Thụy Khuê
Sau hơn ba mươi năm kết
thúc chiến tranh, những đề tài vềchiến tranh dường
như cũng biến mất trên văn đàn chính thống Việt Nam. Chúng đã đầu thai kiếp khác hoặc
tìm cách trốn ra nước ngoài. Ngồi
hong váy ướt,tập truyện mới nhất của Võ Thị Hảo hội đủ hai
yếu tố: đầu thai kiếp khác mà vẫn phải chạy ra nước
ngoài, tháng 7 năm 2012, tủ sách Thi Văn Hồng Lĩnh của Bùi Xuân Quang ở Paris, xuất bản.
Võ Thị Hảo sinh năm 1956
tại Diễn Châu, Nghệ An, nổi tiếng
trên văn đàn với các tập truyện ngắn Biển cứu rỗi, 1992, Chuông vọng cuối
chiều, 1994, Người sót lại
của rừng cười, truyện dài Giàn thiêu,
2003, vv...
Trong tác phẩm mới nhất, Võ Thị
Hảo nhìn hội chứng chiến
tranh, độc tài và tội ác như tác dụng nhân quả thểhiện
qua những truyện ngắn huyền ảo. Cảm giác bị
tấn công mãnh liệt bởi những mạnh vụn trái phá và những chân rết ung thư tội ác tàn phá nội tạng người đọc.
Trang bìa Ngồi Hong Váy Ướt
Người ta đã và sẽ còn bỏ nhiều thời giờ, ngân quỹ để nghiên cứu, viết sách, làm phim, phân tâm những lính Mỹ bị điên sau khi tham dự chiến
tranh Việt Nam. Nhưng chưa ai nghĩ đến việc phân tâm lính Việt, người Việt,
bởi dân tộc ta thuộc dạng
"hơn người", hùng tính hơn người, chịu đựng
hơn người, cần gì đến thứ khoa học phô
trương, tốn tiền, phù phiếm, vô bổ.
Võ Thị Hảo chẳng phân tâm ai cả mà dùng phép phù thủy, cho chiến tranh, độc tài, hủ lậu và tham nhũng vào chung một rọ, xóc cho ngầu, phơi cho bốc hơi, toả khói, biến các chứng liệu hoá thân thành cây cỏ, đất trời, rắn rít, con
ong, con nhện, đám mây, ngọn gió... Toàn bộ thiên nhiên trong không gian Võ Thị Hảo, sau nửa thế kỷ chiến tranh và độc tài, trở thành hậu thân của một thế giới, trước kia đã từng có người, đã từng là người. Những giá trị "vĩnh cửu" như tình yêu, tình người, nhân tính... đều đã bốc khói, bay đi, chỉ còn trơ lại đống sắt vỡ vụn của trái phá, sắc nhọn, đâm chém, vô luân và tàn ác.
Dưới tựa đề khá xếch-xy Ngồi hong váy ướt là một tập 17 truyện ngắn, với những bức tranh siêu thực hoang vu, ngập mùi tử
khí, viết từ ngòi bút của một người đàn ông đã chết "chấm bút lông vào mạch máu đang chảy ở khuỷu tay mình viết lên những trang giấy trắng", về cái thế giới mà ông ta đã sống.
Trang đầu tiên là Bùa, một truyện xẩy ra ở
Thành Cổ Sơn Tây, là miền đất tổ lâu đời nhất. Sơn Tây,chính là nước Văn Lang, kinh đô Hùng
Vương, Trưng Vương, Phùng Hưng và Ngô Quyền. Người
ta nghi người chết đã lầm Sơn Tây với Quảng Trị, hoặc Sơn Tây bị biến
thành Quảng Trị. Hoặc đoán chừng người Sơn Tây bị lệnh "câm" trở thành người Quảng Trị. Hoặc Sơn Tây sau khi "cháy
chợ", bọn yêu quái bỗng "lớn phỗng lên",
nhân dân Sơn Tây vỡ nợ, phá sản, trốn vào ma túy hoặc tự tử, biến thành nhân
dân Quảng Trị, một thành cổ đang "thiu thiu ngủ" với những "oan hồn
nửa thức nửa ngủ trên
những đám mây trĩu sương tù đọng. Nước không chẩy và mây không
bay". Một quán phở đêm, quy tụ đủ mọi hạng người đến gặm xương đáy nồi,
thứ "xương bốc mả". Hàng phở bốc mảlà trạm cuối của sông mê.
