu truyền hằng trăm năm nay về việc “mãi quốc, khi dân”, “Vạn niên là Vạn
niên nào”,… mà các câu nói đó đâu phải là kết quả nghiên cứu của nền sử học
“đang hình thành nên sự ấu trĩ, giáo điều, công thức”? Hơn nữa nói như vậy,
chẳng lẽ mấy năm trước, một số nhà nghiên cứu chỉ dựa vào một cuốn sách không có tác giả,
không rõ niên đại để khẳng định lai lịch một ngôi đền ở Hà Nội, hay một nhà sử
học lên vô tuyến truyền hình nói như đinh đóng cột rằng: “Trần Hưng Ðạo là một
trong tứ bất tử của văn hóa truyền thống Việt Nam”(!) (3) cũng là kết quả nghiên cứu
của nền sử học “đang hình thành”? Nhưng có lẽ nổi trội trong xu hướng “xét lại
lịch sử” là việc một vài người sử dụng thủ pháp hiện đại hóa quá khứ để làm
sống lại vấn đề “khai dân trí, trấn dân khí, hậu dân sinh”, rồi khẳng định “vấn
đề lãnh thổ, khôi phục lãnh thổ quốc gia, tức vấn đề độc lập, được coi như là
một bộ phận cần thiết nhưng không phải là cứu cánh của chương trình dài hạn
rộng lớn, cơ bản hơn nhiều” (4) ! Và lập tức có tác giả hùa theo, như năm 2010,
PGS, TS PVC (5) nói: “Tôi từng phát biểu ngay trong lễ trao giải Phan Chu
Trinh: “Khẩu hiệu của chúng ta là “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn
minh”; phương châm ấy thua xa các cụ ngày xưa đã chủ trương là “khai dân trí,
trấn dân khí, hậu dân sinh”. Dân sinh là vấn đề cuối cùng, tuy rất quan trọng
nhưng vẫn phải đặt khai dân trí, trấn dân khí lên hàng đầu, rồi hậu dân sinh sẽ
đến như hệ quả tự nhiên. Còn dân giàu đâu phải là giá trị tự thân, nước mạnh
cũng không phải là giá trị tự thân. Nếu lấy tiêu chí đó làm đầu thì ta suốt đời
thua thiệt, chạy đuổi nước khác cũng không lại. Mà mạnh thì mạnh đến đâu, phải bằng Mỹ, Nhật, Pháp hay Trung
Quốc? Mà mạnh làm gì? Không những thế, ta lại đặt những ba tiêu chí: công bằng,
dân chủ, văn minh trên một mặt bằng xã hội là bất khả thi. Chúng ta cần phải
tìm những giá trị cao nhất, nhưng giá trị ấy là gì, ở đâu?… Ðã đến lúc cần sắp
xếp lại hệ giá trị, dân giàu nước mạnh là những phương tiện, nhưng không phải
là mục đích”!
Ý kiến trên đây không phải là
kết quả của suy nghĩ chín chắn, thấu đáo. “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh” là hệ thống yếu tố được xác định là mục tiêu mà nước Việt Nam
hiện tại cần vươn tới, còn “khai dân trí, trấn dân khí, hậu dân sinh” là các
biện pháp Phan Châu Trinh đề ra ở đầu thế kỷ 20 với hy vọng qua đó có thể chấn
hưng dân tộc. Với phương pháp khoa học và nhãn quan tỉnh táo, không ai so sánh
mục tiêu cụ thể mà một xã hội xác định cần phấn đấu đạt tới với các biện pháp
có tính cách là giả định của một xu hướng tinh thần. Là hệ thống yếu tố nên mục
tiêu có tính đồng bộ, toàn diện, không xác định mục tiêu nào phải đạt trước,
mục tiêu nào sẽ đạt sau. Còn biện pháp của Phan Châu Trinh, vì chữ “hậu” của
nó, mới đặt vấn đề việc gì làm trước, việc gì làm sau. Không phân biệt sự khác
nhau nên vị PGS, TS đã đi xa hơn người khởi xướng, từ đó phủ nhận các mục tiêu
mà cả dân tộc Việt Nam đang phấn đấu vươn tới. Nên PGS, TS mới không muốn “nước
mạnh, dân giàu”, vì theo ông “mạnh làm gì?”, và ông coi “dân sinh là vấn đề
cuối cùng… sẽ đến như hệ quả tự nhiên” của “dân trí, dân khí”! Nói cách khác,
ông không quan tâm tới việc đồng bào có cơm ăn, áo mặc, được học hành hay
không, ông coi có “dân trí, dân khí” là sẽ có tất cả! Thử hỏi với tinh thần duy
thức luận duy tâm chủ quan như vậy, ông PGS, TS muốn đưa đất nước này đi đến
đâu. Phải chăng theo ông Nhà nước không cần phải triển khai các chương trình
xóa đói, giảm nghèo, không cần phải hỗ trợ kinh tế cho đồng bào ở vùng sâu,
vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn,… chỉ cần “khai dân trí, trấn dân khí” là có
cuộc sống ấm no?! Lịch sử nhân loại cho thấy từ xưa đến nay chưa có một đất
nước, dân tộc nào bị cướp đoạt chủ quyền, bị nước ngoài đô hộ, lại có thể tự
phát triển, giành lại độc lập qua việc “khai dân trí, trấn dân khí”. Các dân
tộc bị chủ nghĩa thực dân đô hộ chỉ có thể phát triển sau khi tự mình đấu tranh
giành độc lập hay được trao trả độc lập vào lúc chủ nghĩa thực dân đã không thể
đương đầu với phong trào giải phóng dân tộc. Từ lịch sử của đất nước có thể nói
“dân trí, dân khí” có vai trò rất quan trọng, và ngày nay, trước rất nhiều
thách thức, trước sự tha hóa một số giá trị văn hóa, cần phải tiếp tục nâng cao
dân trí, chấn hưng dân khí, nhưng không thể vì thế mà xao nhãng chăm lo phát
triển đời sống mọi mặt của toàn xã hội. Mặt khác, trong một thế giới đã có rất
nhiều thay đổi, việc Nhà nước chủ động kết hợp đồng bộ những biện pháp cụ thể
để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, phát huy sức mạnh tổng
hợp của toàn dân, hợp tác với các quốc gia, dân tộc khác cùng phát triển,…
không chỉ là kết quả của quá trình tự ý thức, mà còn là một biểu thị cụ thể cho
tư cách làm chủ một đất nước độc lập, có chủ quyền.