Tại đây, người ta kểnhững
chuyện rùng rợn, trong một thế
giới người ma lẫn lộn. Một xã hội ăn xương bốc mả, ăn táo lê Trung Quốc ướp thuốc
không thối, có người chết của quý chĩa thẳng lên trời, có con ma thiếu máu, chân quắp vào cột cây số 12, có người bán máu lấy tiền tiếp máu cho ma...
Bùa chỉ là khúc dạo đầu để đi vào những mạch sống, mà
Mỵ Châu
thả bước xuống trần mở vào lịch sửngàn năm của những mạch sống khốc liệt ấy:
Pho tượng đá cụt đầu trong am Mỵ Châu một đêm chợt tỉnh sau bao nhiêu thế
kỷ. Chiếc thân đi tìm lại đầu mình. Mỵ Châu nhớ lại những giây phút chót của cuộc đời, nhớ những mảnh lông
ngỗng trắng tinh nàng rứt từ chiếc áo Trọng Thuỷ tặng, để dẫn đường cho chồng tìm mình trong cơn nguy biến, nhớ tiếng quân Triệu reo hò, nhớ
tiếng vó ngựa Trọng Thuỷ
"dựng ngược trên đầu hai cha con", nhớ tiếng thét rách gió của chàng, nhớ nhát kiếm cha già loáng trên gáy, đầu nàng rơi xuống, máu hoà với nước biển mặn chát. Đầu MỵChâu lưu lạc không
ngừng, không bao giờ lắp lại được với thân. Mỵ Nương đi xuyên nhiều thế kỷ, lầm lũi, không đầu, lần từng trang sử, dừng chân trên am thờnàng, nay đã trùng tu, nàng đã được xây nhà mới. Người ta dúi vào tay nàng cơ man của đút, lót tiền giả đểmua tiền thật, mua sự
bất tử. Cái giếng Trọng Thủy trầm
mình, nay đã trùng tu thành lỗ huyệt láng xi
măng cho tiện vét tiền du khách ném xuống. Thân nàng được phủ những chuỗi hạt
nhựa, phủ lụa là gấm vóc "bóng lộn và hăng hắc độc" dệt từ quê hương
Trọng Thủy. Mỵ Châu choáng váng, tìm chốn nương thân
nhưng vô ích. Nàng không còn chỗ trên quê hương mình. Trong đền An Dương Vương đã trùng tu quê kệch, một đám mặt
mũiđẹp đẽ béo tốt đang yến tiệc,
"miệng ngo ngoe những cái đầu rắn". Mỵ Nương thấy mạch sống thế kỷ XXI tàn tệ hơn thế kỷ của nàng, trên đất nước Văn Lang đang xum xoe chào đón một thời kỳ bắc thuộc mới.
Hội ngộ là
những bức tranh siêu thực chồng nhau theo một trật tự hắc ám: Một người đàn bà chồn đu đưa thân thể trong khu rừng độc, "nàng chun mũi nghiêng sang hướng bắc. Hướng bắc đến từ ngọn gió mang mùi của những đám cháy và của
xương người. Nàng
nghiêng hông về đằng nam. Hướng nam lờ lợ mùi bột ngọt và gươmđao." Một
người đàn ông chỉ còn bả vai, không cổ, không tay, "một cánh tay đã chia cho phương nam, một cánh tay đã chia cho phương bắc. Chúng bị đạn tiện đứt lìa, trong hai lần khác nhau,
một ở rừng, mộtở biển". Một con ong lạc tổ loạng
choạng trongđêm... Trên cánh và tấm lưng eo thắt, nồng nặc mùi ong
Chúa, mùi ngục tù và tử khí. Con ong lạc đàn quờ quạngđâm sầm vào đầu vú người đàn ông không cổ không tay. Một con ong Chúa đang nằm thoi thóp,
bỗng trở mình, nhận ra mùi phản trắc, nó hoàn toàn lai tỉnh, gửi
"mật" lệnh "ngòn ngọt
từ tử cung" -thứ mật ong Chúa dùng để mê hoặc và cầm tù đồng loại- huy động toàn bộ đàn ong thám tử đi truy lùng, xé xác con ong lạc tổ,bay
trật đường rầy...
Hội ngộ giữ trọn vẹn sự bí mật
của một văn bản thuần túy huyền ảo, là một bản thi họa giao duyên giữađầu Ngô và mình Sở, tạo ra một thứ
phi lý bức tửcủa một thế giới
mà cõi sống phi nhân là phiên bản, là hậu thân của chiến tranh và đàn áp.
Người chăn bò thần thánh, là thứ
hiện thực huyền ảo trắng trợn, vẽ hẳn một bức tranh khôi hài, hãi hùng: Tổ chức nhân đạo quốc tế gửi tặng đàn bò sữa cho một vùng mà nhà nghiên cứu của tổ chức này đã mục kích tận mắt cảnh cả trăm
người cầm dao quắn xông vào tranh nhau xẻo thịt một con trâu chết, loáng cái hết nhẵn. Lễ "khánh thành bò" được tổ chức vô cùng trọng thể, vú bò được thắt nơ, cổ bò đượcđeo các khẩu hiệu kinh điển:
"cần kiệm liêm chính", "học tập đạo đức Hồ Chí Minh", "cán bộ là đầy tớ của nhân dân", v.v... Mọi việc được
phân công rành rẽ, đàn bò trở thành bò tập thể dưới sự quản lý của nông trường.
Rủi thay, ông chủ tịch nông trường lại có đứa con cậu trời. Một hôm ông đi họp vắng, nó và lũ bạn thèm rượu thịt bèn lấy dao xẻo phắt miếng vai con bò ngoại, xơi tái. Người
cha về la rầy, thằng con Khổng Minh rỉtai hiến kế... xẻo thịt bò mà vô can. Mỗi miếng thịt xẻo được
thay thế bằng một chiếc bong bóng
thổi phồng dán vào thân bò. Kết cục đàn bò ngoại trở thành
trong suốt như bong bóng, một đàn bò thuần xương, không thịt. Thịt bò mừa mứa, ăn, bán không hết, đem đấm mõm cấp trên. Các nông trường viên chăn bò sợ bị đuổi không dám ho he. Các đoàn kiểm tra đã được nếm mùi bò ngoại đều chứng nhận những cỗ
xương bò di động là bò đích thực. Thậm chí cả bọn rận, bọ chét, ve,
mòng... cũng thoả mãn, chúng thả cửa no nê xơi
tiệc sẵn trên thân bò lở lói, máu tràn vào miệng nhưlũ không cần vòi hút. Khi đã quán triệt nguồn lợi bò, ông chủ tịch nông trường bèn nhường chức lại cho
người khác, xin cất nhắc lên chức to hơn, lần này có thể là nông trường chăn voi
ngoại.