Xem xét lại quá khứ, đánh giá
lại quá khứ là nhu cầu chính đáng của mỗi con người, mỗi cộng đồng dân tộc, vì
đó là một trong các yếu tố giúp con người và cộng đồng có suy nghĩ, hành động
đúng đắn hơn trong hiện tại, tương lai. Tuy nhiên, việc một số người nhân danh
“nhận thức mới” nhưng bỏ qua quan điểm lịch sử – cụ thể để đánh giá một số cá
nhân và triều đại đã đưa tới sự hồ nghi về động cơ, mục đích thật sự của sự xem
xét? Bởi không ngẫu nhiên gần đây, một blogger đã công bố entry Khi nghề xuyên
tạc lịch sử lên ngôi để cảnh báo. Ðánh giá nghiêm túc về hiện tượng này là thái
độ đối với quá khứ – thái độ khách quan, khoa học và công bằng.
CẨM KHÊ
—
* Mời xem:
1- PGS Hà Đình Đức: Nên dựng lại nhà bia Alexandre de Rhodes trên vị trí cũ bên Hồ
Gươm (Hà Nội mới, 9/5/2004). “Không biết ai đã phá bỏ nhà bia này?
Tấm bia đã từng làm đe ghè của mấy anh thợ khoá rồi làm bàn của bà bán nước chè
chén, rồi lang thang phiêu bạt ra tận bờ sông Hồng. Vào thập niên 80 trên vị
trí này đã dựng tượng đài: “Cảm tử cho Tổ Quốc quyết sinh” và người ta cũng
quên luôn nhà bia đó.”
2- Giáo sư Tương Lai : Lựa chọn
văn hóa, giải quyết “bi kịch” sử (Tuần VN/THVL, 19/6/2008). “Nguyên
nhân của bi kịch ấy có nhiều, song đúng như phân tích của GS Phan Huy Lê “về sử
học thuần túy, đó là thời kỳ mà nền sử học Mác-xít đang hình thành, nên sự ấu
trĩ, giáo điều, công thức buổi đầu là không tránh khỏi”. - Bàn thêm về tính trung thực của lịch sử (Báo
điện tử ĐCSVN, 13/11/2008).
3- Nhà phê bình Nguyễn
Hòa: Văn hóa học góp phần phát triển xã hội, con người (Nhân
dân, 19/8/2013). “… biên tập viên một đài truyền hình ở Trung ương
thản nhiên khẳng định trên màn hình: Trần Hưng Ðạo là một trong “tứ bất tử” của
văn hóa truyền thống Việt Nam!” - Nhà phê bình Nguyễn Hòa: Cẩn trọng trong việc truyền bá tri thức (Nhân dân,
21/10/2013). “Cách đây không lâu, người xem truyền hình đã rất ngạc nhiên
khi thấy biên tập viên một đài truyền hình nói rằng, Trần Hưng Ðạo là một trong
“tứ bất tử” của tín ngưỡng dân gian (!) “
4- Nguyên Ngọc: Xây dựng con người tự chủ, để dân tộc tự chủ, chương trình vĩ
đại bị dở dang của Phan Châu Trinh (BauxiteVN, 27/3/2011). “Và như
vậy, vấn đề lãnh thổ, khôi phục lãnh thổ quốc gia, tức vấn đề độc lập, được coi
như là một bộ phận cần thiết nhưng không phải là cứu cánh của chương trình dài
hạn rộng lớn, cơ bản hơn nhiều, mà ông biết và chủ trương phải tiến hành từng
bước.”
5- Phỏng vấn PGS-TS Phạm Vĩnh
Cư: “Còn giá trị nào cao hơn độc lập dân tộc?” (Tuần Việt
Nam, 11/8/2011). “Tôi rất tâm đắc khẩu hiệu mà các cụ ngày xưa đã chủ trương
là ‘khai dân trí, trấn dân khí, hậu dân sinh’. Dân sinh là vấn đề cuối cùng,
tuy rất quan trọng nhưng vẫn phải đặt khai dân trí, chấn dân khí lên hàng đầu,
rồi hậu dân sinh sẽ đến như hệ quả tự nhiên.
Còn như mục tiêu của chúng ta
hiện nay: dân giàu đâu phải là giá trị tự thân, nước mạnh cũng không phải là
giá trị tự thân. Nếu lấy tiêu chí đó làm đầu thì ta suốt đời thua thiệt, chạy
đuổi nước khác cũng không lại. Mà mạnh thì mạnh đến đâu? phải bằng Mỹ, Nhật,
Pháp hay Trung Quốc? Mà mạnh làm gì?”
No comments:
Post a Comment