Bỗng đâu nhà nước nhận được một đơn kiện, bọn đầu đơn không ai xa lạ mà lại là bọn rận, bọ chét, ve, mòng, dĩn... thấy quyền lợi của chúng ngày càng có nguy cơ tận diệt, viết đơn tố
cáo như vầy: "Đau
xót vì tình trạng thịt rơi máu chảy
của đàn bò, của tài sản tập thể bị xâm hại... Đàn bò hiện nay con nào cũng chỉ sót lại một mẩu thịt ở mông, còn tất cả da thịt và gân của chúng đều bị các chủ bò lần lượt xẻo đi và thay thế bằng những quả bóng trong suốt. Xin cấp trên trừng trị để làm gương..." Bọn ve
mòng hý hửng đợi phép nước nghiêm minh, nào ngờ kết quả ngược lại: Trên đem toà án di động về "xét xử
các tội
phạm Ve, Mòng,
Rận, Dĩn, bởi
tiền sử chúng đen tối, hiện tại chúng mờ ám và tương lai của chúng không cải tạo được". Toà tuyên án tử
hình cả bọn, hả hê coi như "đã triệt được nguyên nhân của mọi nguyên nhân". Nào ngờ vẫn chưa hết, một tin sét đánh, ban kiểm tra đoàn bò quốc tế phôn về, đích thân đến tham quan. Thế là hoảng
loạn, các phòng, các ban, các chủ bò xôn xao bàn cãi, quy trách nhiệm. Cuối cùng họ nhất trí ra
chỉ thị :"Bởi các nông trường viên chăn bò vô trách nhiệm, trình độ khoa học kém cỏi, nên đã để cho đàn bò mất hết thịt, nay phải xẻo thịt mình đền vào". Bọn
chăn bò thấp cổ bé miệng không dám kêu ca, đành xẻo thịt mình đắp vào những chỗ trống. Đàn bò có da thịt trở lại. Một
thế hệ Người chăn bò thần thánh mới lại xuất hiện, lần
này họ không xẻo thịt bò nguyên chất, mà xẻo đàn bò đã được đắp thịt người.
Người đọc giật mình, quái đản, không hiểu từ đâu ra lối huyền ảo này?
Truyện Huyền ảo, huyền hoặc hay hoang đường, tiếng
Pháp fantastique,
tiếng Việt có nghiã: truyện ma quái,
truyện hoang đường, truyện không có thật. Liêu trai chí
dị là một loại huyền ảo kinh điển
phương Đông, hoàn toàn khác với lối huyền ảo phương Tây hoặc
châu Mỹ la tinh. Huyền ảo
gắn bó sâu sắc với tôn giáo, triết lý và môi trường sống khác nhau của mỗi dân tộc.
Dòng huyền ảo lâu đời nhất có lẽ là huyền ảo Châu Mỹ la
tinh, gắn bó với thánh kinh Maya, trong đó, con
ngườiđược thần ngô nặn lên từ bắp ngô. Ngô đối với người Maya như gạo đối với
người Việt. Những truyện cổ tích của
người Maya xưa xây dựng trên một vũ trụ mà thiên nhiên là chủ thể. Mây, núi, sông nước, cỏ,cây... điều hoà sự quân bình thế giới và sinh ra con người. Trái
ngược với các hình thức cổ tích Đông Tây: con người là chủ
thể của muôn loài, thần thánh cũng là người.
Từ sự kiện thiên nhiên cây cỏ, muông thú đều có tiếng nói, đều có thể họa nên những hình thái nên thơ và dưỡng nuôi sự sống, người Maya đã tạo nên một khái niệm huyền ảo tự nhiên như ta ăn và thở. Sau này, các tác giả nổi tiếng Châu Mỹ la tinh đều dựa
vào nguồn gốc văn hoá Maya của họ để tự tạo cho mình
những hình thức huyền ảo cá biệt.
Ở Asturias, nhà văn Guatemala, là một
thứ huyền ảo thuần khiết Maya, khái niệm
"người ngô" (l'homme de
maïs) vừa hiền lành, vừa bao quát thực tế: nếu không có ngũ cốc, làm sao con người sống sót, làm sao còn người. Asturias tranh
đấu cho quê hương ông, chống lại chế độ thực dân, chống lại các thể chế độc tài, chống lại quyền lực của tư bản Mỹ áp đảo sự sống còn của nông dân trên nền đất Châu Mỹ la tinh.
Ở Marquez, nhà văn Colombie, là sự
huyền ảo khốc liệt của những người dân da đỏ hận thù những kẻ chinh phục
(conquistadors) đã cưỡng hiếp tổ tiên mình để sinh ra mình. Một mối căm thù tổ tiên, căm thù tác giả đẻra mình. Những quái
thai, những bạo tàn, những tha hoá, loạn luân, những điềm, những mộng, những đầu
người mình thú... trong truyện của Marquez, phản ảnh niềm uấtức truyền kiếp,
khôn nguôi của những con người là sản
phẩm, không phải của tình yêu mà của cuộc hãm hiếp tập thể một
giống nòi, một dân tộc.
Về huyền ảo, Jean Paul Sartre phân tích: "Mô tả sự kỳdị phi thường chưa phải là điều kiện cần và đủ để đạt tới
huyền ảo. Một biến cố lạ kỳ, xẩy
ra trong một xã hội có trật tự, có pháp lý, sẽ
bị rơi vào vòng trật tự chung: Nếu bạn cho một con
ngựa đột nhiên nói, thì tôi bảo nó bị ma làm trong chốc lát. Nhưng nếu bạn cho nó diễn thuyết dông dài suốt dọc hành trình qua rừng cây im lìm, trên nền đất bất động, tôi chấp nhận cho nó cái quyền nói,
nhưng tôi không coi nó là ngựa nữa mà cho nó là người trá hình ngựa. Ngược lại, nếu bạn muốn làm cho tôi tin rằng con ngựa này là huyền ảo, thì bạn
phải làm sao
cho những hàng cây, đất đai và đồng ruộng cũng là huyền ảo nữa, mà bạn không cần nói ra".
Sartre viết tiếp: "Huyền ảo là một thế giới toàn diện mà sự vật biểu hiện một tư tưởng quyến rũ đòi đoạn,
vừa bất thường vừa lôi
cuốn, gặm nhấm trong cơ thể nhưng không thể
diễn tả thành
lời".
Và ông đưa ra một định
nghiã huyền ảo: "Huyền
ảo trình bầy
hình ảnh
lật ngược của sự hội tụ linh hồn và thể xác. Linh hồn chiếm chỗ của thể xác và thể xác
chiếm chỗ của linh hồn. Để nhận
diện hìnhảnh
này, chúng ta không thể dùng những ý tưởng sáng tỏkhúc triết, mà phải dùng những ý tưởng rắm rối, "huyền ảo", nói cách khác, chúng ta phải đi vào chỗ mờ ảo, với đầu óc trưởng thành, có văn hoá, với
cá tính nhiệm mầu của một kẻ mơ mộng, của con
người nguyên
thuỷ, con người trẻ thơ." (Sartre, Aminadab, Situations
I, Folio essais, trg 115).
Lối huyền ảo trong truyện ngắn của Võ Thị Hảo, phát sinh
từ sự tùng xẻo, một "nghệ
thuật" hành quyết mang đặc tính đông phương, có trong
sử sách Tầu, Việt. Lối huyền
ảo của Võ Thị Hảo mang chất nồi
da xáo thịt, đặc tính Việt Nam. Lối huyền
ảo của Võ Thị Hảo mang tính áp đảo phụ quyền, cha truyền con nối trong gia đình, trong dòng họ,
trong xã hội, trong chính quyền, từ Khổng Mạnh truyền thẳng sang Xít Ta Lin, Mao, Hồ, Lê
Duẩn... không trung gian, không đứt đoạn. Lối huyền ảo của Võ Thị
Hảo giao thoa độc tài và tham nhũng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghiã, tạo
nên những quái thai người ăn thịt
người kiểu Lỗ Tấn. Lối huyền ảo của Võ Thị
Hảo có cái dã man trong xã hội Mạc Ngôn.
Những nhà văn phụ nữ miền Bắc như Dương Thu Hương, Phạm Thị Hoài, Võ Thị Hảo, có đặc tính khốc liệt mà những
nhà văn nữ trong Nam không có. So cái khốc liệt trong văn
chương Võ Thị Hảo thì cái sắc sảo trong văn chương Túy Hồng hiền như bụt.
Tại sao? Bởi miền Nam đàn bà chưa phải đi lính, chưa nhìn thấy cái khốc liệt của chiến tranh. Bởi Dương Thu Hương, Võ Thị Hảo... sinh ra và lớn lên
trong một môi trường không nhân nhượng. Dương Thu
Hương đã chứng kiến cảnh đấu tố,đã đi đánh nhau. Võ Thị Hảo sinh sau, nhưng đã thu
thập vốn liếng bạo lực của những người đã nhận
nhưng phải gói ghém, giấu diếm trong lòng:
những người mẹ,người chị, xung phong đi lính, đi hộ lý, trở về điên dại trong Rừng cười. Như
nam châm, Hảo thu hút những khối u mà người
xấu số để lại hôm qua, và hôm nay con em họ vẫn còn tiếp
tục cúi đầu nhận độc tố của một gia đình, một xã hội, một thể chế, gọi
là mới, nhưng tất cả đều cũ, đều cổ, đều mục nát, như đầu óc, như sự phục tòng của
họ.
Là nhà văn dấn thân
trong chiều dầy của hai chữ dấn thân, là phụ nữ tranh đấu, Võ biết nếu con người không
thay đổi suy nghĩ, không biết suy nghĩ, thì đất nước không thể đứng dậy. Điều kiện tiên quyết làm thayđổi xã hội, thay đổi chính trị là người phụ nữphải thay đổi
trước. Sự bất phục tòng của họ sẽlà nền tảng của tất cả mọi thay đổi.
Chất huyền ảo trong truyện của Võ Thị Hảo, là sự huyền ảo của những
bức tranh siêu thực trong đó con người đã bị cắt chân tay, mỗi tứ chi ném đi một nơi, nam bỏ ra bắc, bắc bỏ vào nam, chúng gọi nhau, đầu tìm cổ,cổ tìm vai,
trong một định mệnh điên cuồng của xã hội âm ty trần thế. Cái thác loạn ấy sống lại
trong những thông tin hàng ngày, trong những vụ án mạng nhưcơm bữa, trong những hàng tin xe cán chó: con giết cha, chồng giết vợ, dẫy đầy trên mặt báo. Võ Thị Hảo lượm lặt những
tin tức chó cán, viết ra, đặt nó trong cái huyền hoặc hàng ngày của cuộc sống. Ngòi bút của chị lột trần mặt
trái bi kịch, tìm đến chiều sâu lịch sử của bi kịch, từ đấy Hảo
chỉ đích danh tội ác, chỉ cái thủ phạm nấp đằng
sau tội ác, chỉcái cha đẻ của tội ác để vạch ra sự ngu muội
của con người. Mục đích của Võ Thị Hảo là vén màn phát giác sự ngu muội của con
người. Con người mụ mị chấp nhận độc tài, con người gật đầu tất
cả để được yên thân, con người bị đàn áp tư tưởng, cúi mọp
chịu phận. Võ Thị Hảo muốn giải
phẫu, móc cái mê, cái sợ,ra khỏi trái tim
con người.
Một mình một ngựa, vén màn đối lập bằng cách xây dựng thành lũy huyền ảo trên
những con người đã bị xé xác, hồn phanh trăm mảnh, để chống lại thành trì
kiên cố xây bằng vi khuẩn tham nhũng, lừa đảo, trộm cắp,điêu ngoa của những con
ong Chúa mê hoặc đồng loại bằng thứ mật
ngọt giết người. Hiện thực huyền ảo của Võ Thị
Hảo là cuộc trực chiến giữa
hai thành trì. Võ một mình một trận chiến. Một mình một
nghiã địa.
Thụy Khuê
Paris, 24/11/2012
No comments:
Post a Comment